Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận.
Kinh Pháp cú
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác.
Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
02. PHẨM THUẦN ĐÀ THỨ HAI (Hán bộ phần đầu quyển thứ 2) Bấy giờ trong đại hội có vị ưu-bà-tắc, con nhà thợ thuyền trong thành Câu-thi-na, tên là Thuần-đà cùng với mười lăm bạn đồng nghiệp, vì muốn đem qủa lành đến cho người đời nên đến trước Phật, quỳ gối chắp tay cúi lạy chân Phật, buồn khóc rơi lệ, bạch rằng: “Ngửa mong đức Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng thương xót nhận phần cúng dường cuối cùng của chúng con, cho vô lượng chúng sanh được độ. “Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay nghèo cùng đói khổ không ai cứu giúp, không nơi nương nhờ, muốn xin phước lộc tương lai ở Đức thế Tôn (17). Cúi xin xót thương nhận chút lễ mọn rồi sẽ nhập Niết-bàn. Bạch Thế Tôn! Ví như có người nghèo cùng đến xứ xa lạ ra sức làm ruộng, đặng trâu cày giỏi, ruộng đất tốt màu, bằng phẳng sạch cỏ, chỉ còn chờ trời mưa. Trâu giỏi dụ cho bảy nghiệp của thân và miệng, ruộng tốt bằng phẳng dụ cho trí huệ, sạch cỏ dụ cho trừ sạch phiền não. Bạch Thế Tôn! Nay đây con đã có trâu giỏi ruộng tốt sạch cỏ, chỉ còn trông chờ trận mưa pháp cam lồ của Như Lai. Người nghèo kia chính là con đây, nghèo nơi của báu pháp bảo vô thượng. Ngửa mong xót thương dứt trừ sự nghèo cùng khốn khổ của chúng con và cả vô lượng chúng sanh. Cúng phẩm của con dầu kém mọn, cũng mong đức Như Lai và chư Tăng dùng được đủ. Ngày nay con không nơi nương nhờ, không ai nâng đỡ, xin đức Thế Tôn rủ lòng thương xót coi con như La-hầu-la (18).” Đức Thế Tôn, bậc Nhất thiết Chủng trí, Vô thượng Điều ngự, bảo Thuần-đà rằng: “Lành thay! Lành thay! Hôm nay Như Lai trừ sự nghèo cùng cho ông, mưa pháp vô thượng xuống cho ruộng thân tâm ông mọc mầm pháp. Ông muốn cầu thọ mạng, sắc, lực, an lạc, vô ngại, biện tài nơi Như Lai. Như Lai sẽ ban cho ông các thứ ấy. Thuần-đà! Thí thực có hai, đồng một quả báo: một là thọ xong liền chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hai là thọ xong liền nhập Niết-bàn. Hôm nay Như Lai nhận phần cúng dường cuối cùng của ông, cho ông đầy đủ Bố thí ba-la-mật” (19). Thuần-đà liền bạch Phật rằng: ”Như Đức Thế Tôn vừa dạy rằng hai lúc cúng thí quả báo đồng nhau, theo ý con nghĩ, e rằng không đúng ngĩa. Vì vị thọ thí trước là bậc chưa sạch phiền não, chưa chứng Nhất thiết chủng trí (20), cũng chưa có thể làm cho chúng sanh đầy đủ Bố thí ba-la-mật. Còn vị thọ thí sau là bậc Nhất thiết chủng trí, đã sạch phiền não, có thể làm cho khắp chúng sanh đầy đủ Bố thí ba-la-mật.
“Vị thọ thí trước còn là chúng sanh, vị thọ thí sau là bậc trời trong các trời. Vị thọ thí trước là thân tạp thực, thân phiền não, thân vô thường cuối cùng; vị thọ thí sau là thân kim cang không phiền não, là Pháp thân chân thường vô cùng. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí quả báo đồng nhau?
“Vị thọ thí trước chưa được đầy đủ đàn ba-la-mật nhẫn đến Bát nhã ba-la-mật, chỉ có nhục nhãn chưa có Huệ nhãn đến Phật nhãn (21). Vị thọ thí sau đã được đầy đủ cả sáu ba-la-mật nhẫn đến Phật nhãn. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau?
“Bạch đức Thế Tôn! Vị thọ thí trước, thọ xong ăn nuốt vào bụng tiêu hóa đặng sống còn, đặng sức khỏe, xinh đẹp, an vui, vô ngại biện. Vị thọ thí sau chẳng ăn chẳng tiêu, không năm sự quả. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau?”
Đức Phật phán: ”Thuần-đà! Như Lai đã từ vô lượng vô biên vô số kiếp (22) không có những thân ăn uống, thân phiền não, thân sau cùng, mà là thân chân thường, thân kim cang, là Pháp thân.
“Thuần-đà! Người chưa thấy Phật tánh gọi là thân tạp thực, phiền mão, cuối cùng. Lúc đó Bồ- tát thọ đồ ăn uống rồi nhập Kim cang Tam-muội, đồ ăn tiêu hóa xong liền thấy Phật-tánh, chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì lẽ ấy nên Như Lai nói hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau.
“Lúc thành đạo, Bồ Tát phá hoại bốn ma (23), nay nhập Niết-bàn cũng phá hoạI bốn ma, nên Như Lai nói hai quả báo không sai khác.
“Lúc trước dẫu Bồ Tát chẳng rộng giảng diễn mười hai bộ kinh nhưng đã thông đạt rồi, nay nhập Niết-bàn rộng vì chúng sanh phân biệt giảng dạy. Vì thế nên Như Lai nói hai quả báo đồng nhau.
“Thuần-đà! Thân của Như Lai đã từ vô lượng vô số kiếp chẳng thọ sự ăn uống. Vì hàng Thanh Văn mà nói rằng trước thọ cháo sữa của hai nàng chăn bò là Nan-đà và Nan-đà-ba-la, rồi sau mới chứng quả Vô thượng chánh giác, nhưng chính thật Như Lai không ăn. Hôm nay vì đại chúng trong hội này, mà Như Lai nhận sự cúng dường cuối cùng của ông dâng. Thật ra Như Lai không ăn”.
Đại chúng nghe đức Thế Tôn khắp vì đại hội mà nhận sự cúng dường cuối cùng của Thuần-đà, đều vui mừng hớn hở. Đồng rập tiếng khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Hy hữu thay cho Thuần-đà! Thật ông không uổng tên là Thuần-đà. Vì hai chữ 'Thuần-đà' là 'hiểu diệu nghĩa'. Ông nay kiến lập diệu nghĩa như thế, cứ nghĩa đặt tên gọi là Thuần-đà. Hiện đời đây ông được đầy đủ cả danh tiếng, tài lợi, đức hạnh, chí nguyện. Rất lạ cho ông Thuần-đà! Sanh trong loài người lại được quả lành vô thượng rất khó được. Lành thay cho Thuần-đà! Trong đời khó có người thứ hai, khác nào hoa ưu-đàm. Đức Phật ra đời là rất khó. Gặp Phật sanh lòng tin, được nghe chánh pháp, lại là rất khó. Đức Phật sắp nhập Niết-Bàn, thỉnh được đức Phật nhận phần cúng dường cuối cùng lại càng khó hơn.
“Nam mô Thuần-đà! Nam mô Thuần-đà! Nay ông đã đầy đủ bố thí ba-la-mật.“ Đại chúng liền nói kệ rằng: Ông dầu sanh nhân đạo Đã siêu trời thứ sáu Tôi cùng tất cả chúng Nay xin yêu cầu ông: Đấng tối thắng trong người Nay sẽ nhập Niết-bàn, Ông nên thương chúng tôi Xin kíp thỉnh đức Phật Ở lâu lại thế gian Diễn thuyết pháp vô thượng Mà bậc trí tán thán Hầu lợi ích chúng sanh. Nếu ông không thỉnh Phật Mạng tôi ắt khó toàn Ông nên vì chúng tôi Đãnh lễ đức Điều Ngự.
Thuần-đà vui mừng hớn hở như người có cha mẹ vừa chết bỗng sống lại. Ông đảnh lễ Phật mà nói kệ rằng:
Vui thay được lợi mình! Khéo thọ nơi thân người Dẹp trừ tham, sân, si Thoát hẳn ba ác đạo (24) Thích thay được lợi mình! Được gặp kho vàng báu Gặp gỡ đức Điều Ngự Chẳng sợ đọa súc sanh Phật như hoa ưu-đàm (25) Khó gặp gỡ tin kính Gặp rồi trồng căn lành Dứt hẳn khổ ngạ quỷ, Laị cũng hay tổn giãm Chủng loại a-tu-la. Hạt cải ghim đầu kim (26) Phật ra đời khó hơn, Tôi đã đủ đàn độ (27) Độ thiên nhân sanh tử. Phật chẳng nhiễm việc đời Như hoa sen ở nước Khéo dứt giống tam giới (28) Thoát hẳn dòng sanh tử, Sanh làm người là khó Gặp đời Phật cũng khó Dường như trong biển lớn Rùa mù gặp bọng cây. Nay tôi dâng thực phẩm Nguyện đặng báo vô thượng Xô phá phiền não kiết Tất cả không bền chắc. Nay tôi ở nơi đây Chẳng cầu thân nhân, thiên Dầu có được thân ấy Cũng không lòng ham thích Được Phật nhận cúng phẩm Con vui sướng không lường Khác nào bông y-lan (29) Ngát mùi hương chiên-đàn. Thân tôi như y-lan Thế Tôn nhận cúng phẩm Như ngát hương chiên-đàn Vì thế tôi vui mừng. Tôi nay được hiện báu Chỗ tối thắng thượng diệu Đế-thích cùng Phạm thiên (30) Đều đến cúng dường tôi, Tất cả các thế gian Đều sanh lòng buồn khổ Vì biết Phật Thế Tôn Muốn nhập Đại Niết-bàn Đồng cất tiếng xướng to: Đời sẽ không Điều Ngự Chẳng nên bỏ chúng sanh Phải xem như con một Phật ở giữa chư tăng Diễn thuyết pháp vô thượng Như núi báu Tu-di Cao vọi giữa biển cả. Trí Phật vay khéo dứt Tối vô minh của tôi Dường như giữa hư không Mây nổi đặng mát mẻ Như Lai khéo dứt trừ Tất cả các phiền não (31) Như mặt trời mọc lên Tan mây sáng khắp soi Các loài chúng sanh đây Khóc than sưng cả mắt Đều bị dòng sanh tử Đẩy trôi rất khốn khổ. Đức Thế Tôn cần phải Thêm căn lành chúng sanh Vì dứt khổ sanh tử Ở nán lại thế gian.
Phật bảo Thuần-đà: ”Đúng như lời ngươi nói. Phật ra đời là khó như hoa ưu-đàm. Gặp Phật sanh lòng tin lại khó hơn. Phật sắp nhập Niết-bàn, dược cúng dường lần cuối cùng đầy đủ bố thí ba-la-mật, lại là việc rất khó gấp bội.
”Nay ông chớ buồn khổ, nên phải vui mừng vì đã được dịp cúng dường Như Lai lần cuối cùng, do đây thành tựu bố thí ba-la-mật. Ông chẳng nên thỉnh Phật ở lại nơi đời, mà phải quan sát cảnh giới của chư Phật thảy đều vô thường, tánh và tướng của các hành pháp cũng như vậy”. Đức Phật liền vì Thuần-đà mà nói kệ rằng: Tất cả các thế gian Có sanh đều có tử, Dầu thọ mạng vô lượng Tất có kỳ phải hết. Có thịnh tất có suy, Sum họp có biệt ly, Tuổi trẻ chẳng dừng lâu Khỏe mạnh bị bệnh xâm, Sự chết nuốt mạng người Không có gì thường còn. Bậc vua chúa Tự-tại Thế lực không ai bằng Tất cả đều dời đổi Mạng sống cũng như vậy. Sự khổ xoay không ngằn Lưu chuyển không thôi dừng Ba cõi đều vô thường Mọi loài không có vui. Tánh tướng của Pháp có Tất cả đều trống không, Pháp sanh diệt lưu chuyển Luôn có những lo khổ, Sợ sệt các lỗi ác, Già, bệnh, chết, buồn rầu. Những khổ ấy không ngằn Hư rã, nhiều tai hại, Phiền não bao gói kín Khác nào tầm ở kén, Là người có trí huệ Đâu nên thích chốn này. Các khổ nhóm nơi thân Tất cả đều nhơ nhớp, Tai nạn, ghẻ nhọt thảy Cội gốc của khổ đau, Dầu là thân chư thiên Đều cũng giống như vậy. Dục ái đều vô thường Nên Phật chẳng tham ưa, Ly dục khéo tư duy Đặng chứng quả chân thật Rốt ráo dứt sanh tử Nay sẽ vào Niết-bàn. Phật đã vượt bờ kia Đã thoát hẳn các khổ Vì thế nên hiện nay Thuần hưởng những diệu lạc, Do các nhân duyên ấy Chứng quả vị chân thật Dứt hẳn những triền phược Hôm nay vào Niết-bàn. Phật không già, bệnh, chết, Thọ mạng vô cùng tận, Phật nay vào Niết-bàn Như ngọn lửa lớn tắt. Thuần-đà! Ông chẳng nên Suy lường nghĩa Như Lai, Nên xét tánh Như Lai Dường như núi Tu-di. Phật nay vào Niết-bàn Thọ trì bệ nhất lạc, Pháp chư Phật như vậy Các ông chớ nên khóc.
Thuần-đà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Đúng như lời Phật dạy. Trí huệ của con kém nhỏ như muỗi mòng, đâu có thể nghĩ bàn được nghĩa Niết-bàn sâu kín của Như Lai.
“Bạch Thế Tôn! Ví như người tuổi thơ ấu mới xuất gia, dầu chưa thọ giới cụ-túc, mà đã được dự vào số chúng tăng. Con nay cũng vậy, nhờ thần lực của Phật và Bồ Tát, mà con được dự vào số Đại Bồ Tát, đã được cùng hàng với các bậc đại long tượng (32) dứt phiền não, như ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử v.v…
“Thế nên hôm nay con muốn đức Như Lai thường ở nơi đời mà chẳng vào Niết-bàn.“
Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử (33) bảo Thuần-đà rằng: ”Ông chẳng nên nói rằng muốn đức Như Lai thường ở nơi đời mà chẳng vào Niết-bàn. Ông phải quán sát tánh tướng của hành pháp, quán sát như thế đặng 'Không' Tam-muội. Muốn cầu Chánh pháp nên học pháp quán sát như vậy.“
Thuần-đà nói: ”Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai là bậc cao cả nhất trong người trên trời. Đức Như Lai như thế há lại là hành pháp sao? (34) Nếu là hành pháp thời là pháp sanh diệt. Ví như bóng nước chóng nổi chóng tan, qua lại xoay vần như bánh xe lăn, các hành pháp cũng thế. Tôi nghe chư Thiên sống rất lâu, tại sao đức Thế Tôn là bậc trời trong các trời mà lại sống chẳng đầy trăm tuổi.
”Cách hành pháp là pháp sanh tử, nếu đức Như Lai nhập diệt thời đồng với hànhpháp, đâu được gọi là bậc trời trong các trời, là Pháp vương Tự tại. Vì thế chẳng nên xem đức Như Lai đồng với hành pháp.
”Đức Như Lai hàng phục phiền não ma, ngũ ấm ma, thiên ma, tử ma do nhân duyên ấy mà thành tựu đầy đủ vô lượng công đức chân thật, nên hiệu là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, hiệu là Tam Giới Tôn.
”Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi: Chẳng nên ức tưởng phân biệt mà đem pháp Như Lai cho đồng với các hành pháp. Ví như phú ông sanh con trai, nhà tướng số xem trẻ ấy có tướng đoản mạng. Phú ông biết rằng trẻ ấy không thể nối lấy gia nghiệp, nên chẳng ái trọng. Vả kẻ đoản thọ thời chẳng được mọi người kính trọng. Nếu đức Như Lai đồng với các hành-pháp, ắt chẳng được sa-môn bà-la-môn tất cả trời người kính thờ, mà pháp chân thật bất biến bất dị của Như Lai dạy ra cũng không ai tín thọ. Vì lẽ ấy, ngài chẳng nên nói rằng Như Lai đồng với các hành pháp. ”Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Như bần nữ đang có mang mà lại đói khát không nhà cửa, đẻ nhờ dưới mái nhà kia, chủ nhà xua đuổi, bần nữ bồng con muốn đến xứ khác để mưu sinh. Dọc đường phải lội qua con sông, ra giữa dòng bị nước chảy, xoáy mạnh, không nỡ buông con nên mẹ con đồng bị chết đuối. Vì tấm lòng từ ái ấy, bần nữ được sanh lên cõi Phạm thiên.
”Nếu có thiện nam tử muốn hộ trì Chánh pháp, chớ nói Như Lai đồng với các hành pháp hay chẳng đồng với các hành pháp. Chỉ nên tự trách mình ngu si không có huệ nhãn, Chánh pháp của Như Lai không thể nghĩ bàn, không nên tuyên nói Như Lai quyết định là hữu vi, hay vô vi. Nếu là người chánh kiến nên nói Như Lai quyết định là vô vi. Vì sao thế? Vì nói Như Lai là vô vi thời có thể sanh pháp lành cho chúng sanh.
”Thiện nam tử hộ trì Chánh pháp thà chết chớ chẳng nói Như Lai đồng với pháp hữu vi, mà chỉ nên nói Như Lai đồng với pháp vô vi. Nhân vì hộ trì Chánh pháp nói Như Lai đồng với pháp vô vi mà đặng quả vô thượng chánh giác. Như bần nữ thà chết đuối giữa dòng chớ không chịu buông con, nhân đó mà được sanh lên cõi Phạm thiên. Thiện nam tử này chẳng cầu giải thoát mà giải thoát tự đến. Khác nào bần nữ kia chẳng cầu sanh Phạm thiên mà quả Phạm thiên tự đến.
”Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Như người đi xa giữa đường mỏi mệt, nghỉ nhờ nhà người. Giữa lúc ngũ, nhà ấy bổng bốc lửa to. Người ấy choàng dậy biết chắc phải chết, lòng hổ thẹn, sợ thân thể lõa lồ bèn lấy y áo vấn thân mà chết, liền được sanh lên cõi trời Đao-lợi, sau đó tám mươi đời làm Đại Phạm vương, trăm ngàn đời làm Chuyển luân vương, người ấy mãi hưởng phước lành như vậy, hẳn không bị đọa vào ác đạo. Vì duyên cớ ấy, nếu là người có tâm tàm quý chẳng nên xem Như Lai đồng với các hành pháp.
”Bọn ngoại đạo tà kiến mới được nói Như Lai đồng với pháp hữu vi.
”Là Tỳ-kheo trì giới đâu nên có quan niệm rằng Như Lai là pháp hữu vi.
”Nếu nói Như Lai là pháp hữu vi, đó chính là vọng ngữ. Phải biết người này sẽ đọa địa ngục.
”Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Như Lai chân thật, chính là pháp vô vi, chẳng nên lại nói là hữu vi. Từ nay ở trong đường sanh tử, ngài nên bỏ vô trí mà cầu nơi chính trí. Phải biết Như Lai chính là vô vi. Được chánh quán như thế, sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng, chóng thành tựu quả vô-thượng bồ-đề.”
Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát khen Thuần-đà rằng: ”Lành thay! Lành thay! Nay ông đã tạo nhân duyên trường thọ, ông biết được Như Lai là pháp thường trụ, là pháp chẳng biến dị, là pháp vô vi. Nay ông khéo che đậy tướng hữu vi của Như Lai, sau này ông sẽ đặng đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình, mười tám pháp bất cộng, thọ mạng vô lượng, luôn được an vui, không còn sanh tử sẽ thành bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Như người lữ khách bị lửa thiêu mà có lòng hổ thẹn lấy y áo vấn thân, nhờ tâm lành ấy nên được sanh lên cõi Đao-lợi, lại nhiều đời làm Phạm vương, Chuyển luân vương, luôn được an vui chẳng sa ác đạo.
”Tôi cùng ông cũng đều nên che đậy tướng hữu vi của Như Lai. Lát nữa đức Thế Tôn sẽ giảng rộng về ý nghĩa ấy.
”Nên để hữu vi, vô vi lại đó. Ông nên kíp lo cúng dường cơm nước cho kịp giờ, và cũng nên sắm sửa đồ cần thiết cho hàng tứ chúng từ xa hội về đang mỏi mệt. Cúng đường như thế chính là đầy đủ chủng tử căn bản của đàn ba-la-mật.
”Thuần-đà! Nếu cúng dường đức Phật và chư Tăng lần cuối cùng, hoặc nhiều hay ít, đủ hay thiếu đều phải sớm lo cho kịp giờ. Đức Như Lai sẽ nhập Niết-bàn”.
Thuần-đà nói: “Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Sao ngài lại tham chút uống ăn mà nói hoặc ít hoặc nhiều, đủ hay chẳng đủ, rồi bảo tôi lo cho kịp giờ? Xưa kia đức Như Lai khổ hạnh trọn sáu năm còn chịu nổi, huống là giây lát hôm nay. Ngài thiệt cho rằng đức Như Lai Chánh giác thọ đồ uống ăn này ư? Tôi thời biết quyết định thân Như Lai chính là pháp thân, không phải thực thân.”
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: ”Thật đúng như lời của Thuần-đà! Lành thay Thuần-đà! Ông đã thành tựu đại trí huệ, khéo thâm nhập kinh điển Đại thừa”.
Văn-thù-sư-lợi nói với Thuần-đà: “Ông cho rằng Như Lai là vô vi, thân Như Lai là trường thọ, hiểu biết như vậy đức Phật rất hài lòng”.
Thuần-đà nói: ”Đức Như Lai chẳng riêng gì hài lòng nơi tôi, mà cũng hài lòng với tất cả chúng sanh”.
Văn-thù-sư-lợi nói: ”Đức Như Lai đối với ông, với tôi, với tất cả chúng sanh, đều hài lòng”.
Thuần-đà nói: ”Ngài chẳng nên nói đức Như Lai hài lòng. Luận về hài lòng, chính là đảo tưởng. Phàm có đảo tưởng thời là sanh tử, có sanh tử thời là pháp hữu vi. Vì lẽ ấy ngài chẳng nên cho Như Lai là hữu vi. Nếu nói Như Lai là hữu vi thời ngài cùng tôi đều điên đảo cả.
”Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai không có ái niệm. Luận về ái niệm , như trâu mẹ kia ái niệm con của nó, dầu là đói khát đi tìm cỏ nước, hoặc no hay chưa no, bỗng nhiên nhớ con liền trở về. Chư Phật Thế Tôn không có ái niệm như vậy, bình đẳng xem tất cả chúng sanh như La-hầu-la. Từ niệm bình đẳng như vậy chính là cảnh giới trí huệ của chư Phật.
”Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Ví nnư quốc vương ngự trên xe tứ mã, có người muốn cho xe bò theo kịp xe vua, tất không thể được. Ngài cùng tôi muốn cùng tận chỗ vi mật thâm áo của Như Lai cũng không thể được.
”Ví như kim-sí-điểu (35) bay vọt trên cao vô lượng do-tuần, nhìn xuống biển cả thấy rõ những loài thủy tộc cùng loài rồng và bóng của nó. Kẻ phàm tục trí kém, không thể suy lường chỗ thấy của kim-sí-điểu. Cũng thế, ngài cùng tôi không thể suy lường được trí huệ của Như Lai”.
Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát bảo Thuần-đà rằng: “Đúng như lời ông vừa nói. Đối với những việc ấy không phải là tôi không hiểu. Chẳng qua vì muốn đem việc của Bồ Tát thử ông đó thôi”.
Bấy giờ đức Thế Tôn từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng chiếu thân ngài Văn-thù. Ngài Văn-thù liền bảo Thuần-đà rằng: ”Nay đây đức Như Lai hiện thoại tướng từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng như thế chẳng phải là không duyên cớ, đó là điềm đức Phật sắp nhập Niết-bàn. Ông phải sớm lo dâng lễ cúng dường lên đức Phật và chư Tăng cho kịp giờ.”
Đức Phật bảo Thuần-đà: ”Đã phải giờ cho ông dâng thực phẩm cúng dường Phật và đại chúng. Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.”
Đức Phật bảo luôn ba lần như vậy.
Thuần-đà nghe đức Phật dạy như vậy, bất giác nghẹn ngào khóc than nức nở: “Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sẽ trống rỗng.” Rồi ông lại thưa cùng đại hội: “Hôm nay chúng ta phải đồng tha thiết đảnh lễ cầu đức Phật đừng nhập Niết-bàn.”
Đức Thế Tôn lại bảo Thuần-đà ”Ông chớ nên khóc than tiều tụy như vậy. Ông phải quán sát thân này như cây chuối, như ánh nắng, như bọt nước, như huyễn hóa, như thành Càn-thát-bà, như đồ gốm chưa hầm, như làn chớp, như hình vẽ trên nước, như tù sắp hành hình, như trái muồi, như cục thịt, như bức dệt đã hết khổ, như chày giã lên xuống. Phải quán sát các hành pháp như món ăn lẫn chất độc, pháp hữu vi nhiều tai hại.”
Thuần-đà bạch Phật: ”Đức Thế Tôn chẳng muốn ở lại đời làm sao con không buồn khóc cho được. Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sẽ trống rỗng. Ngửa mong Đức Thế Tôn thương xót chúng con và chúng sanh mà ở luôn nơi đời, chẳng nhập Niết-bàn”.
Phật bảo Thuần-đà: ”Ông chẳng nên nói rằng thương xót các ông mà ở luôn nơi đời. Chính vì thương xót ông và các chúng sanh mà hôm nay Phật mới muốn nhập Niết-bàn. Vì sao thế? Chư Phật pháp nhĩ như vậy. Pháp hữu vi cũng thế. Nên chư Phật nói kệ rằng: Các pháp hữu vi Tánh nó vô thường Sanh rồi chẳng trụ Tịch diệt là vui.
Thuần-đà! Ông nên quán sát các hành pháp là tạp độc. Các pháp hữu vi là vô ngã vô thường chẳng trụ. Tấm thân này có rất nhiều tai hại như bóng nước. Vì lẽ ấy ông chớ nên khóc lóc”.
Thuần-đà bạch Phật: ”Thật đúng như lời Thế Tôn dạy. Mặc dầu con vốn biết đức Như Lai phương tiện thị hiện nhập Niết-bàn, nhưng con không làm sao ngăn sự buồn thảm được. Giờ đây tự suy xét, con lại sanh lòng vui mừng.”
Phật khen Thuần-Đa: ”Lành thay! Lành thay! Ông có thể rõ biết Như Lai thị hiện đồng với chúng sanh mà phương tiện nhập Niết-bàn.
”Thuần-đà! Ông nên nghe đây như mùa xuân chim ta-la-tà đều nhóm nơi ao A-dậu-đạt. Chư Phật cũng thế đều đến chỗ ấy. Ông chẳng nên suy nghĩ chư Phật là trường thọ hay đoản thọ. Tất cả các pháp đều như tướng huyễn thuật. Như Lai ở trong ấy do sức phương tiện không có nhiễm trước. Vì sao thế? Vì chư Phật pháp nhĩ như vậy.
”Thuần-đà! Nay Như Lai nhận phần cúng dường của ông là vì muốn cho ông thoát khỏi các dòng sanh tử trong ba cõi. Hàng nhân thiên ở nơi sự cúng dường cuối cùng đối với Như Lai đây, đều sẽ được quả báo bất động, luôn được an vui. Vì sao thế? Vì Như Lai là phước điền tốt của chúng sanh. Nếu ông muốn vì chúng sanh mà làm phước điền, thời phải kíp sắm sửa cúng phẩm, chẳng nên để trễ”.
Bấy giờ Thuần-đà vì các chúng sanh được độ thoát nên cúi đầu lau lệ mà bạch Phật: ”Lành thay đức Thế Tôn! Nếu lúc con kham có thể làm phước điền, thời có thể biết rõ Như Lai là nhập Niết-bàn hay chẳng phải nhập Niết-bàn. Nay trí huệ của chúng con cùng Thanh văn, Duyên giác nhỏ kém như kiến muỗi, thật không thể suy lường Như Lai nhập Niết-bàn hay chẳng phải nhập Niết-bàn”.
Bạch xong, Thuần-đà cùng quyến thuộc buồn rầu khóc lóc, thiêu hương rải hoa, hết lòng cung kính, rồi liền cùng ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát đi lo sắm sửa thực phẩm. 03. PHẨM AI THÁN THỨ BA (Hán bộ phần sau quyển thứ hai) Ông Thuần-đà ra đi không bao lâu, khắp cả đại-địa nhẫn đến trời phạm thiên bỗng chấn động sáu cách (36). Phàm địa động có hai đại động và tiểu động. Có tiếng nhỏ, chỉ riêng nơi mặt đất chấn động, chỉ động một chiều, đây là tiểu địa động. Có tiếng lớn, cả đất liền cùng núi biển sông rạch cây cối đều động, động xoay nhiều chiều, lúc động có thể làm động cả tâm chúng sanh, đây là đại địa động. Đức Phật ra đời có những lần đại địa động từ cung trời Đâu-suất giáng thần xuống nhơn gian, sơ sanh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, và nhập Niết-bàn. Giờ đây Như Lai sắp nhập Niết-bàn nên có điềm đại địa động như vậy.
Thiên long bát bộ (37) cả mình rởn ốc, đồng thanh buồn khóc mà nói kệ rằng:
Cúi đầu lạy Thế Tôn Chúng con đồng khuyến thỉnh, Chúng con mà xa Phật Thời không ai cứu hộ. Đức Phật nhập Niết-bàn Chúng con chìm biển khổ Khác nào nghé mất mẹ Sầu lo rất buồn khổ, Nghèo cùng không ai giúp Cũng như người bệnh ngặt Không lương y săn sóc Tự ý ăn uống lầm Chúng sanh bệnh phiền não Thường bị kiến chấp hại Xa lìa đấng y vương (38) Uống ăn thuốc tà độc Ngửa mong Phật Thế Tôn Chớ bỏ rơi chúng con. Ví như mặt trời mọc Quang minh rất sáng chói Đã có thể tự soi Cũng từ tất cả tối, Phật phóng thần thông quang Trừ khổ não chúng sanh Ở giữa các chúng hội Ví như núi Tu-di (39)
”Bạch Thế Tôn! Ví như quốc vương sanh các vương tử diện mạo xinh đẹp. Vua rất yêu mến dạy cho rành nghề văn nghiệp võ rồi sai người đem giết.
”Ngày nay chúng con là con của Phật, nhờ Phật dạy dỗ có đủ chánh kiến, xin chớ bỏ con. Nếu bỏ chúng con thời chúng con khác nào các vương tử kia. Ngửa mong đức Phật ở luôn nơi đời, chớ nhập Niết-bàn.
”Bạch Thế Tôn! Ví như có người học giỏi nơi các bộ luận rồi lại sanh lòng sợ đối với các bộ luận ấy, cũng thế, đức Như Lai thông đạt các pháp mà lại sợ các pháp. Nếu được đức Như Lai ở luôn nơi đời giảng pháp cam lồ cho chúng sanh được thấm nhuần đầy đủ, thời các chúng sanh đây chẳng còn lại sợ phải bị sa vào địa ngục.
”Bạch Thế Tôn! Ví như có người mới vừa học làm nghề, kế bị quan bắt giam vào ngục, có hỏi thăm hiện tại thế nào? Người ấy tất đáp: nay tôi rất buồn khổ. Nếu người ấy được thả, thời được an vui. Cũng thế, đức Thế Tôn vì chúng con mà tu các khổ hạnh, hiện nay chúng con chưa được thoát khỏi sanh tử, thế sao đức Như Lai đặng thọ hưởng an vui.
”Bạch Thế Tôn! Ví như y vương hiểu rành các phương thuốc, đem phương bí truyền dạy riêng cho con mình, mà khôngh dạy cho các trò khác. Cũng thế, đức Như Lai đem tạng pháp thậm thâm bí mật dạy riêng cho Văn-thù-sư-lợi, mà chẳng thưong chẳng dạy cho chúng con. Như ông thầy thuốc kia vì lòng còn riêng tư thân sơ, nên sự dạy không bình đẳng rộng rãi, chỉ dạy riêng cho con mình môn bí phương, mà không truyền cho các trò khác. Đức Như Lai trọn không có lòng thân sơ tư vị, tại sao chẳng dạy dỗ chúng con. Ngửa mong đức Phật ở lâu nơi đời, chớ nhập Niết-bàn.
”Bạch đức Thế Tôn! Ví như những người già trẻ bệnh khổ đi nơi đường hiểm rất khốn khó gian lao, có bực dị nhân thấy vậy xót thương bèn chỉ cho con đường tốt bằng thẳng. Chúng con cũng như vậy. Người trẻ dụ cho những kẻ chưa tăng trưởng pháp thân, người già dụ cho những kẻ nặng phiền não, bệnh khổ dụ cho sanh tử, đường hiểm nạn dụ cho tam giới. Cúi xin đức Như Lai chỉ dẫn con đường chơn chánh giải thoát cho chúng con, ở lâu nơi đời, chớ nhập Niết-bàn.”
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: ”Các thầy đừng ưu sầu khóc kể như hàng trời người phàm phu kia. Các thầy phải siêng năng tinh tấn giữ vững chánh niệm”.
Nghe đức Phật phán như vậy, hàng trời người bát bộ liền nín khóc.
Đức Thế Tôn vì đại chúng mà nói kệ rằng: Đại chúng phải sáng suốt Chẳng nên quá sầu khổ. Chư Phật đều vậy cả Vì thế nên im lặng, Thích nơi hạnh tinh tấn Gìn lòng giữ chánh niệm Xa lìa các điều quấy Hớn hở được an vui.
”Lại này các thầy Tỳ-kheo! Nếu có chỗ nào nghi ngờ đều phải bạch hỏi. Ở trong những pháp không, bất không, thường, vô thường, khổ, phi khổ, y, phi y, khứ, bất khứ, quy, phi quy, hằng, phi hằng, đoạn, phi đoạn, chúng sanh, phi chúng sanh, hữu, vô hữu, thiệt, bất thiệt, chơn, bất chơn, diệt, bất diệt, mật, bất mật, nhị, bất nhị, v.v… nếu còn nghi ngờ nay nên bạch hỏi, Như Lai sẽ giải quyết cho. Như Lai trước nói pháp cam-lộ cho các thầy rồi, sau mới nhập Niết-bàn.
”Này các thầy Tỳ-kheo! Phật ra đời là khó, thân người khó được, gặp Phật sanh tín tâm, việc đây cũng khó, nhẫn sự khó nhẫn lại là khó hơn, đầy đủ giới hạnh chứng quả A-la-hán (40) cũng là việc khó. Như tìm cát vàng cùng hoa ưu-đàm-bát-la.
”Các thầy khỏi bát nạn được thân người là sự khó, nay gặp Như Lai chẳng nên để luống uổng. Ngày xưa, Như Lai tu nhiều hạnh khổ, nay được phương tiện vô thượng như thế, trong vô lượng kiếp vì các thầy mà xả thí thân thịt tay chân đầu mắt tủy não. Ví thế các thầy chẳng nên phóng dật.
”Này các thầy Tỳ-kheo! Thành báu chánh pháp trang nghiêm, đầy đủ các thứ công đức trân bảo, giới, định, và trí huệ làm tường thành và hào thành. Nay các thầy gặp được thành báu Phật pháp, chẳng nên lượm lấy những vật hư ngụy. Ví như nhà thương mãi gặp thành chân bảo, lượm lấy ngói sạn rồi trở về nhà. Các thầy chớ để tâm hạ liệt, cam đủ nơi chút ít pháp mọn. Các thầy dầu xuất gia mà không ham mộ pháp Đại thừa. Thân các thầy dầu được đắp cà sa mà tâm chưa được nhuộm pháp Đại thừa thanh tịnh. Các thầy dầu khất thực ở nhiều nơi mà chưa từng khất pháp thực Đại thừa. Các thầy dầu cạo bỏ râu tóc mà chưa vì chánh pháp cạo sạch kiết sử.
”Này các thầy Tỳ-kheo! Nay Như Lai bảo thiệt các thầy, hiện nay Như Lai đại chúng hòa hiệp pháp tánh chơn thiệt chẳng điên đảo. Vì thế các thầy phải nhiếp tâm dõng mãnh tinh tấn xô dẹp các kiết sử. Khi mặt trời Phật huệ lặn mất rồi, các thầy sẽ bị vô minh trùm đậy.
”Này các thầy! Ví như những cỏ thuốc trên mặt đất để chúng sanh dùng, Phật pháp cũng vậy, sanh ra pháp vị cam lồ diệu thiện làm thuốc hay chữa bệnh phiền não của chúng sanh. Nay Như Lai sẽ làm cho tất cả chúng sanh cùng bốn bộ chúng đều được an trụ trong tạng bí mật. Cũng như chữ y, nếu ba điểm đứng chung hàng, hoặc đứng ngay, hoặc khác nhau đều không thành chữ y. Ba điểm phải như ba con mắt trên mặt Đại Tự Tại Thiên mới thành chữ y. Như Lai cũng thế, pháp giải thoát không phải Niết-bàn, thân Như Lai không phải Niết-bàn, Ma-ha-bát-nhã cũng không phải Niết-bàn, ba pháp đều khác nhau cũng không phải Niết-bàn. Như Lai này an trụ ba pháp ấy, vì chúng sanh mà nói là nhập Niết-bàn, như chữ y trong đời.”
Các Tỳ-kheo nghe đức Phật Thế Tôn nói quyết định sẽ nhập Niết-bàn, ai nấy đều lo rầu, cả mình rởn ốc, lệ tràn đầy mắt, cúi lạy chơn Phật mà bạch rằng: ”Đức Thế Tôn khéo dạy vô thường, khổ, không, vô-ngã.
”Bạch Thế Tôn! Ví như các dấu chân của muông thú, dấu chân voi là hơn cả. Vô thường quán cũng lại như vậy là pháp quán tưởng bậc nhất trong các pháp quán tưởng. Nếu ai tinh cần tu tập pháp này, thời có thể trừ tất cả sự ái nhiễm cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, trừ vô minh kiêu mạn và vô thường tưởng. Đức Như Lai nếu đã lìa hẳn vô thường tưởng thời nay chẳng nên nhập Niết-bàn. Còn nếu chẳng lìa hẳn, cớ sao lại dạy rằng tu vô thường quán trừ được sự ái nhiễm ba cõi, vô minh, kiêu mạn và vô thường tưởng.
”Bạch Thế Tôn! Ví như đế vương biết mạng sắp chết, bèn ân xá ngục tù trong thiên hạ rồi sau mới băng. Ngày nay đức Như Lai cũng nên như vậy, độ cho tất cả chúng sanh thoát khỏi lao ngục vô tri vô minh rồi sẽ nhập Niết-bàn. Hiện tại chúng con đều chưa được giải thoát, sao đức Thế Tôn lại vất bỏ mà muốn nhập Niết-bàn?
”Bạch Thế Tôn! Như người say rượu mê loạn nói xàm, không còn biết thân sơ, mẹ con, chị em, nằm vùi trong phẩn nhơ, nhờ lương y cho uống thuốc, ói sạch rượu ra mới được tỉnh lại, lòng rất hổ thẹn tự răn trách lấy mình, rượu là thứ hại, là cội gốc của các tội lỗi, nếu chừa được rượu thời khỏi tội lỗi. Chúng con cũng thế, từ nhiều đời đến nay luân chuyển sanh tử, tình sắc làm say mê tham đắm trong ngũ dục, không phải mẹ, tưởng là mẹ, không phải con, chị, em, mà tưởng là con, chị, em, không phải chúng sanh mà tưởng là chúng sanh, vì cớ ấy nên luân chuyển chịu khổ sanh tử, như người say kia nằm trong phẩn nhơ. Nay đức Như Lai nên ban pháp dược cho chúng con uống để ói rượu độc phiền não, chúng con còn chưa được tỉnh ngộ, sao đức Như Lai lại vất bỏ mà muốn nhập Niết- bàn?
”Bạch Thế Tôn! Không có cớ gì khen cây chuối là cứng chắc được. Chúng sanh cũng thế, không co cớ gì khen ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, tri kiến, tác giả, thọ giả là chân thật được. Chúng con tu vô ngã quán cũng như vậy.
”Bạch Thế Tôn! Vì như bã xác không còn dùng được, bông thất diệp không có mùi thơm, cũng vậy, thân thể của người không ngã không chủ. Chúng con thường tu tập pháp quán tưởng vô ngã như vậy.
”Như đức Phật từng dạy tất cả các pháp không ngã và không ngã sở, các Tỳ-kheo phải tu tập. Tu như đây thời trừ ngã mạn, rời ngã mạn thời chứng Niết-bàn. Bạch Thế Tôn! Không bao giờ có dấu chim bay nơi hư không. Người hay tu tập pháp quán vô-ngã không bao giờ có các kiến-chấp”.
Đức Phật khen các Tỳ-kheo: ”Lành thay! Lành thay! Các thầy khéo hay tu tập pháp quán vô ngã.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật: ”Bạch Thế Tôn! Chẳng những chúng con tu pháp quán vô ngã tưởng, mà chúng con cũng tu tập các pháp quán khác như khổ, vô thường.
”Bạch Thế Tôn! Như nguời say, tâm trí mê loạn thấy nhà cửa cây cỏ núi sông thảy đều xoay lộn. Ngươi không tu các pháp quán khổ, vô thường, vô ngã thời chẳng gọi là bậc thánh, người này nhiều phóng dật trôi lăn trong vòng sanh tử. Vì thế nên các con khéo tu tập các quán ấy”.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: ”Lóng nghe! Lóng nghe! Vừa rồi các thầy trình bày ví dụ người say đó, các thầy chỉ biết danh tự mà chưa hiểu thấu 'thật nghĩa'. Thế nào là 'thật nghĩa'? Như người say kia thấy nhà cửa núi sông vốn thiệt không xoay lộn, mà tưởng cho là xoay lộn. Cũng vậy, bị những phiền não vô minh trùm đậy nên chúng sanh khởi tâm điên đảo ngã cho là vô ngã, thường cho là vô thường, tịnh cho là bất tịnh, lạc cho là khổ. Vì mắc phải phiền não trùm che, nên dầu nghĩ tưởng như vậy mà không thấu rõ 'thật nghĩa', như người say kia đối với sự không xoay lộn mà tưởng cho là xoay lộn.
”'Ngã' chính là thật nghĩa của 'Phật', 'Thường' chính là thật nghĩa của 'Pháp thân', 'Lạc' là thật nghĩa của 'Niết-bàn', 'Tịnh' là thật nghĩa của 'Pháp'.
”Các thầy sao lại nói người có ngã thời kiêu mạn cống cao lưu chuyển sanh tử. Nếu các thầy nói rằng, tôi cũng tu tập pháp quán vô thường, khổ, vô ngã. Ba môn tu tập này không có 'thật nghĩa'.
”Như Lai sẽ nói ba pháp tu đặc thắng.
”Khổ cho là vui, vui cho là khổ, là pháp điên đảo. Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường, là pháp điên đảo. Vô ngã cho là ngã, ngã cho là vô ngã, là pháp điên đảo. Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh, là pháp điên đảo. Có bốn pháp điên đảo như vậy thời là người chẳng rõ pháp tu chân chánh.
”Các thầy ở trong pháp khổ tướng cho là vui, ở trong vô thường tưởng cho là thường, ở trong vô ngã tưởng cho là ngã, ở trong bất tịnh tưởng cho là tịnh.
”Thế gian cũng có thường, lạc, ngã, tịnh. Xuất thế cũng co thường, lạc, ngã tịnh. Pháp thế gian có văn tự mà không thật nghĩa. Xuất thế có văn tự có thật nghĩa. Tại sao vậy? Vì pháp thế gian có bốn sự điên đảo nên chẳng biết thật nghĩa. Lại có tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Vì có ba sự điên đảo này nên người thế gian ở trong lạc thấy là khổ, trong thường thấy vô thường, trong ngã thấy vô ngã, trong tịnh thấy bất tịnh, đây gọi là điên đảo. Vì điên đảo nên thế gian biết văn tự mà chẳng biết thật nghĩa.
”Gì là thật nghĩa? Vô ngã gọi là sanh tử, còn ngã gọi là Như Lai. Vô thường là Thanh-văn Duyên- giác, còn thường là Như Lai pháp thân. Khổ là tất cả ngoại đạo, còn lạc là Niết-bàn. Bất tịnh là pháp hữu vi, còn tịnh là chánh pháp của chư Phật và Bồ Tát. Đây gọi là chẳng điên đảo. Vì chẳng điên đảo nên biết văn tự biết thật nghĩa. Nếu muốn lìa khỏi bốn sự điên đảo thời phải rõ biết thường, lạc, ngã, tịnh như vậy.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật: ”Bạch Thế Tôn! Như lời đức Thế Tôn dạy rằng dứt lìa bốn sự điên đảo ấy thời được rõ biết thường, lạc, ngã, tịnh. Nay đức Như Lai trọn không có bốn sự điên đảo thời đã rõ biết thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu đã rõ biết thường, lạc, ngã, tịnh sao đức Như Lai không ở đời một kiếp hoặc nửa kiếp để dạy dỗ chúng con, cho chúng con khỏi lìa bốn sự điên đảo, mà lại vất bỏ chúng con muốn nhập Niết-bàn. Nếu được đức Như Lai đoái thương dạy bảo, chúng con sẽ hết lòng tuân lời tu tập. Nếu đức Như Lai nhập Niết-bàn, chúng con không thể mang thân độc hại này mà tu phạm hạnh. Chúng con cũng sẽ nhập Niết-bàn theo Phật.”
Phật bảo các Tỳ-kheo: ”Các thầy chớ nói như vậy. Bao nhiêu vô thượng Chánh pháp của Phật, Như Lai đều đem giao phó cho Ma-ha Ca-diếp. Ma-ha Ca-diếp sẽ là chỗ y chỉ hoàn toàn cho các thầy, cũng như đức Như Lai là chỗ y chỉ của tất cả chúng sanh.
”Ví như quốc vương lúc đi tuần du, đem quốc sự giao phó cả cho đại thần. Cũng vậy, Như Lai đem Chánh pháp giao phó cho Ma-ha Ca-diếp.
”Các thầy nên biết rằng chỗ tu pháp khổ vô thường trước kia chẳng phải là chân thật. Ví như mùa xuân, có một nhóm người chơi thuyền trong hồ lớn làm rớt chìm ngọc lưu ly. Nhóm người ấy, liền cùng nhau hụp lặn tìm ngọc, bóc nhằm hòn sỏi viên đá, bụng mừng cho là ngọc, đến lúc đem ra khỏi nước mới rõ là không phải. Lúc ấy ngọc lưu ly vẫn ở dưới nước, do thế lực của ngọc mà nước hồ đều đứng trong. Bấy giờ nhóm người ấy mới nhìn thấy viên ngọc. Có một người trí tìm cách khéo chẫm rãi lặn xuống tìm vớt được ngọc.
”Các thầy chớ nên cho sự tu tập pháp quán vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh như vậy là thật nghĩa .Như nhóm người kia lặn xuống nước bốc nhằm sạn đá mà cho là ngọc. Các thầy phải khôn khéo nơi nơi chỗ chỗ, luôn tu pháp quán ngã, thường, lạc, tịnh. Lại cần nên biết tướng mạo tu tập bốn pháp trước kia đều là điên đảo. Muốn được chân thật tu các pháp quán, tức là quán ngã, thường, lạc, tịnh thời phải như người trí khéo vớt được ngọc kia.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật: ”Bạch Thế Tôn! Ngày trước đức Phật dạy rằng các pháp vô ngã, các ông phải tu học. Tu học pháp vô ngã sẽ lìa sự chấp ngã, lìa chấp ngã thời lìa kiêu mạn, lìa kiêu mạn, thời chứng Niết-bàn. Nghĩa ấy thế nào?”
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Lành thay! Lành thay! Nay các thầy có thể bạch hỏi nghĩa ấy để tự dứt chỗ nghi ngờ.
“Này các thầy! Ví như quốc vương kém sáng suốt, tin dùng một y sư vụng về, tánh tình lại cao ngạo, phàm trị bệnh gì cũng thuần dùng sữa để làm thuốc cả , thêm nỗi chẳng rõ căn do của bệnh, dầu biết dùng sửa mà chẳng hiểu rành, chẳng biện biệt sửa tốt xấu, lành, không lành. Một hôm, từ phương xa lại một minh y thông cả tám nghề, rành các phương thuốc, trị bệnh rất giỏi. Cựu y vì sẵn tánh cống cao khinh mạn nên không đếm xỉa tới. Minh y thấy vậy, bèn hạ mình thỉnh cựu y làm thầy, nhân đó được vào hầu quốc vương. Minh y trình bày lên quốc vương các phương thuốc và những nghệ thuật khác. Bấy giờ quốc vương tỉnh ngộ, xét biết cựu y là hạng vụng về cao ngạo, liền biếm truất đi, rồi trọng dụng minh y. Minh y mới yêu cầu quốc vương cấm dân chúng uống thuốc sửa của cựu y, vì thuốc ấy độc hại, làm thương tổn người bệnh, quốc vương chuẩn lời, ra lệnh cấm hẳn, nếu ai dùng sữa để trị bệnh sẽ bị tử hình. Minh y cứ theo phương dược chế các thứ thuốc, phàm dân chúng có bệnh gì đều trị lành cả.
“Ít lúc sau, quốc vương phải bệnh nặng, truyền vời minh y điều trị. Sau khi khám bệnh, biết rằng quốc vương phải dùng thuốc sữa, minh y liền tâu rằng: 'Ngày trước tôi yêu cầu cấm dùng sữa làm thuốc, đó là đại vọng ngữ. Nếu uống thuốc sữa rất có thể trị được bệnh. Hiện nhà vua đang phải bệnh nóng, chính nên dùng sữa'.
“Vua bảo: 'Có lẽ ông điên cuồng hay bị bệnh loạn óc rồi, mới nói rằng uống sữa trị được bệnh của ta. Cựu y dùng sữa, ông cho là độc, bảo ta biếm truất và cấm hẳn, nay trở lại nói sữa là tốt hay trị được bệnh. Ông muốn khi dối ta ư? Cứ theo lời ông nói thời cựu-y có thể hơn ông rồi'.
“Minh y tâu: 'Thưa Đại vương! Như mối ăn gỗ ngẫu nhiên thành chữ, con mối này tự nó không biết là chữ hay không phải chữ. Người trí xem thấy trọn không bao giờ tuyên xướng rằng con mối biết chữ và cũng chẳng lấy làm lạ. Cũng vậy, cựu-y không hiểu căn bệnh, bệnh gì cũng dùng thuần sữa để trị, lại không biết sữa là tốt hay xấu, là lành hay không lành.'
“Vua nói: 'Xin ông giải thích cho ta rõ'
“Minh y tâu: 'Thuốc sữa kia cũng là độc hại, cũng là cam lộ. Thế nào là thuốc sữa cam lộ? Nếu là bò cái không ăn bã hèm trấu cặn, con nghé của nó rất điều thiện, chỗ thả chăn không phải cao nguyên cũng không quá thấp ướt, nước uống trong sạch, chẳng cho chạy nhảy, chẳng cho chung bầy với bò đực, cho nó ăn uống đi đứng vừa chừng phải cách. Sữa của bò này trị được nhiều bệnh gọi là cam lộ. Ngoài ra các thứ sữa khác thời gọi là độc hại.
“Nghe minh y giảng giải, vua khen rằng: 'Hay lắm! Hay lắm! Nay ta mới rõ thế nào là sữa tốt, xấu, lành, cùng chẳng lành'.
“Sau khi được uống thuốc sữa của minh y, vua được lành mạnh, vua liền truyền lệnh cho dân chúng được dùng sữa để trị bệnh. Dân chúng không vừa lòng với thái độ của nhà vua, nên hội đến hoàng cung để cật vấn.
“Quốc vương bảo dân chúng: 'Mọi người chẳng nên oán trách nơi ta, về vấn đề thuốc sữa nên uống hay không nên uống đều là ý của y sư cả không phải lỗi của ta'.
“Dân chúng vui lòng tuân lời minh y dùng thuốc sữa tốt trị bệnh, được nhiều kết quả tốt.
“Này các Tỳ-kheo! Các thầy nên biết đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn cũng lại như vậy. Là bậc đại y vương hiện ra nơi đời hàng phục tất cả tà y ngoại đạo. Giữa đại chúng xướng rằng ta là y vương, vì hàng phục ngoại đạo nên nói không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả. Các thầy nên biết ngoại đạo mà nói là ngã đó, như mối ăn cây ngẫu nhiên thành chữ thôi. Vì thế nên trong Phật pháp đức Như Lai nói là vô ngã để điều phục chúng sanh, và vì là lúc phải nói là vô ngã. Rồi cũng vì có nhân duyên nên cũng nói có ngã. Như minh y kia biết rõ nơi sữa phải thuốc, hay không phải thuốc. Chẳng phải như chỗ chấp ngô ngã của phàm phu. Phàm phu chấp ngã lớn như ngón tay cái, hoặc như hạt cải, hoặc như vi trần. Ngã của Như Lai nói đều không phải như vậy, vì thế nên nói các pháp không ngã, mà chính thật chẳng phải là không ngã. Thế nào là thật? Nếu Pháp là thật, là chân, là thường, là chủ, là sở y, tánh không biến đổi, đó gọi là ngã. Như minh y kia hiểu rành thuốc sữa. Cũng vậy, Như Lai vì chúng sanh mà nói trong các pháp chân thật có ngã. “Bốn bộ đệ tử của Như Lai đều phải tu pháp quán chân ngã như vậy.” THÍCH NGHĨA (17) THẾ TÔN: Đấng tôn quý nhứt trong tất cả thế gian và xuất thế gian. Từ ngữ này gồm đủ mười điều vô thượng: 1 – Như Lai, 2 – Ứng Cúng. 3- Chánh Biến Tri. 4- Minh Hạnh Túc. 5- Thiện Thệ. 6- Thế Gian Giải. 7- Vô Thượng Sĩ. 8- Điều Ngự Trượng Phu. 9- Thiên Nhân Sư. 10- Phật. (18) LA-HẦU-LA: Con trai của Thái tử Sĩ-đạt-ta và Da-du-đà-la. (19) BỐ-THÍ BA-LA-MẬT: Công hạnh bố thí đã đến từng ngã và pháp đều không, đã rốt ráo viên mãn. Biệt giáo bậc sơ địa viên giáo bậc sơ trụ mới thành tựu hạnh này. (20) TRÍ HUỆ CHỨNG NGÃ KHÔNG: gọi là “Nhất thiết trí” Hàng nhị thừa có trí này. Trí huệ chứng ngã không và phần chứng pháp không gọi là “Đạo chủng trí”. Pháp thân Bồ Tát có trí này. Trí huệ chứng ngã Không và toàn chứng pháp Không gọi là “Nhất thiết chủng trí” Chỉ bực Phật mới có trí này. Trí huệ này gồm có bốn trí: 1- Thành sở tác-trí. 2- Diệu quán sát trí. 3- Bình đẳng tánh trí. 4- Đại viên cảnh trí. (21) NGŨ NHÃN: 1- Nhục nhãn. 2- Thiên nhãn. 3- Huệ nhãn. 4 Pháp nhãn. 5- Phật nhãn. Phàm phu chỉ có nhục nhãn, riêng chư thiên và chư ngũ thông tiên nhân gồm có thiên nhãn. A-la-hán và Bích Chi Phật có nhục nhãn, thiên nhãn và huệ nhãn. Pháp thân Bồ Tát có ba nhãn trên và pháp nhãn Đức Phật có đủ 5 nhãn. (22) KIẾP-BA: là thời gian dài. Có tiểu, trung và đại ba kiếp. Một tiểu kiếp có 16798.000 năm (theo năm của nhân loại địa cầu). Một trung kiếp có 20 tiểu kiếp. Và một đại kiếp có 4 trung kiếp hay 80 tiểu kiếp, tức là (16798.000 năm x 80 = 1.343.840.000 năm) (một tỷ, ba trăm bốn mươi ba triệu, tám trăm bốn chục ngàn năm). Phàm trong kinh chỉ nói bao nhiêu kiếp, mà không nói trung hay tiểu, thời thường là nói đại kiếp. (23) BỐN MA: Ma phiền não, Ma ngũ ấm, Ma chết, và Thiên ma. Nói đủ là Ma La có nghĩa là hay phá hoại thiện căn của chúng sanh, của người tu hành. BA ÁC ĐẠO: Súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Ba loài này vì phạm tội thập ác nhẹ, vừa và nặng mà phải thọ lấy quả khổ ấy, nên gọi là ác đạo, đây là cứ nơi nghiệp nhân ác mà đặt tên. Nếu theo quả khổ thời gọi là tam đồ: 1- Huyết đồ, loài súc sanh thường ăn nuốt máu thịt lẫn nhau; 2- Đao đồ, loài ngạ quỷ thường dùng dao gậy đánh đập nhau; 3- Hỏa đồ- loài địa ngục thường bị lửa thui đốt, nấu rang. ƯU-ĐÀM BÁT-LA HOA: dịch là Linh Thoại Hoa. Tục truyền ba ngàn năm mới xuất hiện một lần, là điềm thánh vương, hay thánh nhân xuất thế. Ném hạt cải trúng dính vào đầu nhọn cây kim. “Đàn” là bố thí, “Độ” là ba-la-mật. “Đàn Độ” là bố-thí ba-la-mật. TAM GIỚI: ba cõi- cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. BÔNG Y-LAN: là một thứ hoa có mùi rất hôi thối. (30) ĐẾ-THÍCH: nói đủ là Thiên Đế-thích Đề-hoàn-nhân, vua cõi trời Đao-lợi. PHẠM THIÊN: Thiên Vương cõi Sắc. (31) PHIỀN NÃO: Phiền nhiễu, não loạn, tức là những tâm niệm xấu, cùng ý tưởng ác như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v… nó làm nhiễu loạn thân tâm người, đồng thời hay phá hoại thiện căn của người, nên cũng gọi là phiền não ma. (32) ĐẠI LONG TƯỢNG: Rồng lớn và voi lớn là loài to mạnh trong các muông thú. Dùng danh từ này là dụ cho các bậc siêu nhân đại Bồ Tát. Phật là Pháp vương, đại Bồ Tát sẽ thành Phật, là con của đấng Pháp vương nên gọi là Pháp vương tử. (34) HÀNH PHÁP: Pháp di động chuyển biến. (35) KIM-SÍ-ĐIỂU: Chim cánh vàng, một loài chim to nhất hay dùng rồng làm món ăn. (36) SÁU CÁCH CHẤN ĐỘNG 3 CÁCH VỀ TIẾNG: 1. Tiếng nổ, 2. Tiếng loài hữu tình kêu la, 3. tiếng loài vô tình khua chạm, 3 cách về hình: 1. rung động qua lại, 2. vọt lên khỏi chỗ cũ, 3. đang nằm bỗng đứng dậy dựng lên. (37) TÁM BỘ THIÊN THẦN: Thiên thần, Long thần, Dạ xoa thần, Càn-thát-bà thần, A-tu-la thần, Ca-lâu-la thần, Khẩn-na-la thần, Ma-hầu-la thần. (38) Y VƯƠNG: Đức Phật là ông Vua thuốc pháp, hay chữa lành tâm bệnh phiền não cứu chúng sanh thoát khỏi tất cả khổ thống, sanh tử, để được an vui Niết-bàn thường lạc, ngã, tịnh. (39) TU-DI SƠN (Suméru): Quả núi to nhất ở thế gian, ở giữa biển Hương Thủy, toàn bằng bốn chất báu vàng, bạc, lưu ly và pha lê. Đỉnh núi là cõi trời Đao-lợi, thuộc quyền Đế-thích thống trị. Giữa núi là cõi Tứ vương, do 4 vị Thiên vương cai quản. (40) A-LA-HÁN: Quả thứ tư trong bốn quả thánh xuất thế thuộc Tiểu thừa. Tu-đà-hoàn (Dự lưu)- bậc này thấy lý tứ đế, dứt ngã chấp, phân biệt hết kiến hoặc, ra khỏi phàm phu, dự vào hàng thánh xuất thế. Tư-đà-hàm (Nhất Lai)- bậc thánh này đã hết kiến hoặc dứt thêm sáu phẩm trong chín phẩm tư hoặc cõi Dục, còn một lần sanh trở lại cõi Dục mới thoát hẳn. A-na-hàm (Bất Lai)- bậc Thánh đã hết kiến hoặc và dứt cả chín phẩm tư hoặc cõi Dục, không còn sanh trở lại cõi Dục nữa. A-La-Hán (Vô sanh, Sát tặc, Ứng cúng)- bậc Thánh cao nhất trong hàng Thanh văn Tiểu thừa, đã dứt sạch kiến hoặc và tư hoặc tam giới cùng câu sanh ngã chấp nên gọi là Sát tặc. Đã khỏi hẳn sanh tử luân hồi trong lục đạo, nên hiệu là Vô sanh, là bậc đáng thọ sự cúng dường của nhân thiên, niên hiệu là Ứng cúng.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.139.104.23 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.