|
Chương Ba - Ðại
Phẩm
(I) Kinh Xuất Gia (Sn 72)
Ananda:
405. Xuất gia, tôi tán
thán,
Như Pháp nhãn xuất
gia,
Sau khi Ngài quán sát,
Chấp thuận hạnh xuất
gia.
406.Trói buộc, sống gia
đình,
Tụ hội mọi bụi đời,
Phóng khoáng, đời
xuất gia,
Thấy vậy nên xuất
gia.
407. Sau khi Ngài xuất gia,
Thân ác nghiệp Ngài tránh,
Từ bỏ lời nói ác,
Mạng sống Ngài thanh
tịnh.
408. Phật đi đến Vương
Xá,
Ðến chỗ núi bao vây,
Tại nước Ma-kiệt-đà,
Ngài sống hạnh khất
sĩ,
Mang theo thật đầy đủ,
Các tướng tốt quang
minh.
409. Bình Sa vương thấy
Ngài,
Ðứng trên sân lầu
thượng,
Thấy đầy đủ
tướng tốt,
Bèn nói lên lời
này:
410. Các Ông hãy chăm
sóc
Người đẹp, lớn,
thanh tịnh,
Thành tựu với hạnh
đức,
Chỉ nhìn vừa một
tầm.
411. Mắt nhìn xuống, chánh
niệm,
Gia đình không hạ
tiện,
Hãy cho sứ giả theo,
Tỷ-kheo sẽ đi đâu?
412. Ðược sai, sứ giả
ấy
Ði theo sau lưng Ngài,
Tỷ-kheo sẽ đi đâu?
Trú xứ sẽ chỗ nào?
413. Khất thực, từng
nhà một,
Căn hộ trì chế ngự,
Bình bát được
mau đầy,
Tỉnh giác và chánh
niệm.
414. Sau khi đi khất thực,
ẩ sĩ ra khỏi thành,
Leo lên Pandava,
Sẽ trú xứ tại đấy.
415. Thấy vị ấy đến
chỗ,
Các sứ giả ngồi
chờ,
Còn một vị đi về,
Kể lại chuyện vua hay.
416. Ðại vương, Tỷ-kheo
ấy,
Phía đông Pandava,
Ngồi như cọp, bò chúa,
Như sư tử trong hang.
417. Nghe sứ giả, đức
vua
Với cỗ xe thù thắng,
Vội vàng ra khỏi thành,
Ði đến Pandava.
418. Ði được, vua đi
xe,
Rồi xuống xe đi bộ,
Ðức vua tiến lại gần,
Và vào chỗ Ngài ở.
419. Ngồi xuống, vua nói
lên
Lời hỏi thăm chào
đón,
Lời lẽ chào đón
xong,
Vua nói lên nghĩa này.
420. Người thanh niên tuổi
trẻ,
Ngây thơ, bước vào
đời,
Ðẹp cao được
đầy đủ,
Thiện sanh dòng Sát-ly.
421. Trang hoàng binh đội
ngũ,
Trước mắt cả binh đoàn,
Tài sản ta cho Người,
Hãy hưởng và trả
lời
Về vấn đề thọ sanh.
Thế Tôn:
422. Trên sườn núi
Tuyết sơn,
Sống dân tộc đoạn
trực,
Tài sản nghị lực
đủ,
Ở xứ Kosala.
423. Dòng họ thuộc mặt trời,
Sanh tộc là Thích-ca,
Từ bỏ gia tộc ấy,
Thưa vua, Ta xuất gia,
Ta không có tha thiết,
Ðối với các loại
dục.
424. Thấy nguy hiểm trong dục,
Bỏ chúng, là an ổn,
Ta sẽ đi, tinh tấn,
Ý Ta, được hoan hỷ.
(II) Kinh Tinh Cần (Sn 74)
Thế Tôn:
425. Bên sông Ni-liên-thuyền,
Ta tinh cần tinh tấn,
Cố gắng, Ta thiền định,
Ðạt an ổn khổ ách.
426. Ác ma đến gần Ta,
Nói lên lời từ mẫn,
Ông ốm không dung sắc,
Ông đã gần chết
rồi.
427. Cả ngàn phần, Ông
chết,
Chỉ một phần còn
sống,
Hãy sống, sống tốt
hơn,
Sẽ làm các công
đức.
428. Như Ông sống Phạm
hạnh,
Hãy đốt lửa tế
tự,
Hãy chất chứa công
đức,
Ông tinh tấn làm gì?
429. Khó thay, đường
tinh tấn,
Khó làm, khó đạt
được.
Ác ma đứng gần
Phật,
Nói lên những kệ này.
430. Thế Tôn đã đáp
lại
Lời Ác ma như sau:
Bà con ác phóng dật,
Ngươi đến đây
làm gì?
431. Với công đức
nhỏ bé,
Ta đâu có cần
đến?
Với ai cần công đức,
Ác ma đáng nói
chúng.
432. Ðây có tín,
tinh tấn,
Và Ta có trí tuệ,
Như vậy, Ta tinh tấn,
Sao Ngươi hỏi Ta sống?
433. Gió này làm khô
cạn,
Cho đến các dòng sông,
Làm sao khô cạn máu,
Khi Ta sống tinh tấn?
434. Dầu máu có khô
cạn,
Mật, đàm Ta khô
cạn,
Dầu thịt có hủy
hoại,
Tâm Ta càng tịnh tín,
Ta lại càng vững trú,
Niệm, tuệ và thiền định.
435. Do Ta sống như vậy,
Ðạt được thọ
tối thượng,
Tâm không cầu các
dục,
Nhìn chúng sanh thanh tịnh.
436. Dục, đội quân
thứ nhất.
Thứ hai, gọi bất lạc,
Thứ ba, đói và
khát,
Thứ tư, gọi tham ái.
437. Năm, hôn trầm thụy
miên,
Thứ sáu, gọi sợ hãi,
Thứ bảy, gọi nghi ngờ,
Tám, dèm pha ngoan cố.
438. Lợi, danh và cung kính,
Danh vọng được tà
vạy,
Ai tự đề cao mình,
Hủy báng các người
khác.
439. Ôi, này Na-mu-ci,
Ðây là quân đội
Ngươi,
Ðây quân đội
chiến trận,
Của dòng họ Kanhà,
Kẻ nhát, không thắng
Ngươi,
Ai thắng Ngươi, được
lạc.
440. Ta mang cỏ munja,
Vững thay, đây đời
sống,
Thà Ta chết chiến trận,
Tốt hơn, sống thất
bại.
441. Bị thấy đắm
ở đây,
Số Sa-môn, Phạm chí,
Không biết được con
đường,
Bậc giới đức thường
đi.
442. Thấy khắp quân đội
dàn,
Ác ma trên lưng voi,
Ta bước vào chiến trận,
Không để ai chiếm đoạt.
443. Ðội ngũ quân
nhà Ngươi,
Ðời này và chư
Thiên,
Không một ai thắng nổi,
Ta đến Ngươi với tuệ,
Như hòn đá dập
nát,
Chiếc bát chưa nung chín.
444. Nhiếp phục được
tâm tư,
Khéo an trú chánh niệm,
Ta sẽ đi bộ hành,
Nước này qua nước
khác,
Ðể huấn luyện rộng rãi,
Cho những người đệ
tử.
445. Không phóng dật, tinh
cần,
Họ hành lời Ta dạy,
Dầu Ngươi không muốn
vậy,
Họ vẫn sẽ đi tới,
Chỗ nào họ đi tới,
Chỗ ấy không sầu muộn.
Ác-ma:
446. Bảy năm, ta bước
theo,
Chân theo chân Thế Tôn,
Không tìm được
lỗi lầm,
Nơi Thế Tôn chánh niệm.
447. Như quạ bay xung quanh,
Hòn đá như đống
mỡ,
Có thể có gì mềm?
Có thể có gì ngọt?
448. Không tìm được
gì ngọt,
Quạ từ đó bay
đi,
Như quạ mổ hòn đá,
Ta bỏ Gotama.
449. Bị sầu muộn chi phối,
Cây đàn rơi khỏi
nách,
Kẻ Dạ-xoa ác ý,
Tại đấy liền biến mất.
(III) Kinh Khéo Thuyết (Sn 78)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana... Thế Tôn nói
như sau:
- Thành tựu bốn chi phần,
này các Tỷ-kheo, lời nói được
khéo nói, không phải vụng nói, không
có lỗi lầm, không bị người trí
quở trách. Thế nào là bốn? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chỉ nói lời khéo
nói, không nói lời vụng nói; chỉ
nói lời đúng pháp, không nói
lời phi pháp; chỉ nói lời khả ái,
không nói lời phi khả ái; chỉ nói
lời đúng sự thật, không nói
lời không đúng sự thật. Thành
tựu với bốn chi phần này, này các
Tỷ-kheo, lời nói là được khéo
nói không phải vụng nói, không có
lỗi lầm, không bị người trí quở
trách.
Thế Tôn thuyết như vậy. Thiện
Thệ thuyết như vậy xong bậc Ðạo Sư lại
nói thêm như sau:
450. Bậc Thiện nhân nói
lên,
Lời khéo nói tối
thượng,
Thứ hai, nói đúng
pháp,
Thứ ba, nói khả ái
Không nói phi khả ái,
Thứ tư, nói chân
thật
Không nói không chân
thật.
Rồi Tôn giả Vangìsa
từ chỗ ngồi đứng dậy đắp
y vào một bên vai, chắp tay hướng đến
Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Ý nghĩ này đến với
con, bạch Thiện Thệ.
- Hãy nói lên ý kiến ấy,
này Vangìsa!.
Rồi Tôn giả Vangìsa,
trước mặt Thế Tôn, nói lên lời tán
thán với những bài kệ thích ứng:
Vangìsa:
451. Hãy nói lên
lời nói,
Không thiêu đốt
tự ngã,
Không làm hại người
khác,
Lời nói ấy khéo
nói.
452. Hãy nói lời khả
ái,
Nói lời khiến hoan hỷ,
Không mang theo ác hại,
Khiến người khác ưa
thích.
453. Chân thật, lời bất
tử,
Ðây thường pháp
là vậy,
Họ nói, bậc Thiện nhân,
An trú trên chân thật,
Trên mục đích,
trên pháp.
454. Lời gì đức
Phật nói,
An ổn, đạt Niết-bàn,
Ðoạn tận các khổ
đau,
Ðấy lời nói tối
thượng.
(IV) Kinh Sundarika Bhàradvàja
(Sn 80)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở
phía dân chúng Kosala, trên bờ sông
Sundarikà. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn
Sundarikabhàradvàja đốt lửa thiêng
trên bờ sông Sundarikà và đang
cử hành các tế lễ lửa. Rồi Bà-la-môn
Sundarikabhàradavàja, sau khi đốt lửa
thiêng, sau khi cử hành các lễ tế lửa,
từ chỗ ngồi đứng dậy và ngó
xung quanh bốn phương nghĩ rằng: "Ai có
thể ăn đồ ăn còn lại của lễ
tế tự này?".
Rồi Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja
thấy Thế Tôn ngồi dưới một gốc
cây, không bao xa, đầu che trùm lại;
thấy vậy, tay trái cầm đồ tế tự
còn lại, tay mặt cầm cái bình nước,
đi đến Thế Tôn. Thế Tôn nghe tiếng chân
của Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja liền
mở đầu ra. Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja
nghĩ rằng: "Ðầu trọc là vị này.
Một kẻ đầu trọc là vị này",
và muốn đi trở lại. Rồi Bà-la-môn
Sundarikabhàradvàja suy nghĩ: "Ở đây,
cũng có một số Bà-la-môn trọc đầu.
Vậy ta hãy đi đến vị này và
hỏi về thọ sanh". Rồi Bà-la-môn Sundaikabhàradvàja
đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói
với Thế Tôn:
- Thọ sanh của Tôn giả là
thế nào?
Rồi Thế Tôn nói với
Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja những
bài kệ:
Thế Tôn:
455. Ta không phải Phạm
chí,
Cũng không phải con vua,
Cũng không phải buôn
bán,
Không phải là ai hết,
Do liễu tri giai cấp,
Của các hàng phàm
phu,
Ta kẻ trí ở đời,
Bộ hành, không sở
hữu.
456. Mang áo Tăng-già-lê,
Ta sống, không gia đình,
Với tóc được
cạo sạch,
Tự ngã được
an tịnh,
Ở đời Ta không nhiễm,
Với các thiếu niên nào,
Không xứng đáng,
Ông hỏi,
Hỏi Ta về thọ sanh.
Bà-la-môn:
457. Thật sự, thưa
Tôn giả,
Các vị Bà-la-môn
Thường hỏi Bà-la-môn,
Có phải người Phạm
chí?
Thế Tôn:
Nếu Ông nói lên
rằng:
Ông là Bà-la-môn,
Và nếu Ông hỏi Ta
Không phải Bà-la-môn,
Vậy Ta sẽ hỏi Ông
Về Sàvitti này,
Gồm có mười hai câu,
Và hai mươi bốn chữ.
Bà-la-môn:
458. Do y tựa vào gì,
Các ẩn sĩ, loài Người,
Sát-đế-lî, Phạm
chí,
Ðã tổ chức tế đàn,
Cho các hàng chư Thiên,
Rộng rãi trong đời
này?
Thế Tôn:
Vị nào đạt
cứu cánh,
Vị nào hiểu Vệ-đà,
Trong lễ tế đàn này,
Thọ hưởng đồ cúng
dường,
Ta tuyên bố, nói rằng
Lễ ấy được
tăng thịnh.
Bà-la-môn:
459. Chắc chắn tế đàn
ấy,
Cúng dường được
tăng thịnh.
Vì chúng ta thấy được,
Vị am hiểu Vệ-đà,
Nếu chúng ta không thấy,
Ðược một ngưòi
như Ông,
Một người khác thọ
hưởng
Ðồ cúng dường
tế đàn.
Thế Tôn:
460. Vì Ông, này
Phạm chí,
Ðến Ta vì cần thiết,
Với mục đích rõ
ràng,
Vậy nay Ta hỏi Ông,
Ông có thể tìm được
Một bậc trí ở đây,
An tịnh, không sân hận,
Không khổ, không tầm
cầu?
Bà-la-môn:
461. Tôi vui trong tế đàn,
Tôn giả Gotama,
Tôi tha thiết ao ước,
Ðược cúng dường
tế đàn,
Nhưng tôi không được
biết,
Tôn giả hãy dạy tôi!
Hãy nói lên cho tôi,
Chỗ cúng dường tăng
thịnh.
Thế Tôn:
Vậy này Bà-la-môn,
Hãy lắng tai mà nghe,
Ta nay sẽ vì Ông,
Tuyên thuyết pháp vi diệu.
462. Chớ hỏi về thọ sanh,
Hãy hỏi về hạnh đức,
Thật vậy, từ củi
gỗ,
Một ngọn lửa được
sanh,
Từ gia đình thấp
kém,
Bậc ẩn sĩ, có trí,
Ðược huấn luyện thuần
thục,
Ðược xấu hổ chế
ngự.
463. Ðược chân thật
huấn luyện,
Ðược nhiếp phục chế
ngự,
Bậc đạt đến hiểu
biết,
Phạm hạnh được
viên thành,
Hãy đúng thời cúng
dường,
Ðồ cúng dường
vị ấy.
Vậy vị Phạm chí
nào
Muốn nguyện cầu công
đức,
Hãy tổ chức tế đàn,
Với cúng dường như
vậy.
464. Những vị nào, bỏ
dục,
Du hành, không gia đình,
Khéo chế ngự nhiếp phục,
Như con thoi trực chỉ.
Ðúng thời đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự,
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy,
Hãy tổ chức tế đàn,
Với cúng dường như
vậy.
465. Những vị đã
ly tham,
Các căn khéo định
tĩnh,
Như trăng được
giải thoát,
Khỏi nanh vuốt Ràhu,
Hãy đúng thời cúng
dường,
Ðồ cúng dường
vị ấy,
Vậy vị Phạm hạnh
nào,
Muốn nguyện cầu công
đức,
Hãy tổ chức tế đàn,
Với cúng dường như
vậy.
466. Không tham dính vật
gì,
Họ du hành ở đời,
Luôn luôn giữ chánh
niệm,
Từ bỏ ngã sở kiến,
Hãy đúng thời cúng
dường,
Ðồ cúng dường
vị ấy.
Vậy vị Phạm chí
nào,
Muốn cầu nguyện công
đức,
Hãy tổ chức tế đàn,
Với cúng dường như
vậy.
467. Ai từ bỏ các dục,
Tự nhiếp phục, du hành.
Ai biết sự chấm dứt,
Của sanh và sự chết,
Tịch tịnh và mát
lạnh.
Mát lạnh như nước
hồ.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
468. Bình đẳng kẻ
bình đẳng,
Xa lánh không bình đẳng,
Như Lai chứng đạt
được,
Trí tuệ không giới hạn,
Không bị dính, uế nhiễm,
Ðời này hay đời
sau.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
469. Trong ai không man trá,
Không sống với kiêu
mạn,
Ai không có tham dục,
Không của ta, không cầu,
Phẩn nộ được đoạn
trừ,
Tự ngã thật tịch
tịnh,
Vị Bà-la-môn ấy,
Cấu uế, sầu muộn đoạn,
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
470. Ai đoạn diệt hoàn
toàn
Mọi trú xứ của ý,
Không còn có nắm
giữ,
Sự vật gì ở đời,
Không còn có chấp
thủ,
Ðời này hay đời
sau.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
471. Tâm ai thật định
tính,
Vượt khỏi được
bộc lưu,
Rõ biết được Chánh
pháp,
Với tri kiến tối thượng,
Lậu hoặc được đoạn
trừ,
Mang thân này tối hậu.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
472. Với ai, các hữu lậu,
Và lời nói thô ác,
Ðược đoạn tận
chấm dứt,
Không còn có tồn
tại,
Vị ấy đạt hiểu
biết,
Giải thoát mọi khía cạnh.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
473. Giữa những người
nhiễm trước,
Vị ấy không nhiễm
trước,
Giữa chúng sanh kiêu mạn,
Vị ấy không kiêu
mạn,
Liễu tri được đau
khổ,
Kể cả ruộng và đất.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
474. Không dựa vào ước
vọng,
Vị ấy thấy viễn
ly,
Vượt qua sự hiểu biết,
Cùng tri kiến người khác,
Ðối với mọi sở duyên,
Vị ấy đều không
có,
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
475. Vị ấy chứng tri được
Các pháp gần hay xa,
Ðược đoạn trừ,
chấm dứt,
Không còn có hiện hữu,
An tịnh, không chấp thủ,
Ðược hoàn toàn
giải thoát
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
476. Thấy được sự
đoạn tận,
Sanh diệt các kiết sử,
Trừ được đường
tham dục,
Không còn lại dư
tàn.
Thanh tịnh, không lỗi lầm,
Không cấu uế, không nhiễm.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
477. Ai không thấy tự
ngã,
Với tự ngã của mình,
Ðịnh tâm và chánh
trực,
Kiên trì không dao động,
Vị ấy không có
dục,
Không cứng cỏi, phân
vân.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
478. Với ai không còn nữa,
Nguyên nhân của si mê,
Biết rõ và thấy rõ,
Ðối với hết thảy
pháp,
Và mang nặng thân này,
Thân này thân cuối
cùng.
Chứng đạt Chánh
Ðẳng Giác,
Vô thượng an ổn xứ,
Ðạt cho đến như
vậy,
Bậc Dạ-xoa thanh tịnh.
Như Lai thật xứng đáng,
Ðồ cúng dường
tế tự.
Bà-la-môn:
479. Ðây đồ
con cúng dường,
Ðồ cúng dường
chân thật,
Con đã tìm thấy
được,
Bậc trí đức như
vậy,
Phạm thiên hãy chứng
giám,
Thế Tôn hãy chấp nhận,
Thế Tôn hãy thọ hưởng,
Ðồ cúng dường
của con.
Thế Tôn:
480. Ta không có thọ
dụng
Ðồ ăn từ kệ tụng,
Hỡi này Bà-la-môn,
Ðây không phải là
pháp,
Của những người có
trí,
Chư Phật đều từ
bỏ,
Ca hát các bài kệ,
Chỗ nào pháp an trú,
Hỡi này Bà-la-môn,
Ðấy chính là
truyền thống.
481. Ông cần phải cúng
dường,
Ðồ ăn, đồ
uống khác,
Bậc Ðại sĩ toàn
vẹn,
Ðoạn tận các lậu
hoặc,
Ðã đoạn tận
trao hối,
Không còn bị dao động,
Ngài chính là thửa
ruộng,
Cho người cầu công
đức.
Bà-la-môn:
482. Thế Tôn, con muốn
biết,
Người có tin như con,
Ai có thể hưởng thọ,
Ðồ cúng dường
của con,
Trong khi lễ tế đàn,
Con phải tìm đến ai?
Lời Ngài dạy thế nào,
Con sẽ đạt cho được.
Thế Tôn:
483. Với ai, không xông
xáo,
Với ai, tâm không động,
Giải thoát khỏi các
dục,
Với ai bỏ hôn trầm,
484. Lãnh đạo kẻ
biên giới,
Thiện xảo trong sanh tử,
ẩ sĩ đầy đủ
tuệ,
Ðã đến lễ tế
đàn.
485. Nhiếp phục kiêu ngạo
xong,
Hãy chắp tay đảnh
lễ,
Cúng dường đồ
ăn uống,
Cúng dường vậy tăng
trưởng.
Bà-la-môn:
486. Ngài là bậc
Giác Ngộ,
Xứng đáng được
cúng dường,
Ngài là ruộng phước
đức,
Vô thượng, không gì
hơn,
Vị tiếp nhận cúng dường,
Xứng đáng toàn
thế giới.
Bố thí cho Tôn giả,
Kết quả thật to lớn.
Rồi Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja
bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng
đứng lại những gì bị quăng
ngã xuống, hay phơi bày ra những gì
bị che kín, hay chỉ đường cho kẻ
lạc hướng, hay đem đèn sáng
vào trong bóng tối để những ai có
mặt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp được Tôn giả Gotama dùng
nhiều phương tiện trình bày giải thích.
Con nay quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy
y chúng Tỷ-kheo. Hãy cho con được xuất
gia với Tôn giả Gotama. Hãy cho con thọ đại
giới.
Và Bà-la-môn Sundarikabhàradvàja...
trở thành một vị A-la-hán.
(V) Kinh Màgha (Sn 86)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở
Ràjagaha, trên núi Gijjhakàta.
Rồi thanh niên Màgha đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn
những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, thanh
niên Màgha bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama,
con là người bố thí, là thí
chủ, rộng rãi, mong muốn được
yêu cầu. Con tâm cầu tài sản đúng
pháp, sau khi tầm cầu tài sản đúng
pháp, với những tài sản thâu hoạch
đúng pháp, tạo dựng đúng
pháp, con cho một nguời, con cho hai người,
con cho ba người, con cho bốn người, con cho
năm người, con cho sáu người, con cho
bảy người, con cho tám người, con cho chín
người, con cho mười người, con cho hai mươi
người, con cho ba mươi người, con cho bốn
mươi người, con cho năm mươi người,
con cho một trăm người, con cho nhiều hơn nữa.
Thưa Tôn giả Gotama, con cho như vậy,
con bố thí như vậy, con có được
nhiều phưóc đức không?
- Này thanh niên, Con cho như
vậy, Con bố thí như vậy Con được
nhiều phước đức. Này thanh niên, ai
là người bố thí, là người
thí chủ rộng rãi, mong muốn được
yêu cầu, ai tầm cầu tài sản đúng
pháp sau khi tầm cầu tài sản đúng
pháp, với những tài sản thâu hoạch
đúng pháp, tạo dựng đúng
pháp, ngưòi ấy cho một người...
cho một trăm người, cho nhiều hơn nữa,
người ấy được nhiều công đức.
Rồi thanh niên Màgha nói
lên lời Thế Tôn những bài kệ:
Thanh niên Màgha:
487. Thanh niên Màgha
thưa:
Tôn giả Gotama,
Con hỏi bậc Hiền hòa,
Mặc cà sa không nhà,
Ai ưa muốn được
cầu,
Là thí chủ, gia chủ
Mong muốn được phước
đức,
Bố thí, mong cầu phước.
Ở đây, thí người
khác,
Ðồ ăn và đồ
uống,
Tại đâu nên bố
thí,
Ðể đồ cúng được
tịnh.
Thế Tôn:
488. Thế Tôn bèn trả
lời:
Này thanh niên Màgha,
Ai ưa muốn được
cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước
đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người
khác
Ðồ ăn và đồ
uống,
Người ấy cần phải
thí,
Người xứng đáng
cúng dường.
Màgha:
489. Thanh niên Màgha
thưa:
Tôn giả Gotama,
Ai ưa muốn được
cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước
đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người
khác
Ðồ ăn và đồ
uống,
Thế Tôn hãy nói con
Nên cúng dường cho
ai?
Thế Tôn:
490. Những ai sống ở
đời,
Thật sự không nhiễm
trước,
Hoàn toàn không sở
hữu,
Tự ngã được
nhiếp phục,
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự.
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
491. Những ai đã chặt
đứt,
Mọi kiết sử trói buộc,
Nhiếp phục được giải
thoát,
Không dao động, mong cầu.
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự.
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
492. Những ai đã giải
thoát
Mọi kiết sử trói buộc,
Nhiếp phục được giải
thoát,
Không khổ, không mong cầu,
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự.
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
493. Vị nào đã
đoạn tận,
Tham, sân và cả si,
Các lậu hoặc đã
đoạn,
Phạm hạnh đã thành
tựu,
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự.
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
494. Ai sống không man trá,
Và không có kiêu
mạn,
Những vị sống không
tham,
Không ngã sở, không
cầu,
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự.
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
495. Những ai đối với
ai,
Không rơi vào hệ lụy,
Vượt khỏi được
bộc lưu,
Du hành không ngã sở,
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự,
Vị Phạm chí cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
496. Với ai không tham ái,
Một vật gì ở đời,
Không ái hữu, phi hữu,
Ðời này hay đời
sau,
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự.
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
497. Những ai từ bỏ dục,
Sống không có gia đình,
Khéo léo biết chế ngự,
Như con thoi, chính trực,
Ðúng thời, đối
vị ấy.
Hãy cúng đồ tế
tự.
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
498. Những ai, ly tham ái,
Các căn khéo định
tính,
Như mặt trăng thoát
khỏi,
Nanh vuốt của Ràhu,
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự.
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
499. Những ai được an
tịnh,
Ly tham, ly phẩn nộ,
Sau khi bỏ đời này,
Không còn có sanh thú,
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự.
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
500. Ðoạn sanh tử đã
xong,
Không còn chút dư
tàn,
Nghi ngờ và phân vân,
Tất cả được nhiếp
phục,
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự.
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
501. Những ai sống ở đời
Tự mình làm hòn
đảo,
Không có vật sở hữu,
Giải thoát được
trọn vẹn,
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự.
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
502. Những ai ngay đời này,
Như thật rõ biết được,
Ðây đời sống
cuối cùng,
Không còn có tái
sanh,
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
503. Ai đạt tuệ tối thượng,
Ưa thiền, giữ chánh niệm,
Ðạt được sự
giác ngộ,
Chỗ quy ngưỡng nhiều người.
Ðúng thời, đối
vị ấy,
Hãy cúng đồ tế
tự,
Vị Phạm chỉ cầu
phước,
Hãy bố thí như
vậy.
Màgha:
504. Thật sự câu
con hỏi,
Không trống không, vô
ích,
Thế Tôn nói cho con,
Những ai đáng cúng
dường.
Ở đây Ngài đã
biết,
Sự thật như thế nào.
Như vậy chính là
pháp,
Ngài được biết như
vậy.
505. Rồi thanh niên Màgha,
Lại thưa thêm như sau:
Ai ưa muốn được
cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước
đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người
khác,
Ðồ ăn và đồ
uống,
Thế Tôn hãy nói con,
Pháp tế tự hoàn toàn.
Thế Tôn:
506. Thế Tôn nói Màgha,
Hãy tế đàn, tế tự,
Phải làm cho trong sạch,
Hoàn toàn mọi tâm tư,
Ðối người lễ
tế đàn,
Ðối tượng là
đồ cúng,
Hãy an trú ở đây,
Từ bỏ sự sân hận.
507. Vị ấy đoạn
tận tham,
Nhiếp phục cả sân hận,
Tu tập tâm từ bi,
Vô lượng khắp tất
cả,
Với hạnh không phóng
dật,
Ngày đêm luôn tu
tập,
Cùng khắp mọi phương
hướng,
Biến mãn vô lượng tâm.
Màgha:
508. Ai trong sạch, giải
thoát,
Ai còn bị trói buộc,
Ai với tự thân mình,
Ði đến Phạm Thiên
giới?
Vì không biết, con hỏi.
Hãy nói lên, ẩ sĩ,
Mong Thế Tôn chứng giám,
Cho con ngày hôm nay,
Con được thấy Phạm
thiên,
Ngài đối với chúng
con,
Thật sự Ngài ngang bằng,
Với Phạm thiên không
khác,
Ôi! Bậc chói hào
quang,
Làm thế nào được
sanh,
Lên cảnh giới Phạm
thiên?
Thế Tôn:
509. Thế Tôn đáp
Màgha:
Ai tổ chức tế đàn,
Ðầy đủ cả
ba phần,
Tế đàn ấy tăng
thịnh,
Với những người được
cúng.
Xứng đáng được
cúng dường.
Tế đàn như vậy xong,
Chơn chánh muốn được
cầu,
Ta nói vị ấy sanh,
Tại cảnh giới Phạm
thiên.
Khi nói được như vậy,
thanh niên Màgha bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, thưa Tôn
giả Gotama!.
Thật vi diệu thay, thưa Tôn
giả Gotama!... Từ nay cho đến mạng chung,
con trọn đời quy ngưỡng.
(VI) Kinh Sabhiya (Sn 91)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở
Ràjagaha, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi
dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ,
du sĩ Sabhiya, một du sĩ ngoại đạo,
được một Thiên nhân trước kia
là bà con huyết thống, nói lên những
câu hỏi sau đây: "Này Sabhiya,
vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, khi được
hỏi những câu hỏi này, trả lời
cho Ông, thời Ông hãy sống Phạm hạnh
với người ấy".
Rồi du sĩ Sabhiya, sau khi
học những câu hỏi ấy từ vị Thiên
nhân ấy, phàm có những Sa-môn, Bà-la-môn
nào có hội chúng, có đồ
chúng, bậc đạo sư đồ chúng
được biết đến, có danh vọng, các ngoại
đạo sư, được quần chúng
ái mộ, như Pùrana Kacsapa, Makkhali Gosàla,
Ajita Kesa Kambali, Pakudha Kacàyana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha
Nàtaputta, Sabhiya đi đến các vị
ấy và hỏi những câu hỏi ấy.
Các vị ấy, được du sĩ Sabhiya
hỏi những câu hỏi ấy, không có
thể giải đáp. Do không có thể giải
đáp, họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận,
bất mãn. Họ vặn hỏi trở lại du sĩ
Sabhiya. Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ như
sau: "Các vị Tôn giả, Sa-môn, Bà-la-môn
ấy có hội chúng, có đồ chúng,
bậc đạo sư, đồ chúng được
biết đến, có danh vọng, có ngoại đạo
sư, được quần chúng ái mộ,
như Pùrana Kassapa... Nigantha Nàtaputta. Các
vị ấy được ta hỏi những câu
hỏi không có thể giải đáp. Do không
có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ,
sân hận, bất mãn họ vặn hỏi trở
lại ta. Vậy ta haỹ trở lui đời sống
hạ liệt, thọ hưởng các dục". Rồi du
sĩ Sabhiya suy nghĩ như sau: "Có Sa-môn
Gotama này, có hội chúng, có đồ
chúng, bậc lãnh đạo hội chúng,
được biết đến, có danh vọng, sáng
lập ra giáo phái, được quần
chúng ái mộ, vậy ta hãy đi đến
Sa-môn Gotama và hỏi những câu hỏi
này. Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya
suy nghĩ như sau: "Các vị Tôn giả Sa-môn,
Bà-la-môn ấy đã già, đã
lớn tuổi, đã đến tuổi trưởng
thượng, đã đi quá nửa đời
người, đã đạt đến mức
cuối tuổi thọ, là những bậc trưởng
lão, được nhiều người biết đến,
xuất gia đã lâu ngày, có hội
chúng, có đồ chúng, bậc lãnh
đạo hội chúng, được biết đến,
có danh vọng, các ngoại đạo sư được
quần chúng ái mộ, như Pùrana Kassapa...
Nigantha Nàtaputta. Các vị ấy được
ta hỏi những câu hỏi, không có thể
giải đáp. Do không có thể giải đáp,
họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn.
Và họ vặn hỏi trở lại ta. Không biết
Sa-môn Gotama có thể trả lời những
câu hỏi này của ta. Sa-môn Gotama
còn trẻ và mới được xuất
gia". Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya
suy nghĩ như sau: "Không nên gạt bỏ,
không nên khinh thường một Sa-môn vì
vị ấy còn trẻ tuổi; nếu vị Sa-môn
còn trẻ, nhưng vị ấy có đại
thần, đại uy lực. Vậy ta hãy đi
đến Sa-môn Gotama và hỏi những
câu hỏi này".
Rồi du sĩ ngoại đạo
Sabhiya bộ hành ra đi đến Ràjagaha,
tiếp tục bộ hàn, đi đến Vương
Xá Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các
con sóc, đi đến Thế Tôn, sau khi đến
nói lên những lời chào đón
hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên du sĩ
Sabhiya nói lên với Thế Tôn những
bài kệ:
Sabhiya:
510. Sabhiya nói rằng:
Tôi đến, có nghi ngờ,
Hy vọng có thể hỏi
Những câu hỏi với
Ngài.
Mong Ngài chấm dứt được,
Những câu hỏi cho tôi.
Những câu được
tôi hỏi,
Hãy thứ lớp giải
đáp.
Thế Tôn:
511. Thế Tôn đáp
du sĩ:
Ông từ xa đi đến,
Hy vọng có thể hỏi,
Những câu hỏi với
Ta,
Ta sẽ chấm dứt được,
Những câu hỏi cho Ông
Những câu được
Ông hỏi,
Ta thứ lớp giải đáp.
512. Du sĩ Sabhiya,
Hãy hỏi Ta câu hỏi,
Tuỳ theo ý Ông muốn,
Ông hỏi câu hỏi
nào,
Ta sẽ chấm dứt được,
Câu hỏi ấy cho Ông.
Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ
như sau: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Ta
không bao giờ có được cơ hội,
đối với các Sa-môn, Bà-la-môn
khác. Nay cơ hội này được Sa-môn
Gotama tạo ra cho ta, hân hoan, hoan hỷ, phấn
chấn, hỷ lạc " Sabhiya hỏi Thế Tôn câu
hỏi:
Sabhiya:
513. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được
những gì,
Ðược gọi là Tỷ-kheo?
Nhờ gì, gọi nhu hòa?
Thế nào gọi chế ngự?
Và phải như thế nào,
Ðược gọi bậc Giác
ngộ?
Ðược con hỏi như
vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
Thế Tôn:
514. Thế Tôn bèn đáp
lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai chính với con đường,
Do tự mình tạo ra,
Ði đến sự tịch
mịch,
Vượt qua các nghi hoặc,
Từ bỏ, đoạn tận
hẳn
Cả hữu và phi hữu,
Phạm hạnh đã thành
tựu,
Tái sanh đã đoạn
tận,
Vị ấy được xứng
danh,
Gọi là vị Tỷ-kheo.
515. Vị trú xả, chánh
niệm,
Tại bất cứ chỗ nào,
Vị không làm hại
ai,
Cùng khắp cả thế giới,
Vượt bộc lưu, tịnh
ý,
Không có bị dao động,
Vị nào không đột
khởi,
Vị ấy gọi nhu hòa.
516. Vị nào có các
căn,
Ðược huấn luyện tu
tập,
Cả nội và cả ngoại,
Trong tất cả thế giới,
Vị nào thông suốt
được
Ðời này và đời
sau,
Ðúng thời, nghi điều
phục,
Vị ấy gọi chế ngự.
517. Ai phân tích các
kiếp,
Toàn diện và hoàn toàn,
Luân chuyển cả hai mặt,
Chết đi và sanh lại,
Bụi bặm được dứt
sạch,
Không uế nhiễm, thanh tịnh,
Ðạt được sanh
đoạn diệt,
Vị ấy gọi Phật-đà.
Rồi du sĩ Sabhiya, hoan hỷ tín
thọ lời Thế Tôn dạy, hoan hỷ, hân hoạn, phấn
khởi, phát sanh hỷ tâm, liền hỏi Thế Tôn
thêm câu nữa.
Sabhiya:
518. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được
những gì,
Ðược gọi là Bà-la-môn?
Nhờ gì, gọi Sa-môn?
Thế nào là tắm sạch?
Và phải như thế nào?
Ðược gọi là voi chúa?
Ðược con hỏi như
vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
Thế Tôn:
519. Thế Tôn liền đáp
lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai loại khỏi ra ngoài,
Tất cả các ác pháp,
Không uế, khéo định
tĩnh,
Kiên trì, vững an trú,
Vượt qua được luân
hồi,
Hoàn toàn về mọi mặt,
Không y chỉ vị ấy,
Ðược gọi Bà-la-môn.
520. Ðược an tịnh, tịch
tịnh,
Ðoạn tận cả thiện
ác,
Không cấu uế, rõ biết,
Ðời này và đời
sau,
Chế ngự và nhiếp phục,
Cả vấn đề sanh tử,
Vị đức tánh như
vậy,
Ðược gọi là Sa-môn.
521. Ai gột sạch, tắm sạch
Tất cả các ác pháp,
Kể cả trong lẫn ngoài,
Khắp tất cả thế giới,
Giữa chư Thiên, loài
Người,
Bị thời kiếp chi phối,
Không rơi vào thời
kiếp,
Ðược gọi đã
tắm sạch.
522. Ai không làm điều
ác,
Mọi điều ác ở đời,
Tất cả các kiết sử,
Không dính mặc, trói
buộc,
Khắp tất cả mọi nơi,
Không dính, không trói
buộc,
Vị đức tánh như
vậy,
Ðược gọi là voi chúa.
Rồi du sĩ Sabhiya lại hỏi
thêm câu nữa:
Sabhiya:
523. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Thế nào chư Phật gọi
Vị chiến thắng đất
ruộng,
Do gì, gọi là thiện?
Thế nào gọi bậc trí,
Và phải như thế nào
Ðược gọi là ẩn
sĩ?
Ðược con hỏi như
vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
Thế Tôn:
524. Thế Tôn bèn đáp
lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai quán sát nhiếp phục,
Ruộng đất thật toàn
diện
Chư Thiên và loài
Người,
Là đất ruộng Phạm
thiên,
Giải thoát được
trói buộc,
Cội gốc mọi đất
ruộng,
Vị đức tánh như
vậy,
Ðược gọi thắng đất
ruộng.
525. Ai quán sát nhiếp phục,
Kho tàng thật toàn diện,
Chư Thiên và loài
Người,
Là đất ruộng Phạm
thiên,
Giải thoát được
trói buộc,
Cội gốc mọi kho tàng,
Vị đức tánh như
vậy,
Ðược gọi vị thiện xảo.
526. Ai quán sát nhiếp phục,
Cả hai tâm và ý,
Cả nội và cả ngoại,
Về trí tuệ thanh tịnh,
Nhiếp phục chế ngự được,
Các pháp đen và
trắng,
Vị đức tánh như
vậy,
Ðược gọi bậc Hiền trí,
527. Sau khi đã biết được,
Pháp bất thiện, pháp
thiện,
Cả nội và cả ngoại,
Trong tất cả thế giới,
Vị ấy được cúng
dường,
Chư Thiên và loài
Người,
Vượt qua lưới trói
buộc,
Vị ấy gọi ẩ sĩ.
Rồi du sĩ Sabhiya... lại
hỏi Thế Tôn thêm câu hỏi nữa:
Sabhiya:
528. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được
những gì
Ðược gọi bậc có
trí?
Nhờ gì, gọi tùy tri?
Thế nào xưng tinh tấn?
Thế nào được danh
xưng,
Là vị đã thuần
thục?
Ðược con hỏi như
vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
Thế Tôn:
529. Thế Tôn liền đáp
lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai quán sát Vệ-đà,
Hoàn toàn và toàn
diện,
Ðược Sa-môn, Phạm
chí,
Ðạt được rất
đầy đủ,
Vị ấy gọi ly tham,
Trong tất cả cảm thọ,
Do vượt qua Vệ đà,
Ðược gọi bậc Vệ-đà?
530. Do quán sát, quán
triệt,
Các hý luận, danh sắc,
Kể cả nội và ngoại,
Về cội gốc bệnh hoạn,
Vị ấy thoát trói
buộc,
Cội gốc các bệnh hoạn,
Vị đức tánh như
vậy
Ðược gọi vị rõ
biết
531. Vị ở đời từ
bỏ
Tất cả các pháp
ác,
Với tinh tấn vượt qua,
Mọi khổ đau địa ngục,
Vị ấy có tinh tấn,
Có tinh cần, siêng năng,
Vị đức tánh như
vậy,
Ðược gọi vị có
trí.
532. Với ai các trói buộc,
Bị bựt đứt, huỷ
hoại,
Nguồn gốc các tham ái,
Vị ấy được giải
thoát,
Khỏi tất cả gốc
tham,
Vị đức tánh như
vậy,
Ðược gọi vị thuần
thục.
Rồi du sĩ Sabhiya.. lại
hỏi Thế Tôn thêm câu hỏi nữa:
Sahiya:
533. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được
những gì,
Ðược gọi vị được
nghe?
Nhờ gì, gọi bậc Thánh?
Sở hành như thế nào,
Như thế nào được
tên,
Là một người du sĩ?
Ðược con hỏi như
vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
Thế Tôn:
534. Thế Tôn bèn đáp
lại:
Hỡi này Sabhiya!
Do ở đời được
nghe,
Thắng tri tất cả pháp,
Pháp có lỗi, không lỗi,
Phàm mọi pháp ở đời,
Là vị đã chiến
thắng,
Ðoạn nghi, được
giải thoát,
Trọn vẹn không dao động,
Ðược gọi, vị có
nghe.
535. Sau khi đoạn, chặt đứt,
Mọi lậu hoăc chấp trước,
Vị ấy sau khi biết
Không đi đến thai tạng,
Ðoạn trừ và từ
bỏ,
Ba loại tưởng bùn
nhơ,
Không đi vào thời
kiếp,
Ðược gọi là bậc
Thánh.
536. Vị nào ở nơi đây,
Thành tựu các giới
hạnh,
Thiện xảo mọi lãnh vực,
Rõ biết được Chánh
Pháp,
Cùng khắp cả mọi nơi,
Không chấp trước,
giải thoát,
Không sân hận một
ai,
Ðược gọi là có
hạnh.
537. Ai không làm các
nghiệp
Ðưa đến quả đau
khổ
Phía trên và phía
dưới,
Bề ngang và chặng giữa,
Sống với sự liễu
tri,
Từ bỏ, không chấp
nhận,
Man trá và kiêu mạn,
Tham ái và phẩn nộ,
Làm cho đến cùng tận,
Cả danh và cả sắc,
Vị này đã đạt
được,
Tên gọi là du sĩ.
Rồi du sĩ Sabhiya hoan hỷ tín
thọ lời Thế Tôn dạy; hoan hỷ, hân hoan, phấn
chấn, hỷ duyệt sanh khởi, từ chỗ ngồi đứng
dậy, đắp thương y vào một bên
vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn, trước
mặt Thế Tôn, thốt lên những câu kệ thích
đáng:
538. Ôi, bậc tuệ rộng
lớn!
Nhiếp phục sự tụ họp,
Các Sa-môn tranh luận,
Có đến sáu (mươi)
ba thuyết,
Các ngôn thuyết văn tự,
Y đây các tưởng
khởi,
Vị ấy vượt qua được,
Dòng nước mạnh sanh
tử.
539. Ngài đi đến tận
cùng,
Ðến bờ kia đau khổ,
Bậc La-han, Chánh Giác,
Con nghĩ Ngài lậu tận,
Ngài chói sáng, thông
minh.
Với trí tuệ rộng lớn,
Ngài đoạn tận đau
khổ,
Ðưa con qua bờ kia.
540. Ngài thấy, Ngài
biết rõ
Những điều con nghi ngờ,
Ngài giúp con vượt
qua,
Con xin đảnh lễ Ngài,
Bậc ẩn sĩ đạt
được,
Con đường thật an
tịnh,
Ôi, bà con mặt trời!
Không hoang vu, nhu hòa.
541. Ðiều xưa con nghi ngờ,
Ðều được Ngài
giải đáp,
Ôi, bậc có Pháp
nhân!
Ngài thật là ẩn
sĩ
Bậc Chánh Ðẳng,
Chánh Giác,
Ngài không còn triền
cái.
542. Với Ngài, mọi ưu não,
Ðược phá tan, đoạn
diệt,
Ngài tịnh tịch, chế ngự,
Tâm kiên trì, thành
thực.
543. Ngài là bậc long
tượng,
Trong các hàng long tượng,
Ngài là đại anh
hùng
Chư Thiên đều hoan hỷ,
Cả hai Nàrada,
Và cả Pabbatà,
Ðều hoan hỷ tín thọ,
Lời thuyết giảng của Ngài.
544. Chúng con xin đảnh
lễ,
Con người thuần thục
nhất,
Chúng con xin đảnh lễ,
Con người tối thượng
nhất,
Trong cảnh giới Trời, Người,
Không ai sánh được
Ngài,
545. Ngài chính là Ðức
Phật,
Ngài chính là Ðạo
Sư,
Ngài là bậc ẩn sĩ,
Ðã chiến thắng Ác
ma,
Ngài chặt đứt tuỳ
miên,
Ðã vượt qua sanh tử,
Ngài giúp chúng sanh
này,
Vượt qua bể sanh tử.
546. Ngài vượt khỏi
sanh y,
Ngài phá tan lậu hoặc,
Ngài là bậc sư tử,
Không chấp thủ, chấp
trước,
Mọi sợ hãi, hoảng hốt,
Ngài đoạn tận,
trừ diệt.
547. Như hoa sen tươi đẹp.
Nước không thể dính
vào,
Cũng vậy cả thiện ác,
Cả hai không dính Ngài,
Ôi anh hùng vĩ đại,
Xin Ngài duỗi chân ra,
Sabhiya chúng con,
Ðảnh lễ bậc Ðạo
Sư.
Rồi du sĩ Sabhiya lấy
đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và
bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!...
Con xin quy y Thế Tôn, Pháp và chúng Tỷ-kheo.
Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con được
xuất gia với Thế Tôn, mong cho con thọ đại
giới.
- Này Sabhiya, ai trước
kia thuộc ngoại đạo, nay xin xuất gia, xin
thọ đại giới trong Pháp Luật này
cần phải sống biệt trú trong bốn tháng.
Sau bốn tháng, nếu tâm các Tỷ-kheo thỏa
thuận, có thể cho vị ấy xuất gia, cho
thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo.
Nhưng ở đây, Ta biết sự sai biệt giữa
các chúng sanh.
- Bạch Thế Tôn, nếu những ai
trước kia thuộc ngoại đạo, nay xin xuất
gia, xin thọ đại giới trong Pháp Luật này,
sống biệt trú bốn tháng. Sau bốn tháng,
nếu tâm các Tỷ-kheo thỏa thuận, có thể
cho vị ấy xuất gia, cho thọ đại giới
để thành vị Tỷ-kheo, con sẽ sống biệt trú
bốn năm. Sau bốn năm, nếu tâm con thỏa
thuận hãy cho xuất gia, cho con thọ đại
giới để trở thành Tỷ-kheo.
Du sĩ Sabhiya được
xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại
giới... rồi Tôn giả Sabhiya trở thành
một vị A-la-hán.
(VII) Kinh Sela (Sn 102-112)
(Xem kinh Sela, Trung Bộ
Kinh, Tập II)
(VIII) Kinh Mũi Tên (Sn 112)
574. Sinh mạng của loài
Người,
Ở đời không ai biết,
Không tướng, nhiều phiền
toái,
Nhỏ nhoi, liên hệ khổ.
575. Không có sự gắng
nào,
Khiến sống thoát khỏi
chết,
Sau khi già là chết,
Pháp hữu tình là
vậy.
576. Như các trái chín
muồi,
Có sợ bị rơi sớm,
Cũng vậy, người được
sanh,
Thường có sợ bị
chết.
577. Như người thợ làm
ghè
Làm chén bát đất
sét,
Cuối cùng, bể tất cả,
Mạng sống người là
vậy.
578. Trẻ tuổi và lớn
tuổi,
Người ngu và kẻ trí,
Tất cả đi đến chết,
Cuối cùng rồi cũng
chết.
579. Những ai chết chi phối,
Ði qua đến đời
sau,
Cha không cứu được
con,
Hay bà con cứu nhau.
580. Hãy xem, các bà
con
Ðứng nhìn và
than khóc,
Từng người, đi đến
chết,
Như bò mang đi giết,
581. Như vậy, thế giới này
Bị già chết chi phối,
Do vậy, bậc nhiều trí,
Biết đời, nên không
sầu
582. Ai không biết con đường,
Ðường đến và
đuờng đi,
Do không thấy hai ngã,
Than khóc, không lợi ích.
583. Nếu thật sự than khóc,
Ðem lại lợi ích gì,
Kẻ ngu tự hại mình,
Người có mắt sẽ
làm.
584. Không với sầu, nước
mắt,
Khiến nội tâm an tịnh,
Khổ càng tăng trưởng
thêm,
Thân càng bị gia hại.
585. Ốm yếu, sắc da tái,
Tự mình hại chính
mình,
Kẻ chết không được
hộ,
Than khóc thật vô ích.
586. Chúng sanh không bỏ
sầu,
Càng gặp nhiều đau khổ,
Càng rên khóc kẻ
chết,
Càng bị sau chi phối.
587. Hãy xem các người
khác
Ði theo hạnh nghiệp mình,
Rơi vào giới thần
chết,
Hữu tình đầy hoảng
sợ.
588. Loài Người còn
mong ước,
Thế này hay thế khác,
Nhưng sự việc xảy ra,
Hoàn toàn thật sai khác,
Như vậy tánh không
có,
Xem định tánh của
đời.
589. Nếu loài Người sống
được,
Sống hơn một trăm
năm,
Rồi không có bà
con,
Ở đây, bỏ mạng
sống.
590. Do vậy, sau khi nghe
Bậc La-hán thuyết giảng,
Hãy nhiếp phục than van,
Khi thấy kẻ bị chết,
Hãy suy nghĩ như sau,
Ta không còn vị ấy.
591. Như nhà lửa bị
cháy,
Nhờ nước, lửa dập
tắt,
Cũng vậy, bậc Hiền trí,
Có tuệ trí, thiện xảo,
mau chóng nhiếp phục sầu,
Như bông gió thổi bay.
592. Ai tự tìm hạnh phúc,
Hãy tự mình rút
tên,
Mũi tên là than khóc,
Tham cầu tư ưu sầu.
593. Ai đã rút mũi
tên,
Không nương tựa nhờ
cậy,
Tâm vị ấy đạt
được,
Sự an lành an tịnh,
Vượt khỏi mọi ưu sầu,
Tâm không sầu, tịch
tịnh.
(IX) Kinh Vàsettha (Sn 115)
(Kinh này giống với
kinh Vàsettha, số 98 của Trung Bộ Kinh,
Tập II)
(X) Kinh Kokàliya (Sn 123)
Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú
ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn
của ông Anàthapindika. Rồi Tỷ-kheo Kokàliya
đi đến Thế Tôn sau khi đến đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Kokàliya
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Sàiputta
và Moggallàna là ác dục, bị
ác dục chinh phục.
- Này Kokàliya, chớ
có vậy! Này Kokàliya, chớ có
vậy! Này Kokàliya, tâm hãy tinh
tấn đối với Sàriputta và
Moggallàna. Hiền thiện Sàriputta và
Moggallàna.
Lần thứ hai, Tỷ-kheo Kokàliya
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn
có lòng tin và tin tưởng, đối
với con, Sàriputta và Moggalàna là
ác dục, bị ác dục chinh phục.
- Này Kokàaliya, chớ
có vậy! Này Kokàliya, chớ có
vậy! Này Kokàliya, tâm hãy tinh
tấn đối với Sàriputta và
Moggallàna. Hiền thiện Sàriputta và
Moggallàna
Lần thứ ba, Tỷ-kheo Kokàliya
bạch Thế Tôn... Hiền thiện là Sàriputta
và Moggallàna...
Rồi Tỷ-kheo Kokàliya từ
chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ
Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài
rồi ra đi. Tỷ-kheo Kokàliya ra đi không
lâu, toàn thân của Tỷ-kheo Kokàliya
nổi lên những mụt to bằng hạt cải;
sau khi lớn lên bằng hột đậu; chúng
lớn lên bằng hột đậu lớn; sau khi
lớn bằng hột đậu lớn, chúng lớn
lên bằng hòn đá; sau khi lớn lên
bằng hòn đá, chúng lớn lên
bằng trái táo; sau khi lớn lên bằng
trái táo, chúng lớn lên bằng trái
àmala; sau khi lớn lên bằng trái àmala,
chúng lớn lên bằng trái vilva; sau
khi lớn lên bằng trái vilva, chúng
lớn lên bằng trái billi, chúng bị
phá vỡ, mủ và máu chảy ra.
Rồi Tỷ-kheo Kokàliya do
bệnh này bị mệnh chung. Bị mệnh chung, Tỷ-kheo Kokàliya
sanh trong địa ngục Sen hồng, với tâm
hận thù đối với Sàriputta
và Moggallàna.
Rồi Phạm thiên Sahampati
sau khi đêm đã gần mãn, với
dung sắc thù thắng chói sáng toàn
vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi
đến đảnh lễ Thế Tôn và đứng
một bên. Ðứng một bên, Phạm thiên
Sahampati bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya
phải sanh vào địa ngục Sen hồng,
với tâm hận thù đối với Sàriputta
và Moggallàna.
Phạm thiên Sahampati nói
như vậy, sau khi nói xong, đảnh lễ
Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài
rồi biến mất tại chỗ ấy.
Rồi Thế Tôn, sau khi đêm
ấy đã qua, liền bảo các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, hồi hôm
Phạm thiên Sahampati, khi đêm gần
mãn, với dung sắc thù thắng chói
sáng toàn vùng Jetavana đi đến
Ta, sau khi đến đảnh lễ Ta rồi đứng
một bên. Ðứng một bên, này các
Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati bạch với Ta:
"Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya đã
mệnh chung và Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya
sau khi mệnh chung đã sanh địa ngục
Sen hồng với tâm hận thù đối
với Sàriputta và Moggallàna".
Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên
Sahampati nói như vậy. Sau khi nói xong,
đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng
về Ta rồi biến mất tại chỗ.
Ðược nghe nói vậy,
một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, bao nhiêu là
tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng?
- Thật dài, này Tỷ-kheo,
là tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng,
không dễ gì tính được bao nhiêu
năm, bao nhiêu trăm năm, bao nhiêu ngàn
năm, hay bao nhiêu trăm ngàn năm.
- Bạch Thế Tôn, có thể tính
được chăng bằng ví dụ?
Thế Tôn đáp:
- Có thể được, này
Tỷ-kheo. Này Tỷ-kheo, ví như có hột đậu
mè nặng hai mươi khàrika, theo đo
lường nước Kosala. Ví dụ sau một
trăm năm, một người lấy ra một lần
một hột mè. Này Tỷ-kheo, còn mau hơn
là bao hột mè, nặng hai mươi ngàn
khàrika ấy, theo đo lường của
nước Kosala, đi đến tiêu hao, đi
đến hao mòn do phương tiện ấy, so sánh
với tuổi thọ ở địa ngục Abbuda.
Này Tỷ-kheo hai mươi tuổi thọ ở địa
ngục Abbuda; bằng một tuổi thọ ở địa
ngục Nirabbuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi
thọ ở địa ngục Nirabbuda, bằng một
tuổi thọ ở địa ngục Ababa. Này
Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục
Ahaha bằng một tuổi thọ ở địa ngục
Atata. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở
địa ngục Atata bằng một tuổi thọ
ở địa ngục Kumuda. Này Tỷ-kheo,
hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Kumuda
bằng một tuổi thọ ở địa ngục
Sogandhika. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ
ở địa ngục Sogandhika bằng một
tuổi thọ ở địa ngục Uppala (Hoa sen
xanh). Này các Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở
địa ngục Uppala bằng một tuổi
thọ ở địa ngục Pundarika (Hoa sen). Này
Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục
Pundarika bằng một tuổi thọ ở địa
ngục Pudumà. Này Tỷ Kheo Kokàliya
sanh tại địa ngục Pudumà với
tâm hận thù Sàripputta và Moggallàna.
Thế Tôn nói như vậy.
Sau khi nói như vậy, bậc Thiện Thệ lại nói
thêm:
657. Phàm con người
đã sanh,
Sanh với búa trong miệng,
Kẻ ngu khi nói bậy,
Tự chặt đứt lấy
mình.
658. Ai khen kẻ đáng
chê,
Ai chê người đáng
khen,
Tự chất chứa bất
hạnh,
Do lỗ miệng của mình,
Chính do bất hạnh ấy,
Nên không được
an lạc.
659. Nhỏ thay bất hạnh
này,
Trong canh bạc rủi may,
Do quăng con xúc xắc,
Tài sản bị hoại vong,
Lớn hơn bất hạnh này,
Tự mình gây cho mình,
Với người có ác
ý,
Ðối chư Phật, Thiện
Thệ.
660. Trải thời gian trăm ngàn
Ở Nirabbuda,
Ba mươi sáu và năm
Ở tại Abbuda,
Với lời và ác ý,
Ai phỉ báng bậc Thánh,
Người ấy sẽ rơi
vào
Các cõi dữ địa
ngục.
661. Kẻ nói không chân
thật,
Ði đến cõi địa
ngục,
Ai tự mình có làm,
Lại nói: "Tôi không
làm",
Cả hai sau khi chết,
Ðều được xem đồng
đẳng,
Hành động họ hạ
liệt,
Ðời sau, đồng làm
người.
662. Ai khởi lên ác tâm,
Ðối người không
ác ý,
Ðối người sống
thanh tịnh,
Không có gì uế nhiễm,
Ác ấy trở lui lại,
Ðến với kẻ ngu ấy,
Như bụi bặm nhỏ nhiệm
Quăng ngược chiều gió
thổi.
663. Ai hệ lụy đắm trước,
Các chủng loại tham dục,
Người ấy với lời
nói,
Chỉ trích các người
khác,
Không lòng tin, xan lấn,
Không rộng rãi với
người,
Xan tham và keo kiết,
Quen thói nói xấu người.
664. Này Ông, miệng ác
độc,
Không chân thật, không
thánh,
Kẻ giết hại sanh linh,
Kẻ ác, kẻ làm
ác,
Người hạ liệt, bất
hạnh,
Thuộc về loại hạ sanh,
Ở đời, chớ nói nhiều
Ông là dân địa
ngục.
665. Ông rắc rải bụi
trần,
Khiến mọi người bất hạnh,
Ông nói xấu bậc
hiền,
Làm ác điều tội
ác,
Sau khi Ông đã làm
Rất nhiều điều ác hạnh,
Ông đi đến vực
thẳm,
Trong thời gian dài dài
666. Hành động bất
cứ ai,
Không đi đến tiêu
diệt,
Rồi nó cũng đến
Ông,
Bắt gặp được nghiệp
chủ,
Kẻ ngu làm điều ác,
Ðời sau thấy mình
khổ.
667. Nóù đi đến
tại chỗ
Bị đánh bằng roi
sắt,
Tại chỗ có cọc sắt,
Với cạnh lưỡi bén
nhọn
Ở đấy nó có được
Các món ăn thích
đáng,
Giống như những hòn
sắt,
Ðược nung nấu cháy
đỏ,
668. Tại đấy không
ai nói
Lời nhẹ nhàng an ủi,
Không có ai vội vã,
Ðến che chở hộ trì,
Họ bước vào hầm lửa,
Ðang cháy đỏ
hừng hực.
669. Với lưới, kẻ giữ
ngục,
Trùm kín bao phủ họ,
Tại đấy với gậy
sắt,
Họ hành hạ đánh
đập,
Họ đi qua vực đen,
Tối tăm không thấy
đường,
Như đi qua đám
mù,
Ðang dầy đặc tràn
rộng.
670. Họ đi đến bước
vào
Các chum ghè bằng sát,
Họ bước vào hầm lửa,
Ðang cháy đỏ
hừng hực,
Tại đấy, họ bị
nấu,
Trong thời gian lâu dài,
Họ nổi lên chìm xuống,
Trong những hầm lửa ấy.
671. Rồi kẻ làm điều
ác,
Bị nung nấu tại đấy,
Giữa đống mủ và
máu,
Xen kẽ và lẫn lộn,
Tùy theo phương hướng
nào,
Nó theo chiều hướng nằm,
Ở đấy, bị rửa nát,
Khi bị xúc chạm vào.
672. Trong nước, chỗ trú
ẩn
Của các loài côn
trùng,
Kẻ làm các điều
ác,
Bị nung nấu tại đấy,
Cho đến những bờ bến
Không có cho nó đi,
Vì chum ghè mọi phía,
Ðều tròn đầy
như nhau.
673. Trong rừng đầy lá
gươm,
Sắc bén và mũi
nhọn,
Họ đi vào rừng ấy,
Chân tay bị chém đứt
Sử dụng các câu
móc,
Chúng móc lưỡi dài
ra
Rồi những kẻ ngục
tối
Hành hạ đánh giết
họ,
674. Họ đi vào cảnh giới,
Gọi Vêtarani,
Khó vượt qua, tràn
đầy,
Lưỡi dao, búa sắc
bén,
Tại chỗ ấy, kẻ ngu,
Bị rơi, bị rớt vào,
Những kẻ làm điều
ác,
Sau khi tạo nghiệp ác.
675. Tại đấy, các
chim thú,l
Ăn thịt kẻ rên la,
Những bầy, đàn
quạ đen,
Ðen thui và lốm đốm,
Các loài chó, dã
can,
Cùng với các chim kên,
Các diều hâu, chim quạ,
Xé xác những kẻ
ấy.
676. Thật rất là đau
khổ
Nếp sống này, tại đấy,
Nếp sống kẻ làm ác,
Loài Người thấy được
vậy,
Do vậy, ở đời này,
Với mạng sống còn
lại,
Là người làm công
việc,
Không biếng nhác thụ
động.
677. Những hột mè mang lại,
Ðịa ngục Paduma,
Ðược kẻ trí
đếm kỹ,
Số đến Nahuta,
Lên đến số năm
tỷ,
Tức năm ngàn vạn
triệu,
Còn nữa lên đến
số,
Một trăm hai mươi ức.
678. Khổ cho đến như vậy,
Ðịa ngục được
nói đến,
Tại đấy cần phải
sống,
Lâu cho đến như vậy.
Như vậy, giữa những
người,
Trong sạch, thiện tốt lành,
Hãy luôn luôn hộ
trì,
Lời nói và ý nghĩa.
(XI) Kinh Nàlaka (Sn 131)
679. ẩn sĩ Asita,
Trong lúc giữa ban ngày,
Thấy chúng các chư
Thiên
Cõi trời Ba mươi ba,
Họ hoan hỷ vui vẻ,
Với y áo, thanh tịnh,
Họ cung kính In-đa,
Các vị ấy cầm
áo
Với nhiệt tình nói lên,
Những lời khen tán thán.
680. Thấy chư Thiên hoan
hỷ,
Dõng dạc và phấn
chấn,
Với tâm tư cung kính,
Ở đây, vị ấy nói.
Asita:
Vì sao chúng chư
Thiên
Lại nhiệt tình hoan hỷ?
Họ cầm áo vui múa,
Là do nhân duyên gì?
681. Trong thời gian chiến trận,
Với các Asura,
Dững sĩ được thắng
trận
Asura bại trận,
Thời gian ấy họ không,
Lông tóc dựng ngược
dậy,
Họ thấy gì hy hữu,
Chư Thiên hoan hỷ vậy.
682. Họ la lớn ca hát,
Và họ tấu nhạc trời,
Họ múa tay, vỗ tay,
Họ múa nhảy vũ điệu,
Nay ta hỏi các Ông,
Trú đảnh núi Meru,
Các Ngài hãy mau chóng,
Giải tỏa điều ta nghĩ.
Chư Thiên:
683. Tại xứ Lumbini
Trong làng các Thích-ca,
Có sanh vị Bồ Tát,
Báu tối thắng, vô
tỷ,
Ngài sanh, đem an lạc,
Hạnh phúc cho loài Người,
Do vậy chúng tôi mừng,
Tâm vô cùng hoan hỷ.
684. Ngài, chúng sanh tối
thượng,
Ngài loài Người tối
thắng,
Bậc Ngưu vương loài
Người,
Thượng thủ mọi sanh loại;
Ngài sẽ chuyển Pháp luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh nhiếp loài
thú.
685. Sau khi nghe lời ấy,
ẩn sĩ Asita,
Liền vội vàng bước
xuống,
Và đi đến đầu
đài,
Của đức vua Tịnh
Phạn.
Ðến nơi Ngài ngồi
xuống,
Nói với các Thích-Ca:
"Hoàng tử nay ở đâu,
Ta nay muốn thấy Ngài".
686. Thấy Thái tử chói
sáng
Rực rỡ như vàng
chói
Trong lò đúc nấu
vàng,
Ðược thợ khéo
luyện thành,
Bừng sáng và rực
rỡ,
Với dung sắc tuyệt mỹ,
Họ Thích trình Thái-tử,
Cho ẩn sĩ Tư-đà.
687. Sau khi thấy Thái tử
Chói sáng như lửa
ngọn,
Thanh tịnh như sao ngưu
Vận hành giữa hư
không,
Sáng chiếu như mặt trời
Giữa trời thu, mây tịnh,
ẩ sĩ tâm hân hoan
Ðược hỷ lạc rộng
lớn.
688. Chư Thiên cầm ngôi
lọng
Ðưa lên giữa hư
không,
Cây lọng có nhiều cành,
Có hàng ngàn vòng
chuyền.
Họ quạt với phất trần,
Có tán vàng, lông
thú,
Nhưng không ai thấy được,
Kẻ cầm lọng, phất trần.
689. Bậc ẩn sĩ bện tóc,
Tên Kà-ha-xi-ri,
Thấy Thái tử nằm
dài
Trên tấm chăn màu
vàng,
Như đồng tiền bằng
vàng,
Lại trên đầu Thái
tử
Có lông trắng đưa
lên,
Tâm ẩn sĩ phấn khởi,
Ðẹp ý, lòng hân
hoan
Ðưa tay bồng Thái
tử.
690. Sau khi ẩm bồng lên
Con trai dòng họ Thích,
Bậc cầu đạo tìm
hiểu,
Vượt khổ, nhờ tướng,
chú,
Tâm tư được hoan
hỷ,
Thốt lên lời như sau:
Vị này bậc Vô thượng,
"Tối thượng loài hai
chân".
691. Khi vị ấy nghĩ đến,
Số mệnh của tự mình,
Số mệnh không tốt đẹp,
Vị ấy rơi nước
mắt,
Thấy vậy, các Thích
Ca,
Hỏi ẩn sĩ đang khóc;
"Có sự gì chướng
ngại
Sẽ xảy cho Thái tử?".
692. Thấy họ Thích lo lắng,
Vị ẩn sĩ trả lời:
"Ta không thấy bất hạnh
Xảy đến cho Thái tử,
Ðối với Thái tử
ấy,
Chướng ngại sẽ không
có,
Vị này không hạ
liệt,
Chớ có lo lắng gì.
693. Thái tử này sẽ
chứng
Tối thượng quả Bồ
đề,
Sẽ chuyển bánh xe pháp,
Thấy thanh tịnh tối thắng,
Vì lòng tử thương
xót,
Vì hạnh phúc nhiều người,
Và đời sống Phạm
hạnh,
Ðược truyền bá rộng
rãi.
694. Thọ mạng ta ở đời
Còn lại không bao nhiêu,
Ðến giữa đời sống
Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung.
Ta không được nghe
pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ,
Do vậy ta sầu não,
Bất hạnh và khổ đau".
695. Sau khi khiến họ Thích,
Sanh hoan hỷ rộng lớn,
Bậc sống theo Phạm hạnh,
Bước ra khỏi nội thành.
Vị ấy vì lòng
từ,
Thương con trai của chị,
Khích lệ nó học pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ.
696. Khi Ông nghe tiếng Phật,
Từ người khác nói
lên,
Bậc đã đạt
Bồ-đề,
Ðã đi con đường
pháp,
Hãy đi đến chỗ ấy,
Hỏi kỹ về đạo pháp,
Và sống đời Phạm
hạnh,
Dưới bậc Thế Tôn ấy.
697. Như vậy, được
khuyên bảo,
Bởi vị nghĩ hạnh phúc,
Vị thấy ở tương
lai,
Ðường tối thắng
thanh tịnh.
Do vậy Nà-la-ka,
Với phước đức
chất chứa,
Sống với căn hộ trì,
Chờ đợi bậc chiến thắng.
698. Khi nghe tin Pháp luân,
Ðược bậc chiến thắng
chuyển,
Ðến thấy được
hoan hỷ,
Bậc ẩn sĩ Ngưu vương,
Hỏi Mâu ni tối thắng,
Pháp Mâu ni tối thượng,
Như A-xi-ta khuyên
Trong buổi gặp gỡ trước.
(Kệ mở đầu đã xong)
699. Lời A-xi-ta này,
Con biết là như thật,
Con hỏi Gotama,
Ðường giải thoát
mọi pháp.
700. Không nhà, con đi
đến
Tìm hạnh người khất
sĩ,
Con hỏi bậc ẩn sĩ
Hãy nói lên cho con,
Con đường đạo
tối thượng,
Ðưa đến đạo
Mâu-ni,
701. Thế Tôn đáp như
sau:
Khó hành, khó thực
hiện,
Là đạo hạnh Mâu
ni,
Ta sẽ cho Ông biết,
Hãy đến lắng tai nghe,
Ta sẽ nói cho Ông,
Hãy vững trí, an thần,
Hãy kiên trì bền chí.
702. Hãy tu hạnh Sa-môn,
Không để bị dao động,
Giữa khen chê trong làng,
Hãy chế ngự tâm sân,
Sống hạnh thật an tịnh,
Không cống cao kiêu mạn.
703. Tiếng cao thấp phát ra,
Như ngọn lửa trong vườn,
Nữ nhân hay cám dỗ,
Chớ cám dỗ ẩn sĩ.
704. Hãy từ bỏ dâm
dục,
Xả mọi dục cao thấp.
Ðối hữu tình yếu
mạnh,
Không đối nghịch,
tham đắp.
705. Ta thế nào, họ vậy,
Họ thế nào, Ta vậy,
Lấy ngã làm ví
dụ,
Chớ giết, chớ bảo giết.
706. Hãy bỏ dục, bỏ
tham,
Ðây phàm phu bị
nắm,
Bậc có mắt hành
đạo,
Vượt địa ngục,
loài Người.
707. Bụng đói, ăn
chừng mực,
Ít dục, không tham lam.
Vị ấy không ham dục,
Không dục, thật tịch
tịnh.
708. Sau khi đi khất thực,
ẩ sĩ vào rừng sâu,
Ði đến dưới gốc
cây,
Sửa soạn ngồi an tịnh.
709. Bậc Hiền trí hành
thiền,
Hoan hỷ trong rừng sâu,
Hành thiền dưới gốc
cây,
Thỏa mãn sở thích
mình.
710. Khi đêm hết, sáng
đến,
Cần phải đi đến
làng,
Chớ hân hoan khất thực,
Ðồ mang từ làng
đi.
711. ẩn sĩ không đi
gấp,
Ðến làng, giữa gia đình,
Tìm ăn, cắt nói
chuyện,
Không nói chuyện liên
hệ.
712. Nếu được, thật
là tốt,
Không được, cũng
là tốt,
Nghĩ vậy, cả hai mặt,
Vị ấy trở về cây.
713. Ði với bát cầm
tay,
Không câm, dáng như
câm,
Chớ khinh, đồ cho ít,
Không chê người đem
cho.
714. Bậc Sa-môn thuyết giảng,
Con đường cao và
thấp,
Nhưng đến bờ bên kia,
Không có hai con đường,
Tuy vậy chớ nghĩ rằng,
Ðường này chỉ
là một.
715. Với ai, không có tham,
Tỷ-kheo cắt dòng nước,
Ðoạn tận hành thiện
ác,
Vị ấy không sầu
não.
716. Thế Tôn lại nói thêm:
Ta dạy cho các Ông
Thức tri hạnh ẩn sĩ,
Hãy tu như lưỡi dao,
Với lưỡi ấn nóc
họng,
Hãy hạn chế bao tử.
717. Tâm chớ có thụ
động,
Nhưng chớ nghĩ quá
nhiều.
Không hôi hám, độc
lập,
Sống cứu cánh Phạm
hạnh
718. Hãy tập ngồi một
mình,
Sống đúng hạnh
Sa-môn.
Sống một mình được
gọi
Là hạnh bậc ẩn sĩ,
Nếu tự mình tìm được
Thoải mái trong cô độc.
719. Hãy chói sáng mười
phương,
Sau khi nghe tiếng nói,
Của các bậc hiền sĩ,
Hãy hành thiền, bỏ dục,
Mong đệ tử của Ta,
Tăng trưởng tâm và
tín.
720. Hãy học các dòng
nước,
Từ khe núi vực sâu.
Nước khe núi chảy ồn,
Biển lớn động im lặng.
721. Cái gì trống kêu
to,
Cái gì đầy yên
lặng,
Ngu như ghè vơi nước,
Bậc trí như ao đầy.
722. Khi Sa-môn nói nhiều,
Nói liên hệ đến đích,
Tự biết nên thuyết pháp,
Tự biết nên nói nhiều.
723. Ai biết, biết tự chế,
Ai biết, không nói nhiều,
Vị ấy là ẩn sĩ,
Xứng đáng hạnh
ẩn sĩ,
Vị ấy là ẩn sĩ,
Ðạt được hạnh
ẩn sĩ.
(XII) Kinh Hai Pháp Tuỳ Quán
(Sn 139)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú tại
Sàvatthi, ở Ðông Viên, tại
lâu đài mẹ của Migàra. Lúc
bấy giờ, trong ngày trai giới Uposatha, vào
ngày rằm, trăng tròn, trong đêm rằm,
Thế Tôn ngồi giữa trời với chúng Tỷ-kheo
đoanh vây. Rồi Thế Tôn nhìn xung quanh
chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, nói với
các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, phàm
có những thiện pháp nào thuộc bậc
Thánh có khả năng hướng thượng,
đưa đến giác ngộ; này các
Tỷ-kheo, đối với các thiện pháp thuộc
bậc Thánh có khả năng hướng thượng
đưa đến giác ngộ ấy do lý do gì
các Thầy nghe những pháp ấy? Này
các Tỷ-kheo, các Thầy có thể được
hỏi như vậy, các Thầy có thể trả
lời cho những người câu hỏi ấy
như sau: "Vì muốn có như thật trí
đối với hai pháp". Và nếu các Thầy
nói: "Thế nào là hai?". - "Ðây là
khổ, đây là khổ tập", đây
là tuỳ quán thứ nhất. "Ðây
là khô diệt, đây là con đường
đưa đến khổ diệt", đây là tùy
quán thứ hai.
Này các Tỷ-kheo, như vậy
do Tỷ-kheo chơn chánh tuỳ quán hai pháp,
không có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần,
được chờ đợi là một trong hai
quả sau đây: Ðược chánh trí
ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng
quả Bất hoàn.
Thế Tôn nói như vậy,
Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo
Sư lại nói thêm:
724. Ai không tuệ tri khổ,
Và hiện hữu của khổ,
Và chỗ khổ hoàn toàn
Ðược đoạn tận
không dư,
Vị ấy không biết đường,
Ðưa đến khổ an tịnh.
725. Không có tâm giải
thoát,
Không có tuệ giải thoát,
Vị ấy không có
thể
Ðoạn tận sanh và
già.
726. Những ai tuệ tri khổ
Và hiện hữu của khổ
Và chỗ khổ hoàn toàn
Ðược đoạn tận
không dư,
Vị ấy biết con đường,
Ðưa đến khổ an tịnh.
727. Ðầy đủ tâm
giải thoát,
Với trí tuệ giải thoát,
Những vị ấy có
thể
Với trí tuệ giải thoát,
Ðoạn tận sanh và
già.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau: "Có thể có chân chánh tuỳ quán
hai pháp, theo một pháp môn khác không?"
Các Thầy cần phải trả lời: "Có
thể có". Có thể có như thế nào? "Phàm
có khổ gì hiện hữu, tất cả đều
do duyên sanh y", đây là tuỳ quán
pháp thứ nhất. "Do sự đoạn diệt,
ly tham, các sanh y không có dư tàn, khổ
không có hiện hữu", đây là tùy
quán thứ hai.
- Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tuỳ quán hai pháp, không có
phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, được
chờ đợi là một trong hai quả sau đây:
Ðược chánh tri ngay trong hiện tại, và
nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn.
Thế Tôn nói như vậy,
Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo
Sư lại nói thêm:
728. Chính do duyên
sanh y,
Các khổ được sanh
khởi,
Tất cả các khổ đau,
Sai biệt ở trên đời,
Ai chính do vô minh
Tạo lên sự sanh y,
Kẻ ngu ấy gặp khổ
Nối tiếp nhau sanh trưởng,
Do vậy vị hiểu biết,
Không tạo lên sanh y,
Tuỳ quán được
hiện hữu
Của sanh và của khổ.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau: "Có thể có chân chánh tùy quán
hai pháp theo một pháp môn khác không?"
Các Thầy cần phải trả lời: "Có
thể có". Có thể có như thế nào? "Phàm
có khổ gì hiện hữu, tất cả đều
do duyên vô minh", đây là tùy quán
thứ nhất. "Do đoạn diệt, ly tham, vô minh
không có dư tàn, khổ không có
hiện hữu", đây là tùy quán pháp
thứ hai.
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp, không có
phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được
chờ đợi là một trong hai quả sau đây:
Ðược chánh trí ngay trong hiện tại,
và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn.
Thế Tôn nói như vậy,
Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo
sư lại nói thêm:
729. Những ai tiếp tục
rơi,
Dòng luân chuyển sanh tử,
Ðến hữu này hữu
khác,
Sanh thú do vô minh.
730. Vô minh này, đại
si,
Ðưa đến luân chuyển
dài,
Chúng sanh, minh đạt
được,
Không còn phải tái
sanh.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất
cả đều do duyên các hành", đây
là tuỳ quán pháp thứ nhất. "Do
đoạn diệt, ly tham, các hành không có
dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây
là tùy quán pháp thứ hai. Này
các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán
hai pháp.
Bậc Ðạo sư lại
nói thêm:
731. Phàm khổ gì
hiện hữu,
Tất cả duyên các
hành,
Do đoạn diệt các hành,
Khổ không có hiện hữu.
732. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên các hành,
Tịnh chỉ tất cả
hành,
Do phá hoại các tưởng,
Như vậy, khổ được
diệt,
Biết như thực là vậy.
733. Bậc Hiền trí chánh
kiến,
Hiểu biết, với chánh trí,
Nhiếp phục Ma kiết sử,
Không đi đến tái
sanh.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất
cả đều do duyên thức", đây là
tùy quán pháp thứ nhất. "Do đoạn
diệt, ly tham thức không có dư tàn, khổ
không có hiện hữu", đây là tùy
quán pháp thứ hai.
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp, bậc Ðạo
sư lại nói thêm:
734. Phàm khổ gì
hiện hữu,
Tất cả do duyên thức,
Với thức được
đoạn diệt,
Khổ không có hiện hữu.
735. Do biết nguy hiểm hày,
Khổ do duyên các thức,
Tỷ-kheo tịnh chỉ thức,
Không dục ái, tịch
tịnh.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau:.... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất
cả đều do duyên xúc", đây là
pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn
diệt, ly tham xúc không có dư tàn, khổ
không có hiện hữu", đây là tùy
quán pháp thứ hai.
Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp. Bậc Ðạo
Sư lại nói thêm:
736. Những ai, xúc chi
phối,
Chạy theo dòng sanh hữu,
Những người hành tà
đạo,
Xa vời diệt kiết sử.
737. Những ai liễu tri xúc,
Nhờ trí, thích an tịnh,
Do họ thắng tri xúc,
Không dục ái, tịch
tịnh.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất
cả đều do duyên thọ", đây là pháp
tùy quán thứ nhất. "Do đoạn diệt,
ly tham thọ không có dư tàn, khổ không
có hiện hữu", đây là tùy quán
pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn
chánh tùy quán hai pháp.
Bậc Ðạo Sư lại
nói thêm:
738. Với lạc thọ, khổ
thọ,
Hay bất khổ, bất lạc;
Nội thọ và ngoại thọ,
Phàm có cảm thọ gì.
739. Biết được đây
là khổ,
Giả dối bị hủy hoại.
Thấy các xúc hoại
diệt,
Như vậy, đây ly tham,
Tỷ-kheo diệt các thọ,
Không dục ái, tịch
tịnh.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất
cả đều do duyên ái", đây là
pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn
diệt, ly tham ái, không có dư tàn, khổ
không có hiện hữu", đây là tùy
quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo,
do Tỷ-kheo chơn chán tùy quán hai pháp.
Bậc Ðạo Sư lại
nói thêm:
740. Người có ái
bạn đường,
Bị luân chuyển dài dài,
Ðến hữu này, hữu
khác,
Luân chuyển không dừng
nghỉ.
741. Do biết nguy hiểm nầy,
Chính ái tác thành
khổ,
Ly ái, không chấp thủ,
Chánh niệm, Tỷ-kheo hành.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau:.... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất
cả đều do duyên thủ", đây là
pháp tùy quán thứ nhất. "Do đoạn
diệt, ly tham thủ không có dư tàn, khổ
không có hiện hữu", đây là tùy
quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo,
do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.
Bậc Ðạo Sư lại
nói thêm:
742. Do duyên thủ, có
hữu,
Do hữu, đi đến khổ,
Từ sanh nên có chết,
Ðây hiện hữu của
khổ.
743. Do vậy, bậc Hiền trí,
Diệt thủ, nhờ chánh trí,
Nhờ thắng trí sanh diệt,
Không đi đến tái
sanh.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất
cả đều do duyên khởi xướng", đây
là pháp tùy quán thứ nhất. "Do
đoạn diệt ly tham khởi xướng không có
dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây
là tùy quán pháp thứ hai. Này
các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán
hai pháp.
Bậc Ðạo Sư lại
nói thêm:
744. Phàm khổ gì
hiện hữu,
Tất cả duyên khởi
xướng,
Do đoạn diệt khởi xướng,
Khổ không có hiện hữu.
745. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên khởi xướng,
Từ bỏ mọi khởi xướng,
Không khởi xướng, giải
thoát.
746. Do đoạn tận hữu
ái,
Tâm Tỷ-kheo tịch tịnh,
Vượt khỏi sanh luân
chuyển
Vị ấy không tái
sanh.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất
cả đều do duyên thức ăn", đây
là pháp tùy quán quán thứ nhất.
"Do đoạn diệt, ly tham thức ăn không có
dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây
là tùy quán pháp thứ hai. Này
các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán
hai pháp.
Bậc Ðạo Sư lại
nói thêm:
747. Phàm khổ gì
hiện hữu,
Tất cả duyên thức
ăn,
Do đoạn diệt thức ăn,
Khổ không có hiện hữu.
748. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên thức ăn,
Liễu tri mọi thức ăn,
Không y mọi thức ăn.
749. Nhờ chánh trí không
bệnh,
Ðoạn diệt các lậu
hoặc,
Thọ dụng các thức ăn,
Giác sát, trú Chánh
pháp,
Vị đạt được
trí tuệ,
Không rơi vào ước
lượng.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau:... "Phàm có khổ gì hiện hữu, tất
cả đều do duyên dao động", đây
là pháp tùy quán quán thứ nhất.
"Do đoạn diệt, ly tham dao động không có
dư tàn, khổ không có hiện hữu", đây
là tùy quán pháp thứ hai. Này
các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán
hai pháp.
Bậc Ðạo Sư lại
nói thêm:
750. Phàm khổ gì
hiện hữu,
Tất cả duyên dao động,
Do đoạn diệt dao động,
Khổ không có hiện hữu.
751. Do biết nguy hiểm này,
Khổ do duyên dao động,
Do vậy, bỏ dao động,
Chận dừng lại các
hành,
Không có gì chướng
ngại
Không chấp thủ, chánh
niệm,
Vị Tỷ-kheo bộ hành,
Khắp tất cả chân
trời.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau:... "Ai có nương tựa, thì bị dao
động", đây là pháp tùy quán
quán thứ nhất. "Ai không có nương
tựa, không bị dao động", đây
là pháp tùy quán thứ hai. Này
các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán
hai pháp.
Bậc Ðạo Sư lại
nói thêm:
752. Không nương
tựa, không động,
Nương tựa có chấp
thủ,
Chấp hữu này, hữu
khác,
Không chinh phục luân
chuyển.
753. Sau khi rõ biết được,
Nguy hiểm tai hại nầy,
Trong các sự nương
tựa,
Có sợ hãi lớn lao,
Không nương tựa y
chỉ,
Không chấp thủ, chánh
niệm,
Vị Tỷ-kheo bộ hành,
Khắp tất cả chân
trời.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau: "Có thể có như thế nào?" Này các
Tỷ-kheo "Các pháp vô sắc an tịnh hơn
các sắc pháp", đây là pháp
tùy quán thứ nhất. "Sự đoạn
diệt an tinh hơn các pháp vô sắc", đây
là pháp tùy quán thứ hai. Này
các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán
hai pháp.
Bậc Ðạo Sư lại
nói thêm:
754. Chúng sanh thuộc
sắc giới,
Chúng sanh trú vô sắc,
Không tuệ tri đoạn diệt,
Chúng đi đến tái
sanh.
755. Những ai liễu tri sắc,
Khéo an trú vô sắc,
Giải thoát trong đoạn
diệt,
Họ từ bỏ sự chết.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau: "Có thể có như thế nào?" Này các
Tỷ-kheo, "Cái gì được thế giới với
chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên,
được thế giới này với quần chúng
Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên
và loài Người suy tưởng: "Ðây
là sự thật", cái ấy được
các vị Thánh khéo thấy như thật
với chánh trí tuệ là: "Cái này
là hư vọng", đây là pháp tùy
quán thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, "Cái
gì được thế giới với chư Thiên,
các Ma, các Phạm thiên, được
thế giới này với quần chúng Sa-môn
và Bà-la-môn, với chư Thiên và
loài Người suy tưởng: "Ðây là
hư vọng", cái ấy được các vị
Thánh khéo thấy như thật với chánh
trí tuệ là: "Cái này là chân thật",
đây là pháp tùy quán thứ
hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy
quán hai pháp.
Bậc Ðạo Sư lại
nói thêm:
756. Hãy xem thế giới
nầy,
Với thế giới chư Thiên,
Hoan hỷ với phi ngã,
An trú trên danh sắc,
Nghĩ rằng danh sắc này
Là chân thật không
ngụy.
757. Dầu họ nghĩ thế nào,
Khi danh sắc đổi khác,
Danh sắc là hư vọng,
Giả dối sống tạm
bợ,
758. Niết-bàn không hư ngụy,
Bậc Thánh chân thật
biết,
Họ thắng tri chân thật,
Không ái dục, tịch
tịnh.
Này các Tỷ-kheo, có thể các
Thầy được hỏi thêm nữa như
sau: "Có thể có như thế nào?" Này các
Tỷ-kheo, "Cái gì được thế giới với
chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên,
được thế giới này với quần chúng
Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên
và loài Người suy tưởng: "Ðây
là an lạc", cái ấy được các
vị Thánh khéo thấy như thật với
chánh trí tuệ là: "Cái này là
khổ", đây là pháp tùy quán
thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, "Cái gì
được thế giới với chư Thiên, các
Ma, các Phạm thiên, được thế giới
này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn,
với chư Thiên và loài Người suy
tưởng: "Ðây là khổ", cái ấy
được các vị Thánh khéo thấy
như thật với chánh trí tuệ là: "Cái
này là lạc", đây là pháp
tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do
Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp.
Bậc Ðạo Sư lại
nói thêm:
759. Sắc, tiếng, hương,
vị, xúc,
Tất cả những pháp
này,
Khả lạc, hỷ, khả ý,
Khi nào chúng hiện hữu.
760. Thế giới với chư Thiên
Xem chúng là khả lạc,
Khi chúng bị hoại diệt,
Mới thấy chúng là
khổ.
761. Bậc Thánh thấy là
lạc,
Khi có thân đoạn
diệt,
Ðây hoàn toàn
trái ngược,
Ðiều mọi giới được
thấy.
762. Ðiều người khác
gọi lạc,
Bậc Thánh gọi là khổ,
Ðiều người khác gọi
khổ,
Bậc Thánh biết là lạc,
Hãy xem pháp khó biết,
Kẻ không thấy mê
mờ.
763. Kẻ bị che, tối tăm,
Kẻ không thấy, tối
mù,
Bậc thiện, được rộng
mở,
Bậc thấy, được
ánh sáng,
Khẻ ngu dầu có gần,
Cũng không biết con đường,
Cũng không có thiện xảo,
Ðối Chánh pháp
Phật dạy.
764. Bị hữu tham chiến bại,
Bị trôi theo dòng hữu,
Rơi vào Ma chi phối,
Pháp này khó chánh
giác.
765. Ai ngoài các bậc
Thánh,
Xứng đáng đạo
chánh giác.
Do chánh trí đạo
ấy
Chứng vô lậu Niết-bàn.
Thế Tôn thuyết như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỉ tín thọ lời Thế Tôn
dạy. Trong khi pháp này được giảng,
tâm của hơn sáu mươi Tỷ-kheo giải
thoát khỏi các lậu hoặc, không có
chấp thủ.
[Giới thiệu][1][2][3][4][5][
^ ]
|