Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 111 »»

Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 111

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.74 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.93 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Đại Bửu Tích

Kinh này có 120 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 100 | 101 | 102 | 103 | 104 | 105 | 106 | 107 | 108 | 109 | 110 | 111 | 112 | 113 | 114 | 115 | 116 | 117 | 118 | 119 | 120 |
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

XXXX. PHÁP HỘI TỊNH TÍN ÐỒNG NỮ THỨ BỐN MƯƠI
Như vậy, tôi nghe một lúc Ðức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm người câu hội.
Ðại Bồ Tát tám ngàn người, tất cả đều là tri thức của mọi người.Các Ngài đã được đà la ni vô ngại biện tài, có đủ các nhẫn hàng phục ma oán đến các pháp đã được của Như Lai.
Danh hiệu của các Ngài là: Trì Thế Bồ Tát, Trì Ðạo Bồ Tát, Trì Ðịa Bồ Tát, Trì Ðại Ðịa Bồ Tát, Lạc Ý Bồ Tát, Linh Tín Lạc Bồ Tát, Diệu Sắc Trang Nghiêm Bồ Tát, Bửu Diệm Bồ Tát, Bửu Tràng bồ Tát, Bửu Tư Bồ Tát, Bửu Xứ Bồ Tát, Bửu Huệ Bồ Tát, Bửu Ðức Bồ Tát, Bửu Quang bồ Tát, còn có chư Bồ Tát Hiền Kiếp mà Di Lặc Bồ Tát làm thượng thủ, còn có sáu mươi vô đẳng dụ tâm chư Bồ Tát mà Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm thượng thủ, còn có mười sáu Ðại Sĩ mà Hiền Hộ Bồ Tát làm thượng thủ, còn có hai vạn Thiên Tử Ðâu Suất đều ở trong pháp hội.
Bấy giờ Ðức Thế Tôn ngồi tòa sư tử Ðại Trang Nghiêm Tạng, vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, quang minh chiếu sáng như nhựt nguyệt, oai đức thù thắng như Ðế Thích Phạm Vương, cao vọi vượt chúng như núi Tu Di, tia sáng chói rực như lửa đuốc lớn, nhìn ngó an tường như đại tượng vương, thuyết pháp vô úy như sư tử hống, che trùm đại chúng như La Hầu La Vương, tướng hảo trang nghiêm oai quang xí thạnh, phát xuất phạm âm vang khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới, vì muốn giác ngộ tất cả chúng sanh khiến đều an trụ thắng nghĩa quyết định nên ở giữa đại chúng rộng tuyên pháp yếu.
Ái nữ của vua Ba Tư Nặc tên Tịnh Tín tuổi còn ấu trĩ, dung mạo đoan nghiêm được mọi người ưa nhìn, đời trước gieo trồng gốc lành tu tập đại thừa, cùng năm trăm đồng nữ sau trước vây quanh tay cầm vòng hoa xuất thành Xá Vệ tiến đến rừng Kỳ Ðà đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng đứng qua một phía. Rồi ở trước Phật, nàng nói kệ rằng:
"Lâu tích phước thiện nghiệp thanh tịnh
Ðầy đủ vô biên biển công đức
Khiến chúng tin ưa đều vui mừng
Nên tôi đảnh lễ đấng Mâu Ni
Hiển hiện oai quang tướng kỳ đặc
Khai thị pháp môn tạng trân bửu
Thân quang một tấm thường chiếu sáng
Tôi lễ Ðại Huệ ao thanh lương
Cây to công đức phước vô tận
Tối tôn trong người đời khen ngợi
Bổn nguyện giới hạnh đã viên mãn
Nên tôi đảnh lễ đấng Ứng Cúng
An trụ diệu pháp thường yên lặng
Lòng thương chúng sanh như con một
Trí huệ thiện xảo biết các hành
Chỉ đường bình thản như Ðạo Sư
Nếu có người kiên cố dũng mãnh
Từ bi lợi ích loài chúng sanh
Bồ Tát như vậy chánh tu hành
Duy nguyện Như Lai tuyên dạy họ
Thế nào sẽ được sức vững chắc
An trụ sanh tử hàng phục ma
Thế nào sẽ được pháp bình đẳng
Thế nào thành thục các chúng sanh
Thế nào như địa như hư không
Như phong như thủy cũng như hỏa
Thế nào tín tâm ở nơi pháp
Như Tu Di Vương Sư Tử Vương
Thế nào xa rời lòng ghét thương
Tâm sạch trách trực không siểm khúc
Thế nào xuất sanh thí giới nhẫn
Tinh tiến thiền định và giải thoát
Trí huệ phá các phiền não tối
Mà thường an lạc đại phương tiện
Tam muội tổng trì vô ngại biện
Trụ tứ vô lượng ngũ thần thông
Thế nào được ở gần chư Phật
Thường thọ hóa sanh hóa túc mạng
Ðầu đà vô tránh ở lan nhã
Ðiều phục tâm mình dứt phiền não
Trì giới tu tập đạo Bồ Ðề
Chứng đạo cam lồ hàng ma oán
Thí chúng an lạc chuyển pháp luân
Chánh đạo như vậy nguyện tuyên nói".
Ðức Thế Tôn bảo Tịnh Tín đồng nữ rằng: " Bồ Tát nếu thành tựu được tám sức lực thì ở trong sanh tử kiên cố dũng mãnh không mỏi mệt.
Một là sức chí nguyện vì không dua dối. Hai là sức thắng giải vì lìa các ác. Ba là sức gia hạnh vì thường tu điều lành. Bốn là sức tịnh tín thâm tín nghiệp báo. Năm là sức Bồ Ðề tâm vì chẳng cầu Tiểu thừa. Sáu là sức đại từ vì chẳng hại chúng sanh. Bảy là sức đại bi và kham nhẫn các ác. Tám là sức thiện hữu vì luôn luôn cảnh giác. Nầy đồng nữ! Ðây gọi là tám sức lực, nếu Bồ Tát thành tựu sức lực nầy thì kiên cố dũng mãnh ở trong sanh tử không nhiễm trước".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"Chí nguyện dũng mãnh
Rời lìa siễm cuống
Thường hành chất trực
Ðúng đường Bồ Ðề
Dùng sức thắng giải
Xa lìa các ác
Thuần tu hạnh lành
An trụ chánh cần
Gia hạnh đầy đủ
Hằng khéo quan sát
Tinh tiến kiên cố
An lạc chúng sanh
Do sức tịnh tín
Biết rõ nghiệp báo
Tin nơi Phật trí
Nhiếp thọ thế gian
Sức tâm Bồ Ðề
Xa lìa Tiểu thừa
Chẳng dứt Phật chủng
An trụ pháp tánh
Do sức đại từ
Bình đẳng chúng sanh
Không yêu không ghét
Chẳng làm giận hại
Do sức đại bi
Chịu được các ác
chẳng nhiễm sanh tử
Cũng không mỏi mệt
Do sức thiện hữu
Thường cảnh tỉnh nhau
Lòng chẳng thối chuyển
An trụ Bồ Ðề
Người tinh tiến tu
Ðược tám sức nầy
Sẽ ngồi đạo tràng
Phá các chúng ma
- Lại nầy đồng nữ! Vì Bồ Tát đã thành tựu tám pháp nên an trụ nơi bình đẳng:
Một là tất cả chúng sanh bình đẳng vì bổn vô ngã. Hai là tất cả pháp bình đẳng vì các pháp tịch tĩnh. Ba là tất cả thế giới bình đẳng vì đều nhập vào không giới. Bốn là tất cả trí bình đẳng vì bình đẳng thuyết pháp.Năm là tất cả hành bình đẳng vì nhơn duyên vô tánh. Sáu là tất cả thừa bình đẳng vì đồng vô vi. Bảy là tất cả tâm bình đẳng vì tâm như huyễn. Tám là tất cả ma bình đẳng vì phiền não làm trước bất khả đắc. Ðây là tám pháp an trụ bình đẳng".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"
Niệm niệm bất khả đắc
Người an trụ bình đẳng
Phải quan sát như vậy
Tất cả pháp bình đẳng
Bổn tánh thường không tịch
Văn tự có phân biệt
Các pháp vốn không khác
Mười phương các quốc độ
Biên tế bất khả đắc
Tánh nó như hư không
Phật quốc thường bình đẳng
Tam thế chư Như Lai
Trụ pháp giới bình đẳng
Vô biên trí giải thoát
Chư Phật đều như vậy
Chúng sanh bổn duyên khởi
Tất cả đều bình đẳng
Khéo biết họ sở hành
Dùng chỗ khai ngộ họ
Chúng sanh bao nhiêu thứ
Biết rõ như huyễn hóa
Trong ngoài vô sở thủ
Tự tánh thường thanh tịnh
Các thừa nói các pháp
Tánh vô vi bình đẳng
Ðạo Sư thiện phương tiện
Phân biệt nói ba thừa
Hiện ở phiền não ma
Phiền não vô sở hữu
Thiên ma uẩn tử ma
Cảnh giới nó đều không
- Lại nầy đồng nữ! Vì Bồ Tát đã thành tựu tám pháp nên rời lìa ghét thương:
Một là từ, hai là bi, ba là thường làm lợi ích, bốn là chẳng nhiễm thế pháp, năm là chẳng luyến thân mình, sáu là thường tu định tâm, bảy là xả ly thân mạng, tám là quan sát phiền não. Tu tám pháp nầy thì có thể rời lìa ghét thương vậy".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"Mặc vững giáp từ tâm
Thương xót tất cả loài
An trụ tâm bình đẳng
Thì chẳng sanh yêu ghét
Người trí làm lợi ích
Thường ban cho an vui
Ðược lợi chẳng tự cao
Bị khi chẳng sanh giận
Chẳng bị tám gió động
Thì chẳng sanh yêu ghét
Với mình và với người
Chẳng nghĩ tưởng ghét yêu
Ðều bỏ lìa ý tưởng
không luyến trước cảnh giới
Thường tự xem thân mình
Chẳng luyến tiếc thân mạng
Người trí nơi khổ vui
Bất động như hư không
Khéo quan sát phiền não
Lìa cả ngã ngã sở
Gìn lòng hằng như đất
Thì chẳng sanh yêu ghét
- Lại nầy đồng nữ! Vì Bồ Tát thành tựu tám pháp nên ở trong sanh tử không có mỏi mệt:
Một là vì thiện căn quảng đại. Hai là vì quan sát chúng sanh. Ba là vì thường được thấy Phật sắm đồ cúng dường. Bốn là vì được thấy vô lượng Phật độ. Năm là vì thường cầu Phật trí. Sáu là vì biết rõ sanh tử như mộng. Bảy là vì đối với pháp thù thắng không khiếp nhược. Tám là quan sát tiền tế và hậu tế đồng như thiệt tế".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"Nếu những người hành đạo
Tu lành không vết nhơ
Như không nguyệt thanh tịnh
Ðộ thoát khổ chúng sanh
Vì nhiếp các công đức
Ở sanh tử không mệt
Quan sát tánh chúng sanh
Bền vững tu tinh tiến
Nơi vô lượng Phật độ
Cung kính cúng dường Phật
Thế nên bực thập lực
Ở sanh tử chẳng mỏi
Vô lượng vô biên đời
Thuyết bất tư nghì pháp
Chẳng dứt giống Tam bửu
Sẽ thành giống Pháp Vương
Người kiên trì cấm giới
Ở sanh tử chẳng mệt
Biết rõ tánh sanh tử
Như mộng như mây chớp
Nơi pháp được giải thoát
Ở sanh tử chẳng mỏi
An trụ nơi Bồ Ðề
Lòng mừng luôn vui vẻ
Ðến nơi bờ phương tiện
Ở sanh tử không mệt
Thường tu pháp thù thắng
Như không nguyệt thêm tròn
Ưa thích Phật công đức
Ở sanh tử chẳng mỏi
Sanh tử không biên tế
Thường an trụ thiệt tế
Một niệm huệ tương ưng
Ở sanh tử không mệt
- Lại nầy đồng nữ! Vì Bồ Tát thành tựu tám pháp nên tâm giới bình đẳng:
Một là tâm như địa. Hai là tâm như thủy. Ba là tâm như hỏa. Bốn là tâm như phong. Năm là tâm như hư không. Sáu là tâm đồng pháp giới. Bảy là tâm đồng giải thoát. Tám là tâm đồng Niết Bàn. Ðây gọi là tám thứ tâm giới bình đẳng".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"Tâm bình đẳng như đất
Gánh chở tất cả loài
Với thiện và với ác
Không có chỗ tăng giảm
Tâm bình đẳng như thủy
Rửa sạch các cấu dơ
Dưỡng dục các thế gian
Trừ khô khát phiền não
Tâm bình đẳng như hỏa
Ðốt cháy tiêu phiền não
Ánh sáng như đuốc lớn
Không chỗ nào chẳng sáng
Tâm bình đẳng như phong
Không xứ sở không nương
Thổi bay hương giới văn
Khắp đến khứ lai kim
Tâm bình đẳng hư không
Lìa kiến chấp thanh tịnh
Khắp nhập vào tất cả
Mà chẳng theo chúng ma
Tâm bình đẳng pháp giới
Khéo được thường an trụ
Chẳng tăng cũng chẳng giảm
Thường nhập vào bình đẳng
Thanh Văn và Duyên Giác
Chỗ chứng được giải thoát
Không còn có trói buộc
Cũng không có cởi trói
Sanh tử và Niết Bàn
Không lai cũng không khứ
An trụ nơi tịch tĩnh
Ði khắp trong tam thế
Lại nữa, nầy đồng nữ! Có tám pháp mà Bồ Tát thành tựu được thì xuất sanh Bồ Ðề:
Một là bố thí xuất sanh vì xả sở hữu vậy. Hai là trì giới xuất sanh vì không phạm lỗi vậy. Ba là nhẫn nhục xuất sanh vì không sân khuể vậy. Bốn là tinh tiến xuất sanh vì chẳng giải đãi thối thất vậy. Năm là thiền định xuất sanh vì hành phương tiện vậy. Sáu là huệ xuất sanh vì thọ trì đa văn vậy. Bảy là phạm trụ xuất sanh vì giải thoát tịch tĩnh vậy. Tám là thần thông xuất sanh vì thường tại chánh định vậy".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"Người thường hành bố thí
Rời lìa tham nhiệt não
Chẳng mong cầu quả báo
Hồi hướng Phật bồ đề
Trì giới tu Ðại Thừa
Ðập đánh không sân hận
Chí cầu đại an lạc
Trừ tập khi chứng diệt
Bồ Tát hành tinh tiến
Nhiều kiếp vì chúng sanh
Chịu khổ ở thế gian
Sức tinh tiến tăng trưởng
Người tu hành thiền định
Rời xa các hí luận
Ðến bỉ ngạn thiền định
Mà chẳng theo thiền sanh
Ðại huệ không gì bằng
Rời hẳn các chấp kiến
Biết rõ đời không tịch
Si tối dứt không thừa
Tịch tĩnh tu phạm trụ
Trừ sạch các ác đạo
Thường làm Thích Phạm Vương
Siêng tu các nghĩa lợi
Thần thông đạo Phật độ
Hầu Phật nghe Phật dạy
Khéo biết các tánh dục
Thuyết pháp độ chúng sanh
- Lại nầy đồng nữ! Vì thành tựu tám pháp mà Bồ Tát được đà la ni biện tài vô ngại:
Một là tôn trọng Phật pháp. Hai là kính thờ Hòa Thượng và A xà Lê. Ba là cầu pháp không chán. Bốn như chỗ được nghe mà thuyết pháp. Năm là chẳng bỏn xẻn chánh pháp. Sáu là chẳng rao lỗi người. Bảy là yêu kính pháp sư như Hòa Thượng. Tám là chẳng thấy lỗi người và khuyên người chừa lỗi".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"Chí nguyện thường cầu pháp
Thờ thầy gần thiện hữu
Rời xa ác tri thức
Ðược vô tận tạng trì
Ða văn không chán đủ
Dũng mãnh siêng cầu pháp
Như nghe mà diễn thuyết
Chẳng mong cầu lợi dưỡng
Ðược biện tài thanh tịnh
Khiến chúng đều hoan hỉ
Vui thích làm pháp thí
Rời xa bỏn xẻn ganh
Hành pháp vô sở trước
Chứng được đà la ni
Hộ giới tự quán thân
Chẳng tìm tội lỗi người
Từ bi làm y chỉ
Phát ngữ chẳng phi thời
Sẽ được vô ngại biện
Ðến bỉ ngạn ngôn thuyết
Với người thuyết pháp giỏi
Yêu kính như thầy mình
ẩn lỗi khuyên rời lỗi
Ðược biển vô tận trì
- Lại nầy đồng nữ! Vì thành tựu tám pháp Bồ Tát ở trước chư Phật liên hoa hóa sanh:
Một là dầu cho đến mất mạng cũng chẳng nói lỗi người. Hai là khuyến hóa chúng sanh khiến quy y Tam Bảo. Ba là an trí tất cả nơi tâm Bồ Ðề. Bốn là phạm hạnh không nhiễm. Năm là tạo lập tượng Phật đặt trên tòa sen. Sáu là chúng sanh ưu não khiến trừ ưu não. Bảy là với kẻ cống cao thường tự khiêm hạ. Tám là chẳng não hại người".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Dầu bị khổ bức thân
Trọn chẳng nói lỗi người
Thường ca ngợi Tam bảo
Hóa sanh ở trước Phật
Khuyên phát tâm Bồ Ðề
Khiến cầu Nhứt thiết trí
Thường tu hành phạm hạnh
Hóa sanh ở trước Phật
Vàng ròng trang nghiêm tượng
Ðặt trên tòa sen báu
Trừ ưu não chúng sanh
Hóa sanh ở trước Phật
Với kẻ kiêu mạn kia
Khiêm hạ như đệ tử
Chẳng để họ não phiền
Hóa sanh ở trước Phật
- Lại nầy Tịnh Tín! Có tám pháp mà Bồ Tát thành tựu công đức đầu đà thì thường thích an trụ nơi a lan nhã:
Một là thiểu dục. Hai là tri túc. Ba là mãn túc sở nguyện. Bốn là dùng thiện tự bồi dưỡng. Năm là thường trì thánh chủng. Sáu là thấy
Khổ sanh tử lòng thường chán lìa. Bảy là hàng quán vô thường. Tám là tín sâu vững chắc chẳng theo lời người khác".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"Thiểu dục tri túc bất phóng dật
Pháp hỉ các thiện làm tư dưỡng
Ưa thích thường tu nơi thánh chửng
Thấy khổ sanh tử sanh lòng sợ
Do đó thường thích hành đầu đà
Như tê một sừng ở cô độc
Quán pháp hữu vi khổ vô ngã
Huệ tâm thâm tín trụ chánh cần
Tự thấy nơi pháp chẳng theo người
Thường ở không nhàn được Phât khen
Ðầu đà viễn ly không não hoạn
Không các tranh luận những tội lỗi
Xa lìa quyến thuộc tuyệt khen tặng
Do đó thích ở a lan nhã
- Lại nầy Tịnh Tín! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì hàng phục ma oán:
Một là nhập vào tánh không. Hai là tin vô tưởng. Ba là tin vô nguyện. Bốn là biết rõ vô tác. Năm là trong không nghi hoặc. Sáu là nhẫn nơi vô sanh. Bảy là quyết liễu vô tánh. Tám là nơi tất cả pháp phương tiện quan sát chẳng hoại như như".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"Nơi không vô tướng và vô nguyện
Ðược ba giải thoát hàng ma oán
Hữu vi vô vi không hai tướng
Chứng nơi vô sanh được giải thoát
Các pháp vô sanh nhẫn như vậy
Người nầy hàng phục các ma oán
Ở trong vô sanh vô diệt nầy
Uẩn giới vô ngã dường như huyễn
Quyết định biết rõ pháp vô tánh
Chẳng hoại nơi như xảo phương tiện
Phân biệt các pháp là nghiệp ma
Xả ly phân biêt thì hàng ma
Trí huệ phương tiện làm cả hai
Hoặc có hoặc không vô sở trụ
Tu tập thắng pháp như vậy thảy
được thiện phương tiện diệu sắc thân.
- Lại nầy Tịnh tín! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì chẳng rời lìa Bồ Ðề:
Một là chánh kiến vì thành thục chúng sanh tà kiến vậy. Hai là chánh niệm vì bi mẫn chúng sanh tà niệm vậy. Ba là chánh ngữ vì thương các chúng sanh tà ngữ vậy. . Bốn là chánh nghiệp vì nhiếp các chúng sanh tà nghiệp vậy. Năm là chánh tinh tiến vì độ các chúng sanh tà cần vậy. Sáu là chánh mạng vì chẳng bỏ tà mạng chúng sanh vậy. Bảy là chánh tư duy vì khiến chúng sanh lìa tà tư duy vậy. Tám là chánh định vì phát khởi tăng tiến các chúng sanh tà định vậy".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"Người thành tựu chánh kiến
Giáo hóa kẻ tà kiến
Thường tu hành chánh niệm
Thương xót kẻ tà niệm
Thanh tịnh chánh ngôn thuyết
Thương các kẻ tà ngữ
An trụ nơi chánh nghiệp
Nhiếp những kẻ tà nghiệp
Thường tu hạnh chánh cần
Chẳng bỏ kẻ tà cần
Tương ưng chánh tịnh mạng
Nhiếp các kẻ tà mạn
Trí giả chánh tư duy
Thương xót kẻ tà tư
Thường an trụ chánh định
Nhiếp những kẻ tà định
Vô thượng bát chánh đạo
An ổn qua dòng dữ
Lại độ kẻ phiêu lưu
Là đạo đại Bồ Ðề
Thanh Văn và Duyên giác
Bè cỏ chỉ tự độ
Bồ Tát rộng cứu độ
Như tối đại thuyền trưởng
- Lại nầy Tịnh Tín! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì chứng đạo cam lộ
Một là an trụ pháp vô tránh. Hai là khéo giữ tâm vô chướng ngại. Ba là thường quán nghĩa như thiệt. Bốn là an trụ tâm Bồ Ðề tu sáu niệm. Năm là tinh tấn tu tập các Ba la mật. Sáu là chứa họp thiện căn thành thục chúng sanh. Bảy là an trụ đại bi nhiếp thọ chánh pháp. Tám là được vô sanh nhẫn an trụ bất thối chuyển"
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"Thường tu hạnh vô tránh
Trụ pháp đại Sa Môn
Xa rời lỗi sân khuể
Chứa họp các thiện căn
Khéo quán nghĩa chơn thiệt
Ðược những vô tận hiện
An trụ tâm Bồ Ðề
Thường niệm nơi vô niệm
Tất cả Ba la mật
Siêng tu không thối chuyển
Ðược các phương tiện lực
Do đây độ chúng sanh
Hay đem của Pháp Vương
Từ bi ban tất cả
Mau chứng vô sanh nhẫn
Bất thối chuyển Bồ Ðề
Nếu tu hành được vậy
Phật pháp chẳng khó được
Chẳng lâu hàng chúng ma
Chứng tối thượng Bồ Ðề".
Nghe pháp xong, Tịnh tín đồng nữ vui mừng hớn hở bạch Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Thành tựu mấy pháp có thể chuyển được nữ thân?".
Ðức Phật dạy: "Nầy Tịnh Tín! Thành tựu tám pháp thì có thể chuyển nữ nhân:
Một là chẳng ganh ghét. Hai là chẳng bỏn xẻn. Ba là chẳng dua nịnh. Bốn là chẳng sân. Năm là thiệt ngữ. Sáu là chẳng ác khẩu. Bảy là xả ly tham dục. Tám là rời các tà kiến.".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Chẳng tật đố người khác
Lìa bỏn xẻn ưa pháp
Chẳng có lòng siểm cuống
Chán ghét thân nữ nhơn
Tâm từ bỏ rời sân
Thường tu nói lời thiệt
Trừ tham lìa ác khẩu
An trụ trong chánh kiến
Nếu chán thân nữ nhơn
Nên tu pháp như vậy
Thì sẽ mau được chuyển
Thọ thân thiện trượng phu.
- Lại nầy Tịnh Tín! Nếu thành tựu tám pháp thì chuyển được nữ thân:
Một là tôn trọng chư Phật rất thích chánh pháp. Hai là cung kính cúng dường các Sa Môn Bà La Môn trì giới nhẫn nhục đa văn. Ba là đối với chồng con và cư gia chẳng sanh lòng luyến ái. Bốn là thọ trì cấm giới không khuyết phạm. Năm và với các người chẳng sanh tà niệm. Sáu là có ý nguyện tăng thượng chán lìa nữ thân. Bảy là an tru tâm Bồ Ðề pháp đại trượng phu. Tám là xem gia nghiệp thế gian như ảo như mộng".
Ðức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
"Kính Phật rất ưa pháp
Tôn trọng giới văn Tăng
Chẳng sanh lòng tham ái
Thân nữ sẽ chuyển mau
Trì giới đủ tàm quý
Chẳng vọng niệm người khác
An trụ tâm Bồ Ðề
Chẳng ưa pháp nhị thừa
Do đây mau chuyển được
Thân người nữ bất tịnh
Thắng chí tâm chán lìa
Tất cả đều như huyễn
Các pháp bổn bất động
Nhơn duyên tánh không tịch
Siêng tu pháp như thiệt
Chóng được thân trượng phu.
Bấy giờ Tịnh Tín đồng nữ đem tràng hoa vàng mà cô đang cầm tán lên trên Ðức Phật, hoa ở trên hư không biến thành cung điện lâu các chơn kim, trong cung điện ấy có đức Hóa Phật ngồi tòa vàng. Năm trăm đồng nữ cũng cời đồ trang sức tán lên trên Ðức Phật biến thành lâu các chơn kim ở trên hư không có trướng báu lọng báu các thứ trang nghiêm. Thấy đại thần biến ấy, năm trăm đồng nữ khác miệng đồng lời nói kệ rằng:
"Thế Tôn thù thắng nhứt loài người
Thương xót lợi ích các chúng sanh
Nay tôi đã phát tâm Bồ Ðề
Chí nguyện tương ưng trụ điều phục
Làm thầy thế gian ban an lạc
Tôi phải cúng dường Nhơn Trung Tôn
Nghe pháp đã lìa các trần cấu
Chúng tôi chẳng còn những nghi lầm
Mới lìa thân nữ nhiều nhiểm ô
Phá hẳn phiền não hàng ma oán
Mười phương vô lượng câu chi Phật
Tôi sẽ hoan hỉ thường cúng dường
An trụ thí giới siêng tinh tấn
Nhẫn nhục thiền định khéo điều tâm
Trí huệ phương tiện nhiếp chúng sanh
Sẽ chứng tối thượng đạo Bồ Ðề
Lợi ích vô lượng chúng Trời Người
đều khiến phát khởi tâm Ðại thừa
Chúng tôi sẽ hay sư tử hống
Chúng tôi sẽ làm Thiên Nhơn Sư".
Ðức Thế Tôn hiện mỉm cười. Theo lệ thường của chư Phật, lúc Ðức Phật mỉm cười thì từ miệng Ðức Phật có những tia sáng nhiều màu xanh vàng đỏ trắng hồng tía pha lê phóng ra chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới cao đến trời Phạm Thế rồi trở về nhiễu Ðức Phật ba vòng lại nhập vào đảnh của Phật.
Trưởng lão A Nan làm lễ bạch rằng:" Bạch Ðức Thế Tôn! Do nhơn duyên gì mà hiện mỉm cười ?".
Ðức Phật dạy: "Nầy A Nan! Ông có thấy Tịnh Tín đồng nữ chăng?
- Vâng, bạch Thế Tôn! Tôi đã thấy.
- Nầy A Nan! Tịnh Tín và năm trăm đồng nữ thọ trong loài người sẽ bỏ thân nữ sanh Trời Ðâu Suất thừa sự cúng dường Di Lặc Thế Tôn và chư Như Lai trong Hiền kiếp. Quá tám vạn bốn ngàn câu chi na do tha kiếp. Tịnh Tín sẽ được làm Phật tại Ðiện Quang thế giới hiệu Quang Minh Trang Nghiêm Vương Như Lai, kiếp tên Thường Quang, Phật ấy thọ như Trời Ðâu Suất mười hai ngàn tuổi, có vô lượng vô biên chúng Ðại Bồ Tát làm quyến thuộc, mà năm trăm đồng nữ nầy sẽ là thượng thủ nhứt trong đại chúng ấy, cũng như hiện nay Văn Thù Sư Lợi làm thượng thủ trong sáu mươi Bồ Tát vậy.?
- Nầy A Nan! Nếu có nữ nhơn được nghe kinh nầy rồi họ trì đọc tụng, khi hết thân nữ nầy chẳng còn thọ thân nữ nữa và mau chứng được Vô Thượng Bồ Ðề".
Ðức Phật nói kinh nầy rồi, Tịnh Tín với năm trăm đồng nữ và tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
XLI. PHÁP HỘI DI LẶC BỒ TÁT VẤN BÁT PHÁP THỨ BỐN MƯƠI MỐT
Như vậy tôi nghe một lúc đức Bà Già Bà ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng chúng đại Tỳ kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội và mười ngàn đại Bồ Tát.
Bấy giờ Di Lặc Bồ Tát đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nay tôi muốn đem ít pháp hỏi Ðức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, chẳng hay Ðức Thế Tôn có cho phép chăng?".
Ðức Phật dạy: "Nầy Di Lặc! Tùy ý ông hỏi, Ðức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri sẽ phân biệt giải nói cho ông vui mừng.
Bạch Ðức Thế Tôn! Ðại Bồ Tát cứu cánh thành tựu mấy pháp chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, ở trong pháp thắng tiến chẳng thối chẳng chuyển, lúc hành đạo Bồ Tát hàng phục tất cả ma oán địch, như thiệt biết tự thể tướng của tất cả pháp, ở các thế gian tâm chẳng mỏi mệt. Do tâm chẳng mỏi mệt nên chẳng y nơi tha trí mau chóng thành tựu Vô thượng Bồ đề?".
Ðức Phật dạy: "Lành thay, lành thay, nầy Di Lặc! Nay ông có thể hỏi Ðức Như Lai về thâm nghĩa như vậy. Ông nên nhứt tâm lắng nghe, ta sẽ nói cho.
- Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi xin vui thích muốn nghe.
- Nầy Di Lặc! Chư đại Bồ Tát cứu cánh thành tựu tám pháp thì chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, ở nơi pháp thắng tiến chẳng thối chẳng chuyển, lúc hành đạo Bồ Tát hàng phục tất cả các ma oán địch, như thiệt biết tự thể tướng của tất cả pháp, ở các thế gian tâm chẳng mỏi mệt, vì tâm chẳng mỏi mệt nên chẳng y nơi tha trí, mau chóng thành tựu Vô thượng Bồ đề.
Những gì là tám pháp? Ðó là chư đại Bồ Tát thành tựu thâm tâm, thành tựu hành tâm, thành tựu xả tâm, thành tựu thiện tri hồi hướng phương tiện tâm, thành tựu đại từ tâm, thành tựu đại bi tâm, thành tựu thiện tri phương tiện và thành tựu Bát nhã ba la mật.
Nầy Di Lặc! Thế nào là đại Bồ Tát thành tựu thâm tâm?
Nếu chư đại Bồ Tát nghe khen ngợi Phật và chê bai Phật, tâm họ cứu cánh nơi Vô thượng Bồ đề vững chắc chẳng động; nếu nghe khen ngợi Pháp và chê bai Pháp, tâm họ cứu cánh nơi Vô thượng Bồ đề vững chắc chẳng động; nếu nghe khen ngợi Tăng và chê bai Tăng, tâm họ cứu cánh nơi Vô thượng Bồ đề vững chắc chẳng động. Ðây là chư đại Bồ Tát thành tựu thâm tâm.
Nầy Di Lặc! Thế nào là đại Bồ Tát thành tựu hành tâm?
Nếu chư đại Bồ Tát xa lìa sát sanh, xa lìa trộm cướp, xa lìa tà dâm, xa lìa vọng ngôn, xa lìa lưỡng thiệt, xa lìa ác khẩu, xa lìa ỷ ngữ, đây là cứu cánh thành tựu hành tâm.
Nầy Di Lặc! Thế nào là đại Bồ Tát thành tựu xả tâm?
Nếu chư đại Bồ Tát là chủ hay xả hay bố thí cho các Sa môn, Bà la môn, kẻ nghèo cùng ăn xin ăn mày, những kẻ hà tiện các thứ vật đựng đồ uống ăn y phục đồ nằm thuốc men, đây là cứu cánh thành tựu xả tâm.
Nầy Di Lặc! Thế nào là chư đại Bồ Tát cứu cánh thành tựu tâm khéo biết hồi hướng phương tiện?
Nếu chư đại Bồ Tát có tu bao nhiêu thiện căn từ ba nghiệp thân khẩu ý đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề, đây là cứu cánh thành tựu tâm khéo biết phương tiện hồi hướng.
Nầy Di Lặc! Thế nào là chư đại Bồ Tát thành tựu tâm đại từ?
Nếu chư Bồ Tát cứu cánh thành tựu thân nghiệp đại từ, cứu cánh thành tựu khẩu nghiệp đại từ, cứu cánh thành tựu ý nghiệp đại từ, đây là cứu cánh thành tựu đại từ tâm.
Nầy Di Lặc! Thế nào là chư đại Bồ Tát thành tựu đại bi tâm?
Nếu chư đại Bồ Tát thành tựu thân nghiệp chẳng thể chê trách, thành tựu khẩu nghiệp chẳng thể chê trách, thành tựu ý nghiệp chẳng thể chê trách, đây là cứu cánh thành tựu tâm đại bi.
Nầy Di Lặc! Thế nào là chư đại Bồ Tát thành tựu thiện tri phương tiện?
Nếu chư đại Bồ Tát khéo biết thế đế, khéo biết đệ nhứt nghĩa đế, khéo biết cả hai đế,
Nầy Di Lặc! Thế nào là chư đại Bồ Tát thành tựu Bát nhã ba la mật?
Nếu chư đại Bồ Tát biết rõ như vầy: Y theo pháp nầy có pháp nầy, y theo pháp nầy sanh pháp nầy, đó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử ưu bi khổ não, như thế thì chỉ có những khổ lớn tụ họp thôi.
Do pháp nầy không có nên pháp nầy không có, do pháp này diệt nên pháp nầy diệt, đó là vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt, như thề thì chỉ có khối khổ lớn diệt thôi. Ðây là cứu cánh thành tựu Bát nhã ba la mật.
Nầy Di Lặc! Ðây gọi là chư đại Bồ Tát cứu cánh thành tựu tám pháp chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, ở trong pháp thắng tiến chẳng thối chẳng chuyển, lúc hành đạo Bồ Tát hàng phục tất cả các ma oán địch, như thiệt biết tự thể tướng tất cả pháp, nơi các thế gian tâm chẳng mỏi mệt, vì tâm chẳng mỏi mệt nên chẳng y tha trí mau chóng thành tựu Vô thượng Bồ đề".
Ðức Phật nói kinh nầy rồi, Di Lặc Bồ Tát cùng chư đại Bồ Tát, chư Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhơn phi nhơn, tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
XLII. PHÁP HỘI DI LẶC BỒ TÁT SỞ VẤN THỨ BỐN MƯƠI HAI
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vầy tôi nghe một lúc Ðức Phật ở nước Ba La Nại trong rừng Thí Lộc cùng chúng đại Tỳ kheo năm trăm người câu hội, tất cả đều là tri thức của đại chúng, danh hiệu các Ngài là:
A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Gia Ca Diếp, Na Ðề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Ðại Mục Kiền Liên, A Nan, La Hầu La v.v... làm thượng thủ.
Còn có một vạn đại Bồ Tát câu hội. Danh hiệu các Ngài là:
Thiện Ý Bồ Tát, Tăng Thượng Ý Bồ Tát, Kiên Cố Ý Bồ Tát, Sư Tử Ý Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Biện Tích Bồ Tát, Mỹ Âm Bồ Tát, Thắng Tràng Bồ Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Thủy Thiên Bồ Tát, Ðế Thắng Bồ Tát, Ðế Thiên Bồ Tát, Vô Phan Duyên Bồ Tát, Cụ Biện Tài Bồ Tát, Thần Thông Diệu Hoa Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử v.v... làm thượng thủ.
Ðức Thế Tôn có vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh cúng dường cung kính mà vì họ thuyết pháp.
Bấy giờ Di Lặc Bồ Tát ở trong chúng đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất đảnh lễ chắp tay mà bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi có chút nghi nay muốn thỉnh hỏi Như Lai, ngưỡng mong cho phép".
Ðức Phật dậy: "Nầy Di Lặc! Nếu có chỗ nghi cho phép ông hỏi, ta sẽ giải nói cho ông vui mừng".
Ðược Phật hứa cho, Di Lặc Bồ Tát vui mừng hớn hở bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Bồ Tát thành tựu mấy pháp được lìa ác đạo và ác tri thức mà mau chứng Vô thượng Bồ đề?".
Ðức Phật dạy: "Lành thay, lành thay, nầy Di Lặc! Nay ông thương xót tất cả muốn lợi ích an vui cho Trời Người mà hỏi nơi Như Lai về thâm nghĩa ấy. Ông nên lắng nghe khéo suy nghĩ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
- Vâng bạch Ðức Thế Tôn! Tôi xin ưa thích được nghe.
- Nầy Di Lặc! Có một pháp mà Bồ Tát thành tựu thì lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Ðó là phát tâm Bồ đề ý nguyện thù thắng.
Còn có hai pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là với xa ma tha thường siêng tu tập, hai là với tỳ bát xá na thì được thiện xảo.
Còn có ba pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là thành tựu đại bi, hai là tu tập pháp không, ba là nơi tất cả pháp chẳng sanh phân biệt.
Còn có bốn pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ tịnh giới, hai là lìa các lưới nghi, ba là thích a lan nhã, bốn là khởi tâm chánh kiến.
Còn có năm pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ pháp không, hai là chẳng cầu tìm lỗi người, ba là thường tự quan sát, bốn là yêu thích chánh pháp, năm là nhiếp hộ người.
Còn có sáu pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là không có tham dục, hai là chẳng sanh sân khuể, ba là chẳng khởi ngu si, bốn là thường lìa thô ngữ, năm là an trụ tánh không, sáu là tâm như hư không.
Còn có bảy pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ chánh niệm, hai là thành tựu trạch pháp, ba là phát khởi tinh tiến, bốn là thường sanh hoan hỷ, năm là thân được khinh an, sáu là trụ các thiền định, bảy là có đủ hành xả.
Còn có tám pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là chánh kiến, hai là chánh tư duy, ba là chánh ngữ, bốn là chánh nghiệp, năm là chánh mạng, sáu là chánh tinh tiến, bảy là chánh niệm và tám là chánh định.
Còn có chín pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng Vô thượng Bồ đề. Một là xa lìa các pháp tham dục, ác bất thiện mà an trụ sơ thiền tầm từ hỉ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Hai là xa lìa tầm từ an trụ nhị thiền nội tịnh hỉ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Ba là xa lìa hỉ an trụ tam thiền xả niệm huệ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Bốn là xa lìa ưu khổ và hỉ lạc an trụ tứ thiền xả niệm thanh tịnh vô khổ vô lạc tâm nhứt cảnh tánh. Năm là vượt quá sắc tưởng không phan duyên dị biệt an trụ vô biên hư không xứ định. Sáu là vượt qua vô biên hư không xứ định rồi có thể an trụ vô biên thức xứ định. Bảy là vượt qua vô biên thức xứ định rồi có thể an trụ vô sở hữu xứ định. Tám là vượt qua vô sở hữu xứ định rồi có thể an trụ phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Chín là vượt qua phi tưởng phi phi tưởng xứ định rồi có thể an trụ diệt thọ tưởng định.
Còn có mười pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là khéo có thể thành tựu kim cương tam muội. Hai là thành tựu xứ phi xứ tương ưng tam muội. Ba là thành tựu phương tiện hành tam muội. Bốn là thành tựu biến chiếu minh tam muội. Năm là thành tựu phổ quang minh tam muội. Sáu là thành tựu phổ biến chiếu minh tam muội. Bảy là thành tựu bửu nguyệt tam muội. Tám là thành tựu nguyệt đăng tam muội. Chín là thành tựu xuất ly tam muội. Mười là thành tựu thắng tràng tý ấn tam muội.
Nầy Di Lặc! Thành tựu các pháp như vậy rồi, Bồ Tát lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề".
Ðược nghe pháp rồi, Di Lặc Bồ Tát rất vui mừng trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính ở trước Phật nói kệ tán thán:
"Phật ở kiếp quá khứ
Bỏ vợ con yêu thương
Ðầu mắt và xương tủy
Ðến bờ kia bố thí
Phật thường hộ cấm giới
Như trâu mao mến đuôi
Tối thắng không ngang sánh
Ðến bờ kia trì giới
Phật dùng sức nhẫn nhục
Bỏ lìa các đấu tranh
Chẳng cầu tìm lỗi người
Ðến bờ kia nhẫn nhục
Phật dùng sức tinh tiến
Ðược vô thượng tịch tĩnh
Cứu cánh thường an vui
Ðến bờ kia tinh tiến
Phật dùng sức thiền định
Hay diệt trừ tội nhơ
Làm Ðạo Sư Trời Người
Ðến bờ kia thiền định
Phật dùng sức trí huệ
Khéo biết rõ các pháp
Tự tánh vô sở hữu
Ðến bờ kia Bát nhã
Phật tại Bồ đề thọ
Hàng phục các quân ma
Ðầy đủ trí tối thắng
Thành tựu đạo vô thượng
Ðạo Sư sức vô úy
Nơi nước Ba La Nại
Chuyển pháp luân thanh tịnh
Dẹp phá các ngoại đạo
Trí huệ lớn vô thượng
Ra khỏi các thế gian
Hay phóng tịnh quang minh
Khéo nói các pháp yếu
Như Lai sắc thanh tịnh
Trí huệ và công đức
Vượt quá các thế gian
Hay đến nơi bờ kia".
Trưởng lão A Nan bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Di Lặc Bồ Tát nầy rất hi hữu hay thành tựu vô lượng biện tài tùy theo tâm niệm của chúng sanh mà bình đẳng thuyết pháp, nhưng đối với văn tự không có chỗ buộc dính".
Ðức Phật dạy: "Ðúng như vậy, đúng như lời ông nói. Nầy A Nan! Di Lặc Bồ Tát đâu phải chỉ có hôm nay ở trước ta nói kệ tán thán Ðức Phật, mà từ quá khứ mười vô số kiếp, thuở ấy có Phật xuất thế hiệu Diệm Quang Du Hí Diệu Âm Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Bấy giờ có một Bà La Môn tên Hiền Thọ thân tướng đầy đủ ai thấy cũng đều vui mừng, từ trong vườn đi ra thấy Ðức Như Lai đoan chánh thù diệu các căn tịch tĩnh được xa ma tha như ao nước trong sạch không bợn nhơ, có ba mươi hai tướng và tám mươi tùy hảo để tự trang nghiêm, như cây ta la nở hoa, như núi Tu Di cao vọt hơn cả, vẻ mặt tươi vui như trăng tròn, chiếu sáng rực rỡ như mặt nhựt tỏ rạng, thân hình tròn trịa như cây ni câu đà.
Thấy tướng thù thắng của Phật Như Lai, Hiền Thọ sanh lòng tịnh tín suy nghĩ rằng: Hi hữu Thế Tôn hay thành tựu vô lượng công đức trang nghiêm như vậy. Tôi cũng nguyện tương lai cũng thành tựu thân công đức như vậy.
Phát nguyện xong, Hiền Thọ reo mình xuống đất lại tự nghĩ rằng: Nếu đời đương lai tôi sẽ được thân Phật nguyện chưn Như Lai đạp lên mình tôi.
Biết ý nghĩ ấy, Ðức Phật Như Lai liền lấy chưn mình dẫm lên thân Hiền Thọ. Lúc Ðức Phật Như Lai hạ chưn xuống, Hiền Thọ được vô sanh pháp nhẫn. Ðức Phật Như Lai ngó ngoái lại bảo chúng Tỳ kheo rằng các ông chớ đạp lên mình Hiền Thọ, tại sao, vì đây là đại Bồ Tát nay đã chứng vô sanh pháp nhẫn, lại hay thành tựu thiên nhãn thiên nhĩ tha tâm túc thần cảnh trí thông.
Hiền Thọ liền ở trước Ðức Phật Diệm Quang nói kệ tán thán rằng:
Phật ở mười phương cõi
Tối tôn tối vô thượng
Siêu quá các thế gian
Nay tôi cúi đầu lạy
Như Lai đại quang minh
Chói che cả nhựt nguyệt
Siêu quá các thế gian
Nay tôi cúi đầu lạy
Ví như sư tử hống
Muôn thú điều kinh sợ
Thế Tôn đại oai đức
Xô dẹp các ngoại đạo
Tướng lông trắng giữa mày
Trong sáng như pha lê
Chiếu khắp các thế gian
Siêu quá hơn tất cả
Thế Tôn không ai bằng
Lòng chưn thiên bức luân
Thanh tịnh hóa thế gian
Hay chấn động trời đất
Thành tựu đạo xuất ly
Siêu quá biển phiền não
Ðem các của công đức
Tùy ý ban tất cả
Như Lai giới thanh tịnh
Xuất sanh các công đức
Không có lòng thương ghét
Dường như cõi đại địa
Do nơi sức trí huệ
Biết rõ các pháp không
Chúng sanh và tghọ giả
Phân biệt bất khả đắc
Khéo rành tánh chúng sanh
Tâm hành và sở nguyện
Làm đèn sáng cho đời
Lợi ích tất cả loài
Thế gian khổ bức bách
Trôi chìm trong dòng sâu
Phật thường vì chúng sanh
Phát sức tinh tiến lớn
Thế Tôn lìa phiền não
Sanh lão và bịnh tử
Ở đời như hư không
Tất cả không nhiễm ô
Trí huệ oai quang lớn
Hay phá tất cả tối
Lìa hẳn tham sân si
Nay tôi cúi đầu lạy.
Hiền Thọ Bồ Tát được thần thông đến nay chẳng còn thối thất. Nầy A Nan! Hiền Thọ thuở ấy chính là Di Lặc đại Bồ Tát nay ở trong hội nầy vậy.
- Bạch Ðức Thế Tôn! Di Lặc đại Bồ Tát từ lâu đã chứng vô sanh pháp nhẫn cớ sao chẳng được Vô thượng Bồ đề?
- Nầy A Nan! Bồ Tát có hai thứ trang nghiêm và hai thứ nhiếp thủ. Ðó là nhiếp thủ chúng sanh và trang nghiêm chúng sanh, nhiếp thủ Phật quốc và trang nghiêm Phật quốc.
Thuở quá khứ lúc tu Bồ Tát hạnh, Di Lặc Bồ Tát thường thích nhiếp thủ và trang nghiêm Phật quốc, còn ta thì thường ưa nhiếp thủ và trang nghiêm chúng sanh. Di Lặc Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trải qua bốn mươi kiếp bấy giờ ta mới phát tâm Vô thượng Bồ đề, do vì ta có sức dũng mãnh tinh tiến nên siêu việt chín kiếp, ở trong Hiền kiếp nầy thành Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan! Ta do mười pháp mà chứng Bồ đề: Một là hay xả thí vật sở ái, hai là hay thí vợ sở ái, ba là hay thí con sở ái, bốn là hay thí đầu sở ái, năm la hay thí mắt sở ái, sáu là hay thí ngôi vua sở ái, bảy là hay thí trân bửu sở ái, tám là hay thí máu thịt sở ái, chín là hay thí xương tủy sở ái, mười là hay thí thân phần sở ái. Ta thật hành mười pháp nầy mà được Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan! Còn có mười pháp hay chứng Bồ đề: Một là hộ giới công đức, hai là thành tựu nhẫn nhục, ba là phát khởi tinh tiến, bốn là được các thiền định, năm là có đại trí huệ, sáu là thường chẳng bỏ lìa các chúng sanh, bảy là khởi tâm bình đẳng đối với chúng sanh, tám là thường tu tập pháp không, chín là khéo hay thành tựu tánh không chơn thiệt, mười là khéo hay thành tựu vô tướng vô nguyện. Ta thật hành mười pháp nầy mà được Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan! Thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát chẳng có thể xả thí tay chưn đầu mắt, chỉ dùng thiện xảo phương tiện đạo hạnh an lạc mà tích tập Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
- Bạch Ðức Thế Tôn! Thế nào là Di Lặc Bồ Tát thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ Tát chỉ dùng thiện xảo phương tiện đạo hạnh an lạc mà tích tập Vô thượng Bồ đề?
- Nầy A nan! Thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ Tát, Di Lặc ngày đêm sáu thời trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay đảnh lễ ở trước chư Phật mà nói kệ rằng:
Nay tôi quy mạng lễ
Tất cả Phật mười phương
Bồ Tát chúngThanh văn
Ðấng đại tiên thiên nhãn
Cùng lễ tâm Bồ đề
Lìa xa các ác đạo
Hay được sanh lên trời
Nhẫn đến chứng Niết bàn
Nếu tôi phạm chút tội
Theo tâm mà sanh ra
Nay tôi ở trước Phật
Sám hối cho tiêu diệt
Nay thân khẩu ý tôi
Chứa họp các công đức
Nguyện làm nhơn Bồ đề
Sẽ thành đạo Vô thượng
Trong quốc độ mười phương
Những người cúng dường Phật
Và Phật vô thượng trí
Nay tôi đều tùy hỉ
Có tội đều sám hối
Phước đức đều tùy hỉ
Nay tôi lễ chư Phật
Nguyện thành trí vô thượng
Chư Bồ Tát mười phương
Chứng được bực thập địa
Nay tôi cúi đầu lạy
Nguyện mau chứng Bồ đề
Ðược chứng Bồ đề rồi
Xô dẹp các quân ma
Chuyển pháp luân thanh tịnh
Lợi ích loài chúng sanh
Thường nguyện ở thế gian
Vô lượng câu chi kiếp
Gióng trống pháp lớn lên
Ðộ thoát khổ chúng sanh
Tôi bị ngập bùn dục
Bị dây tham trói buộc
Nhiều các thứ triền phược
Nguyện Phật thương xem xét
Chúng sanh dầu tội nặng
Chư Phật chẳng chán bỏ
Nguyện dùng đại từ bi
Ðộ thoát biển sanh tử
Hiện tại chư Thế tôn
Quá khứ vị lai Phật
Bồ Tát đạo đã làm
Nay tôi nguyện tu học
Ðầy đủ Ba la mật
Thành tựu sáu thần thông
Ðộ thoát các chúng sanh
Chứng được đạo vô thượng
Biết rõ các pháp không
Không trụ không biểu thị
Chẳng sanh cũng chẳng diệt
Lại như đấng Ðại Tiên
Khéo rõ pháp vô ngã
Không bổ đặc già la
Nhẫn đến không thọ giả
Nơi các sự bố thí
Chẳng chấp ngã ngã sở
Vì an lạc chúng sanh
Thí cho không bỏn xẻn
Nguyệt vật tôi bố thí
Chẳng cần công dụng sanh
Quan sát biết rõ không
Ðủ Thí ba la mật
Trì giới không khuyết giảm
Ðược Phật tịnh thi la
Do vì vô sở trụ
Ðủ giới Ba la mật
Nhẫn nhục như tứ đại
Chẳng sanh tâm phân biệt
Do vì không sân khuể
Ðủ Nhẫn ba la mật
Nguyện dùng sức thân tâm
Phát khởi đại tinh tiến
Kiên cố không giải đãi
Ðủ Cần ba la mật
Do như huyễn như hóa
Và dũng mãnh tinh tiến
Kim cương các tam muội
Ðủ Thiển ba la mật
Nguyện chứng tam muội trí
Nhập vào tam giải thoát
Rõ tam thế bình đẳng
Ðủ Huệ Ba la mật
Chư Phật diệu sắc thân
Quang minh oai đức lớn
Bồ Tát tinh tiến hạnh
Nguyện tôi đều tròn đầy
Di Lặc Bồ Tát ấy
Siêng tu hạnh như vậy
Ðủ sáu Ba la mật
An trụ bực thập địa.
Nầy A Nan! Di Lặc Bồ Tát an trụ thiện xảo phương tiện như vậy tích tập Vô thượng bồ đề.
Nầy A Nan! Thuở xưa ta cầu đạo nhận lấy vô lượng khổ mới có thể tích tập Vô thượng Bồ đề.
Thuở xa xưa có Thái tử tên Kiên Nhứt Thiết Nghĩa đoan chánh đẹp lạ có đủ các tướng tốt ai thấy cũng đều vui mừng. Một hôm Thái tử du ngoạn thấy một bịnh nhơn đau khổ nặng, Thái tử xót thương hỏi thăm: Nay bịnh nầy của ngươi há lại không có thuốc để chữa lành sao? Bịnh nhơn nói kệ đáp Thái tử:
Bịnh tôi khó tìm thuốc
Thế gian chẳng có được
Huống là kẻ mắc bịnh
Người giỏi nói y phương
Thông đạt các sách vở
Dầu muốn trị bịnh nầy
Thuốc ấy khó có được.
Thái tử nói kệ bảo bịnh nhơn:
Vàng bạc châu ma ni
Nhẫn đến các voi ngựa
Cần gì xin người nói
Ðể trừ khổ cho người.
Bịnh nhơn lại nói kệ bạch Thái tử:
Nếu uống huyết Thái tử
Chắc tôi được an vui
Xin Thái tử vui lòng
Cho tôi hết đau khổ.
Thái tử liền nói kệ bảo bịnh nhơn:
Nếu tôi vì chúng sanh
Mà phải đọa địa ngục
Nhiều kiếp còn chịu được
Huống là thân huyết nầy.
Lúc Thái tử lấy dao bén đâm vào thân chảy máu bảo bịnh nhơn tùy ý uống chẳng hề có một niệm hối hận.
Nầy A Nan! Thái tử Kiến Nhứt Thiết Nghĩa thuở xưa kia chính là thân ta vậy. Nước bốn đại hải còn có thể đong lường, lúc hành đạo Bồ Tát ta xả thí máu nơi thân mình chẳng tính kể được.
Nầy A Nan! Thuở xa xưa có Thái tử tên Diệu Hoa đoan chánh đẹp lạ đủ các tướng tốt người thấy vui mừng. Một hôm Thái tử du ngoạn thấy một bịnh nhơn ốm gầy sanh lòng thương hỏi thăm: Nay bịnh của ngươi há lại không có thuốc chữa lành sao?
Bịnh nhơn nói kệ bạch Thái tử:
Thế gian có lương y
Chẳng chữa được bịnh tôi
Xin Ngài rủ lòng thương
Trừ đau khổ cho tôi
Thái tử nói kệ bảo bịnh nhơn:
Tất cả đều bố thí
Thân phần và trân bửu
Cần gì xin người nói.
Bịnh nhơn nói kệ bạch Thái tử:
Ví như đại dược vương
Tùy ý chữa lành bịnh
Cũng như nhựt nguyệt sáng
Chiếu khắp các thế gian
Nếu được tủy thân Ngài
Thoa khắp thân thể tôi
Bịnh nầy sẽ tiêu trừ
Mãi mãi được an vui.
Thái tử liền nói kệ bảo bịnh nhơn;
Nếu có các chúng sanh
Ðập thân tôi lấy tủy
Vì lợi ích thế gian
Lòng tôi chẳng ưu não.
Thái tử liền tự đập nát thân lấy tủy cho bịnh nhơn tùy ý dùng không có chút niệm hối hận.
Nầy A Nan! Nên biết thuở xưa Thái tử Diệu Hoa kia chính là thân ta. Nước bốn đại hải có thể đong lường, thuở xưa ta hành đạo Bồ Tát xả thí xương tủy nơi thân mình không thể tính kể được.
Nầy A Nan! Thuở xa xưa có Quốc vương tên Nguyệt Quang đoan chánh đẹp lạ đủ tướng tốt người thấy vui mừng, du ngoạn thấy một người mù ăn xin, chạnh lòng thương nhà vua hỏi: Người cần dùng gì ta sẽ cấp cho, hoặc đồ ăn uống y phục đồ trang sức châu ngọc trân bửu, tùy ý người muốn đều sẽ được ban.
Người mù nói kệ bạch Quốc vương:
Ðại vương như nhựt nguyệt
Quang minh soi thế gian
Ðầy đủ thắng công đức
Chẳng lâu sanh lên trời
Tất cả màu sắc đẹp
Nay tôi đều chẳng thấy
Xin vua đại từ bi
Ban tôi mắt của vua.
Quốc vương nói kệ đáp người mù:
Người mau đến lấy mắt
Cho người được an vui
Người tôi đến đời sau
Ðược mắt Phật thanh tịnh
Tôi hành đạo Bồ Tát
Tất cả đều xả thí
Nếu tôi chẳng cho người
Thì trái với bổn nguyện.
Vua Nguyệt Quang liền tự móc tròng mắt mình thí cho người mù tùy ý dùng chẳng có một niệm hối hận. Nầy A Nan! Nên biết thuở xưa vua Nguyệt Quang kia chính là thân ta. Núi Tu Di còn có thể đo lường, lúc ta hành đạo Bồ Tát bố thí con mắt của mình chẳng thể kể đếm được.
Nầy A Nan! Di Lặc Bồ Tát lúc hành đạo Bồ Tát có phát nguyện rằng: Nếu các chúng sanh tham sân si mỏng thành tựu thập thiện bấy giờ tôi sẽ thành Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan! Ðời đương lai có thuở các chúng sanh tham sân si mỏng thành tựu thập thiện, bấy giờ Di Lặc Bồ Tát sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Tại sao, vì do nơi bổn nguyện lực của Bồ Tát vậy.
Nầy A Nan! Thuở xưa lúc hành đạo Bồ Tát, ta phát lời rằng: Tôi nguyện sẽ ở nơi đời ác ngũ trược các chúng sanh ác tham sân si nặng, họ chẳng hiếu với cha mẹ chẳng kính bực tôn trưởng, nhẫn đến quyến thuộc chẳng hòa thuận nhau, bấy giờ tôi sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Do bổn nguyện như vậy nên nay ta vào thành ấp tụ lạc, có nhiều chúng sanh khi mắng ta, họ dùng pháp đoạn pháp thường tụ chúng hội họp. Hoặc lúc ta đi khất thực, họ rải đất bụi, họ trộn thuốc độc cho ta ăn. Hoặc họ dùng nữ nhơn hủy báng ta.
Nầy A Nan! Nay ta do sức bổn nguyện khởi tâm đại bi vì các chúng sanh ấy thuyết pháp".
Trưởng lão A Nan bạch rằng: Bạch Ðức Thế Tôn! Ðức Như Lai Ứng Cúng Ðẳng Chánh Giác hay làm việc khó hay nhẫn việc khó, người chẳng điều phục đều khiến điều phục, mang gánh những chúng sanh tội cấu như vậy mà thuyết pháp cho họ".
Ðức Phật dạy: "Ðúng như lời ông nói. Tại sao, vì do đại bi của Như Lai nhiếp lấy vậy.
- Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi nghe thệ nguyện vững chắc của Ðức Như Lai mà toàn thân lông dựng đứng. Bạch Ðức Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì, chúng tôi phải phụng trì thế nào?
- Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Di Lặc Sở Vấn, cũng tên là Vãng Tích Bổn Nguyện Nhơn Duyên, ông nên phụng trì như vậy".
Ðức Phật nói kinh nầy rồi, Di Lặc Bồ Tát, Tôn giả A Nan, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La v.v... nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 120 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Gõ cửa thiền


Nghệ thuật chết


Về mái chùa xưa


Tổng quan về các pháp môn trong Phật giáo Tây Tạng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.224.73.157 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập