|
Chương Hai - Tiểu
Phẩm
(I) Kinh Châu Báu (Ratana Sutta)
(Sn 39)
222. Phàm ở tại
đời này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất
này,
Hoặc chính giữa hư
không
Mong rằng mọi sanh linh,
Ðược đẹp ý vui
lòng,
Vậy, hãy nên cẩn
thận,
Lắng nghe lời dạy này.
223. Do vậy các sanh linh,
Tất cả hãy chú
tâm,
Khởi lên lòng từ
mẫn,
Ðối với mọi loài,
người.
Ban ngày và ban đêm,
Họ đem vật cúng dường,
Do vậy không phóng dật,
Hãy giúp hộ trì
họ.
224. Phàm có tài sản
gì,
Ðời này hay đời
sau,
Hay ở tại thiên giới,
Có châu báu thù
thắng,
Không gì sánh bằng
được,
Với Như Lai, Thiện Thệ
Như vậy, nơi Ðức
Phật,
Là châu báu thù
diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
225. Ðoạn diệt và ly tham,
Bất tử và thù diệu,
Phật Thích Ca Mâu-Ni,
Chứng pháp ấy trong
thiền.
Không gì sánh bằng
được,
Với pháp thù diệu ấy.
Như vậy, nơi Chánh
pháp,
Là châu báu thù
diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
226. Phật Thế Tôn thù thắng,
Nói lên lời tán
thán,
Pháp thiền định trong
sạch,
Liên tục không gián
đoạn,
Không gì sánh bằng
được,
Pháp thiền vi diệu ấy,
Như vậy, nơi Chánh
pháp,
Là châu báu thù
diệu
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
227. Tám vị bốn đôi
này,
Ðược bậc thiện tán
thán,
Chúng đệ tử Thiện Thệ,
Xứng đáng được
cúng dường.
Bố thí các vị
ấy,
Ðược kết quả to lớn.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù
diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
228. Các vị lòng ít
dục,
Với ý thật kiên trì,
Khéo liên hệ mật thiết,
Lời dạy Gotama!.
Họ đạt được
quả vị,
Họ thể nhập bất tử,
Họ chứng đắc dễ
dàng,
Hưởng thọ sự tịch
tịnh,
Như vậy, nơi tăng chúng,
Là châu báu thù
diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
229. Như vậy cột trụ
đá,
Khéo y tựa lòng đất,
Dầu có gió bốn
phương,
Cũng không thể dao động,
Ta nói bậc chơn nhân,
Giống như ví dụ
này.
Vị thề nhập với tuệ,
Thấy được những
Thánh đế,
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù
diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
230. Những vị khéo giải
thích,
Những sự thật Thánh
đế,
Những vị khéo thuyết giảng,
Với trí tuệ thâm sâu,
Dầu họ có hết sức,
Phóng dật không tự
chế,
Họ cũng không đến nỗi,
Sanh hữu lần thứ tám.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù
diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
231. Vị ấy nhờ đầy
đủ,
Với chánh kiến sáng suốt,
Do vậy, có ba pháp,
Ðược hoàn toàn
từ bỏ.
Thân kiến và nghi hoặc,
Giới cấm thủ cũng
không;
Ðối với bốn đọa
xứ,
Hoàn toàn được
giải thoát;
Vị ấy không thể làm,
Sáu điều ác căn
bản.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù
diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
232. Dầu vị ấy có
làm
Ðiều ác gì đi
nữa,
Với thân hay với lời,
Kể cả với tâm ý,
Vị ấy không có
thể
Che đậy việc làm ấy,
Vị ấy được nói
rằng,
Không thể thấy ác đạo.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù
diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
233. Ðẹp là những
cây rừng
Có bông hoa đầu
ngọn,
Trong tháng ba nóng böùc,
Những ngày hạ đầu
tiên,
Pháp thù thắng thuyết
giảng,
Ðược ví dụ
như vậy,
Pháp đưa đến Niết-bàn,
Pháp hạnh phúc tối
thượng.
Như vậy, nơi Ðức
Phật,
Là châu báu thù
diệu
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
234. Cao thượng, biết cao thượng,
Cho, đem lại cao thượng,
Bậc vô thượng thuyết
giảng,
Pháp cao thượng thù
thắng.
Như vậy, nơi đức
Phật,
Là châu báu thù
diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
235. Nghiệp cũ đã đoạn
tận,
Nghiệp mới không tạo nên,
Với tâm tư từ bỏ,
Trong sanh hữu tương lai.
Các hột giống đoạn
tận,
Ước muốn không tăng
trưởng,
Bậc trí chứng Niết-bàn,
Ví như ngọn đèn
này.
Như vậy, nơi Tăng chúng,
Là châu báu thù
diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn
hạnh phúc.
236. Phàm ở tại đời
này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất
này,
Hoặc chính giữa hư
không,
Hãy đảnh lễ đức
Phật,
Ðã như thực đến
đây,
Ðược loài Trời,
loài Người,
Ðảnh lễ và cúng
dường.
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh
phúc.
237. Phàm ở tại nơi
này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất
này,
Hoặc chính giữa hư
không.
Hãy đảnh lễ Chánh
pháp,
Ðã như thực đến
đây,
Ðược loài Trời,
loài Người,
Ðảnh lễ và cúng
dường.
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh
phúc.
238. Phàm ở tại nơi
này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất
này,
Hoặc chính giữa hư
không.
Hãy đảnh lễ chúng
Tăng
Ðã như thực đến
đây,
Ðược loài Trời,
loài Người,
Ðảnh lễ và cúng
dường.
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh
phúc.
(II) Kinh Hôi Thối (Amagandha)
(Sn 42)
Bà-la-môn:
239. Các bậc Thiện chơn
chánh,
Ăn hạt giống cây thuốc,
Ăn đậu đũa, đậu
rừng,
Ăn lá, ăn rễ cây,
Ăn trái các dây leo,
Nhận được thật
đúng pháp.
Vị ấy không nói
láo,
Vì các dục thúc
đẩy.
240. Ôi ngài Kassapa,
Ai ăn các món ăn,
Do người khác bố
thí,
Khéo làm, khéo chưng
dọn,
Trong sạch và thù thắng;
Ăn lúa gạo thơm ngon.
Ai ăn uống như vậy
Là ăn thịt hôi thối.
241. Này bà con Phạm thiên,
Chính Ngài tuyên bố
rằng:
Ta không ăn đồ
thối,
Ðể nuôi sống thân
Ta.
Nhưng Ngài ăn món
ăn
Bằng lúa gạo thơm
ngon,
Ăn thịt các loài chim,
Nấu ăn thật khéo
léo
Ta hỏi Kassapa:
Ý nghĩa sự kiện này,
Ngài định nghĩa
thế nào,
Là ăn đồ hôi
thối?
Ðức Phật Kassapa:
242. Sát sanh và hành
hình,
Ðả thương và
bắt trói,
Trộm cắp và nói
láo,
Man trá và lừa đảo,
Giả bộ kẻ học thức,
Ði lại với vợ người,
Ðây là đồ
ăn thối,
Ăn thịt không phải thối.
243. Ở đời, các hạng
người,
Không chế ngự lòng dục,
Ðam mê các vị ngon,
Liên hệ đến bất tịnh,
Theo chủ nghĩa hư vô,
Bất chánh khó hướng
dẫn,
Ðây là ăn đồ
thối,
Ăn thịt không phải thối.
244. Ai thô bạo, dã man,
Sau lưng nói gièm pha,
Phản bạn không từ
bi,
Lại cống cao ngạo mạn,
Tánh không có bố
thí,
Không cho ai vật gì,
Ðây là ăn đồ
thối,
Ăn thịt không phải thối,
245. Phẫn nộ và kiêu
mạn,
Cứng đầu và chống
đối
Man trá và tật đố,
Nói vô ích, huênh
hoang,
Kiêu mạn và quá
mạn,
Thân mật với kẻ ác,
Ðây là ăn đồ
thối,
Ăn thịt không phải thối,
246. Ác giói, nợ không
trả,
Làm người điểm chỉ
viên,
Làm những nghề dối trá,
Ở đây, kẻ giả vờ,
Ở đây người bần
tiện,
Những người làm ác
nghiệp,
Ðây là ăn đồ
thối,
Ăn thịt không phải thối.
247. Ở đời đối hữu
tình,
Người không biết kiềm chế,
Lấy cướp sở hữu
người,
Chú tâm làm hại
người,
Ác giới và tàn
nhẫn
Ác ngữ, thiếu lễ độ,
Ðây là ăn đồ
thối,
Ăn thịt không phải thối,
248. Hạng tham ô, thù nghịch,
Tìm cách để giết hại,
Luôn luôn hướng về
ác,
Sau chết sanh tối tăm,
Chúng sanh ấy rơi vào,
Ðịa ngục đầu
xuống trước.
Ðây là ăn đồ
thối,
Ăn thịt không phải thối,
249. Không phải do cá thịt,
Cùng các loại nhịn
ăn,
Không phải do lõa thể,
Ðầu trọc và bện tóc,
Không do tro trét mình,
Mặc da thú khô cứng,
Không phải do săn sóc,
Nuôi dưỡng lửa tế tự,
Không do nhiều khổ hạnh,
Ðể được chứng
bất tử,
Không bùa chú tế tự,
Các tế đàn thời
tiết,
Làm con người trong sạch,
Nếu nghi hoặc chưa đoạn.
250. Do sống hộ trì căn,
Với các căn nhiếp phục,
Vững trú trên Chánh
pháp,
Thích chân trực, hiền
hòa,
Vượt khỏi các tham
ái,
Ðoạn tận mọi khổ đâu,
Bậc trí không nhiễm
dính,
Ðiều được thấy,
được nghe.
251. Nhiều lần, Thế Tôn thuyết,
Ý nghĩa lời dạy này,
Bậc bác học kệ chú,
Thâm hiểu ý nghĩa ấy.
Bậc ẩn sĩ nói lên,
Với những kệ tuyệt diệu,
Bậc không ăn đồ
thối,
Ðộc lập, khó hướng
dẫn.
252. Nghe xong những lời dạy,
Lời Thế Tôn khéo nói,
Chấm dứt ăn đồ
thối,
Ðoạn tận mọi khổ đau,
Vị ấy đảnh lễ
Phật,
Với tâm ý nhún nhường,
Thỉnh cầu được
cho pháp,
Xuất gia tại nơi đây.
(III) Kinh Xấu Hổ (Sn 45)
253. Ai mở miệng tuyên
bố:
Tôi là bạn của anh,
Sở hành vượt xấu
hổ,
Lại khinh chán bạn mình,
Không chịu khó gắng
làm,
Công việc có thể làm.
Cần biết người như
vậy,
Không phải bạn của
tôi.
254. Ai đối với bạn
hữu,
Chỉ làm với lời nói,
Lời nói đẹp, khả
ái,
Nhưng chỉ lời nói
suông,
Bậc trí biết người
ấy,
Người chỉ nói, không
làm.
255. Người luôn luôn
chú ý,
Nghi ngờ sự thiếu sót,
Tìm kiếm các nhược
điểm,
Người ấy không phải
bạn,
Với ai có thể nắm,
Như con nằm trên ngực,
Người ấy mới thật
bạn,
Không bị ai chia ly.
256. Ai mong lợi ích quả,
Tu tập các sự kiện,
Ðem lại sự hân
hoan,
Tu tập sự an lạc,
Ðem lại thưởng, tán
thán,
Gánh trách nhiệm làm
người.
257. Uống xong vị viễn
ly,
Uống xong vị an tịnh,
Không sợ hãi, không
ác,
Hưởng vị ngọt, pháp
hỷ.
(IV) Kinh Ðiềm Lành Lớn (Kinh
Ðại Hạnh Phúc - Mahamangala Sutta) (Sn 46)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú tại
Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông
Anàthapindika. Rồi một Thiên nhân,
khi đêm đã gần mãn, với dung
sắc thù thắng chói sáng toàn vùng
Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến
đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng
một bên. Ðứng một bên, vị Thiên
nhân ấy với bài kệ bạch Thế Tôn:
Thiên nhân:
258. Nhiều Thiên nhân
và Người,
Suy nghĩ đến điềm lành,
Mong ước và đợi
chờ,
Một nếp sống an toàn,
Xin Ngài hãy nói lên
Về điềm lành tối thượng.
Thế Tôn:
259. Không thân cận
kẻ ngu,
Nhưng gần gũi bậc
trí,
Ðảnh lễ người
đáng lễ
Là điềm lành tối
thượng.
260. Ở trú xứ thích hợp,
Công đức trước
đã làm,
Chân chánh hướng tụ
tâm,
Là điều lành tối
thượng.
261. Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,
Khéo huấn luyện học tập,
Nói những lời khéo
nói
Là điềm lành tối
thượng.
262. Hiếu dưỡng mẹ và
cha,
Nuôi dưỡng vợ và
con,
Làm nghề không rắc rối
Là điềm lành tối
thượng.
263. Bố thí, hành đúng
pháp,
Săn sóc các bà
con,
Làm nghiệp không lỗi lầm
Là điềm lành tối
thượng.
264. Chấm dứt, từ bỏ
ác,
Chế ngự đam mê rượu,
Trong pháp, không phóng
dật
Là điềm lành tối
thượng.
265. Kính lễ và hạ
mình,
Biết đủ và biết ơn,
Ðúng thời, nghe Chánh
pháp
Là điềm lành tối
thượng.
266. Nhẫn nhục, lời hòa
nhã,
Yết kiến các Sa-môn,
Ðúng thời, đàm
luận pháp,
Là điềm lành tối
thượng.
267. Khắc khổ và Phạm
hạnh,
Thấy được lý Thánh
đế,
Giác ngộ quả Niết bàn
Là điềm lành tối
thượng.
268. Khi xúc chạm việc đời,
Tâm không động, không
sâu,
Không uế nhiễm, an ổn
Là điềm lành tối
thượng.
269. Làm sự việc như vậy,
Không chỗ nào thất bại,
Khắp nơi được
an toàn,
Là điềm lành tối
thượng.
(V) Kinh Sùciloma (Sn 47)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú tại
Gayà, ở Tamkitamanca tại trú xứ
của Dạ-xoa Sùciloma. Lúc bấy giờ,
Dạ-xoa Khara, Dạ-xoa Sùciloma đi
qua Thế Tôn không bao xa. Dạ-xoa Khara nói
với Dạ-xoa Sùciloma: Ðây là
Sa-môn. Ðây không phải là Sa-môn.
Ðây là Sa-môn hay là Sa-môn giả
hiệu. Rồi Dạ-xoa Sùciloma đi đến
Thế Tôn, sau khi đến cọ xát thân Thế Tôn.
Thế Tôn tránh né thân của mình,
rồi Dạ-xoa Sùciloma nói với Thế
Tôn:
- Có phải Sa-môn sợ ta?
- Này Hiền giả, Ta không sợ
Ông, nhưng xúc phạm với Ông là
ác.
- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi
Ngài, nếu Ngài không trả lời cho ta, ta sẽ
làm cho tâm Ngài điên loạn, hay
bóp nát quả tim của Ngài, hay nắm
chân của Ngài, ta sẽ quăng qua bờ bên
kia sông Hằng.
- Này Hiền giả, Ta không thấy
một ai trong thế giới chư Thiên, với chư
Thiên, Ác ma và Phạm Thiên, trong quần
chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên
và loài Người, lại có thể làm
cho tâm Ta điên loạn hay bóp nát
quả tim của Ta, hay nắm chân của Ta, sẽ
quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy,
này Hiền giả, Ông cứ hỏi Ta như ý
Ông muốn.
Rồi Dạ-xoa Sùciloma với
câu kệ nói với Thế Tôn:
Sùciloma:
270. Từ những nguyên
nhân nào,
Tham và sân khởi lên?
Không ưa thích, ưa
thích,
Sợ hãi từ đâu
sanh?
Từ đâu được
sanh khởi,
Các suy tầm của ý,
Như đứa trẻ độc
ác,
Thả cho con quạ bay?
Thế Tôn:
271. Từ những nguyên
nhân này,
Tham, sân được khởi
lên,
Không ưa thích, ưa
thích,
Sợ hãi từ đây
sanh,
Từ đây được
sanh khởi,
Các suy tầm của ý,
Như đứa trẻ độc
ác,
Thả cho con quạ bay.
272. Sự hiện hữu của ngã,
Chính do thân ái sanh,
Như các loại cây
bàng,
Do thân cây bàng sanh.
Sự triền phược các
dục,
Thật rộng lớn vô cùng,
Như cây Màluvà,
Tỏa rộng lan khắp rừng.
273. Hãy nghe! Này Dạ-xoa,
Những ai được rõ
biết
Từ đâu, khiến sanh khởi,
Họ tẩy sạch nhân ấy.
Họ vượt qua dòng nước,
Chảy mạnh khổ vượt
này,
Trước chưa được
vượt qua,
Không còn có tái
sanh.
(VI) Kinh Hành Chánh Pháp
(Sn 49)
274. Pháp hạnh và
Phạm hạnh,
Ðược gọi là tối
thượng hạnh,
Nếu là người xuất
gia,
Bỏ nhà, sống không
nhà.
275. Nếu bản tánh lắm mồm,
Ưa làm hại như thú,
Ðời sống ấy ác
độc,
Làm ngã tăng bụi
trần.
276. Tỷ-kheo ưa cãi nhau,
Bị vô minh che đậy,
Không biết pháp luật dạy,
Pháp do Phật tuyên thuyết.
277. Bị vô minh lãnh đạo,
Hại bậc tu tập ngã,
Không biết đường ô
nhiễm,
Ðưa đến cõi địa
ngục.
278. Vị Tỷ-kheo như vậy,
Rơi vào chỗ đọa xứ,
Ði đầu thai chỗ này,
Ðến đầu thai chỗ khác,
Ði từ tối tăm
này,
Ðến chỗ tối tăm khác.
Vị ấy sau khi chết,
Rơi vào chỗ khổ đau.
279. Như hố phân đầy
tràn,
Sau nhiều năm chất chứa,
Cũng vậy, kẻ uế nhiễm,
Thật khó lòng gột
sạch.
280. Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy biết người như
vậy,
Hệ lụy với gia đình,
Ác dục, ác tư duy,
Ác uy nghi cử chi,
Ác sở hãnh, hành
xứ.
281. Tất cả đều đồng
tình,
Tránh xa ngưòi như
vậy,
Hãy thổi nó như bụi,
Hãy quăng nó như
rác.
282. Hãy đuổi kẻ
nói nhiều,
Kẻ Sa-môn giả hiệu,
Sau khi đuổi ác dục,
Ác uy nghi hành xứ.
283. Hãy giữ mình trong
sạch,
Chung sống kẻ trong sạch,
Sống thích đáng,
chánh niệm,
Rồi hòa hợp, sáng
suốt,
Hãy chấm dứt khổ
đau.
(VII) Kinh Pháp Bà-la-môn
(Sn 50)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông
Anàthapindika. Rồi nhiều Bà-la-môn đại
phú ở Kosala già yếu, cao niên, trưởng
lão, đã đến tuổi trưởng thượng,
đã gần mãn cuộc đời, đi
đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với
Thế Tôn những lời chào đón hỏi
thăm. Sau khi nói lên những lời chào
đón hỏi thăm thân hữu, rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, các Bà-la-môn đại phú
ấy bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama,
hiện nay còn có những Bà-la-môn nào
được thấy là theo pháp Bà-la-môn
của những Bà-la-môn thời xưa?
- Này các Bà-la-môn,
hiện nay không còn thấy các Bà-la-môn
theo pháp Bà-la-môn của các Bà-la-môn
thời xưa?
- Lành thay, Tôn giả Gotama
hãy nói cho pháp Bà-la-môn của
các Bà-la-môn thời xưa. Nếu Tôn giả
Gotama không thấy gì phiền phức.
- Vậy này các Bà-la-môn,
hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Các Bà-la-môn đại
phú ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn
nói như sau:
284. Các ẩn sĩ thời
xưa,
Chế ngự, sống khắc khổ,
Bỏ năm dục trưởng
dưỡng,
Hành lý tưởng tự
ngã.
285. Phạm chí, không gia
súc,
Không vàng bạc lúa
gạo,
Học hỏi là tài sản,
Họ che chở hộ trì,
Kho tàng tối thượng
ấy.
286. Ðồ ăn được
sửa soạn,
Ðược đặt tại
ngưỡng cửa,
Với lòng tin, họ soạn
Ðể cúng bậc Thánh
cầu.
287. Với vải mặc nhiều màu,
Với giường nằm trú
xứ,
Từ quốc độ giàu
có,
Họ đảnh lễ Phạm
chí.
288. Không bị ai xâm phạm
Là Phạm chí thời
ấy,
Không bị ai chiến hại,
Họ được pháp che chở,
Không ai ngăn chận họ,
Tại ngưỡng cửa gia
đình.
289. Từ trẻ đến bốn
tám,
Các Phạm chí thời
xưa,
Họ sống hành Phạm hạnh,
Tầm cầu minh và hạnh.
290. Các vị Bà-la-môn,
Không đến giai cấp khác,
Không mua người làm
vợ,
Chung sống trong tình thương,
Họ đi đến với nhau,
Trong niềm hoan hỷ chung.
291. Ngoại trừ thời gian
ấy,
Thời có thể thụ thai,
Là người Bà-la-môn,
Không đi đến giao cấu.
292. Họ tán thán Phạm
hạnh,
Giới, học thức, nhu hòa,
Khắc khổ và hòa nhã,
Bất hại và nhẫn
nhục.
293. Vị tối thắng trong
họ,
Là Phạm thiên, nổ
lực,
Vị ấy không giao hợp,
Cho đến trong cơn mộng.
294. Ở đời, bậc có
trí,
Học theo hạnh vị ấy,
Họ tán thán Phạm hạnh,
Giới đức và nhẫn
nhục.
295. Họ xin cơm, sàng tọa,
Vải mặc, bơ và dầu,
Thâu nhiếp thật đúng
pháp,
Họ tổ chức tế tự,
Trong lễ tế tự ấy,
Họ không giết bò cái.
296. Như mẹ và như cha,
Như anh, như bà con,
Bò là bạn tối
thượng,
Từ chúng, sanh được
vị.
297. Bò cho ăn, cho sức,
Cho dung sắc, cho lạc
Biết được lợi ích
này,
Họ không giết hại bò.
298. Họ đoan trang thân lớn,
Có dung sắc, danh xưng,
Bản tánh là nhiệt tình,
Trong hành thiện dứt ác,
Họ còn sống ở đời,
Dân chúng hưởng an
lạc.
299. Giữa họ có đảo
lộn,
Họ thấy vật nhỏ nhen.
Thấy huy hoàng nhà vua,
Thấy trang sức phụ nữ.
300. Các cỗ xe khéo làm,
Thắng với ngựa thuần
thục,
Trang hoàng với tấm thảm,
Nhiều sắc lại nhiều màu.
Các trú xứ phòng
ốc,
Khéo chia, khéo ngăn
cách.
301. Ðàn bà mập
vây quanh,
Chúng người đẹp
hầu hạ,
Bà-la-môn tham đắm,
Tài sản lớn của người.
302. Ðọc các bài kệ tụng,
Họ đến Okkàla,
Ngài được tài
sản lớn,
Ngài được lúa
gạo nhiều.
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tài sản ngài
lớn,
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tiền bạc ngài lớn.
303. Rồi vua, bậc lãnh
tụ,
Vương chủ các xa binh,
Ðược các Bà-la-môn
Nhiếp phục và cảm hóa,
Tổ chức các tế đàn,
Về ngựa và về người,
Quăng con nêm, nước
thánh,
Với các cửa then cài.
Lễ tế đàn này
xong,
Họ cho các Phạm chí,
Rất nhiều loại tài sản.
304. Bò, giường nằm,
áo mặc,
Nữ nhân trang sức đẹp,
Các cỗ xe khéo làm,
Thắng với ngựa thuần
thục,
Trang hoàng với tấm thảm,
Nhiều sắc lại nhiều màu.
305. Các trú xứ đẹp
đẽ,
Khéo chia, khéo ngăn
cách,
Ðầy các loại lúa
gạo,
Họ cho các Phạm chí,
Rất nhiều là tài sản.
306. Ở đây, được
tài sản,
Phạm chí thích cất
chứa,
Lòng dục chúng thỏa
mãn,
Khát ái càng tăng
trưởng,
Họ lại đọc kệ tụng,
Họ đến Okkàka.
307. Như nước, đất
và vàng,
Tài sản và lúa
gạo,
Cũng vậy là các
bò,
Ðối với các loài,
người.
Chúng là những vật
dụng,
Cần thiết cho hữu tình.
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tài sản ngài
lớn,
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tiền bạc ngài lớn?
308. Rồi vua, bậc lãnh
tụ,
Vương chủ các xa binh,
Ðược các Bà-la-môn,
Nhiếp phục và cảm hóa,
Tổ chức các tế đàn,
Trăm ngàn bò bị
giết
309. Không phải với bàn
chân,
Cũng không phải với
sừng.
Con bò hại một ai,
Chúng được khéo
nhiếp phục
Như con dê, con cừu,
Chúng cho nhiều ghè sữa,
Tuy vậy, vua ra lệnh,
Nắm sừng bắt lấy
chúng,
Giết chúng bằng dao gươm.
310. Rồi chư Thiên, Tổ
tiên,
Ðế Thích, A-tu-la,
Với các hàng Dạ-xoa,
Ðồng thanh cùng la lớn,
Như vậy là phi pháp,
Khi gươm giết hại bò.
311. Trước đã có
ba bệnh,
Dục, ăn không đủ
già,
Do giết hại muôn thú,
Chúng lên đến chín
tám.
312. Trượng phạt phi pháp
này,
Từ xưa truyền đến nay,
Vật vô tội bị giết,
Còn người lễ tế đàn,
Thối thất khỏi Chánh
pháp,
313. Vậy tùy pháp cổ
này,
Bị bậc trí khiển trách,
Chỗ nào lễ tế đàn,
Như vậy, được
xem thấy,
Quần chúng liền chỉ
trích,
Các vị lễ tế đàn.
314. Như vậy, pháp bị
hoại,
Hạng Thủ-đà, Phệ-xá,
Bị phân ly chia rẽ,
Các hạng Sát-đế-lî
Bị chia năm, chẻ bảy
Còn vợ khinh rẽ chồng.
315. Các Sát-ly hoàng
tộc,
Các bà con Phạm thiên,
Cùng với hạng người
khác,
Ðược gia tộc che chở,
Họ bỏ quên sanh chủng,
Họ rơi vào các dục.
Khi nghe nói vậy, các Bà-la-môn
đại phú ấy bạch Thế Tôn;
- Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng
đứng lại những gì bị quăng
ngã xuống, trình bày rõ những
gì bị che kín chỉ đường cho
kẻ bị lạc hướng, hay đem đèn
sáng vào trong bóng tối đễ những
ai có mắt có thể nhìn thấy sắc.
Cũng vậy, Pháp được Tôn giả
Gotama với nhiều pháp môn trình bày
giải thích. Chúng con xin quy y Tôn giả Gotama
quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả
Gotama nhận chúng con làm đệ tử
cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng
con trọn đời quy ngưỡng.
(VIII) Kinh Chiếc Thuyền (Sn 55)
316. Từ vị nào
một người,
Rõ biết được Chánh
pháp,
Hãy đảnh lễ vị
ấy,
Như chư Thiên, Inda,
Vị ấy được đảnh
lễ,
Tâm tư sanh hoan hỷ,
Nghe nhiều, học hỏi nhiều,
Thuyết trình chơn diệu pháp.
317. Vị sáng suốt chú
tâm,
Suy tư và quán sát
Thực hành pháp tuỳ
pháp,
Trở thành vị hiểu biết,
Thông minh và thận trọng,
Không phóng dật, vị
ấy,
Theo gương vị như vậy.
318. Ai phục vụ kẻ ngu,
Ngu si, tâm bé nhỏ,
Mục đích chưa đạt
được,
Lại ganh tị tật đố,
Chính ở đây Chánh
pháp,
Không phát triển tu tập,
Chưa vượt thoát nghi
hoặc,
Người ấy bị tử
vong.
319. Như người nhảy xuống
sông,
Dòng sông nước ngập
tràn,
Nước sông, nhớp đục
ngầu,
Dòng nước chảy nhanh
mạnh
Người ấy bị lôi
cuốn,
Theo dòng nước trôi
đi,
Làm sao nó có thể,
Giúp người khác vượt
dòng.
320. Cũng vậy, với người
nào,
Pháp không được
tu tập,
Không quán sát ý nghĩa,
Của những vị nghe nhiều,
Tự mình không rõ
biết,
Nghi hoặc chưa vượt qua,
Làm sao nó có thể,
Giúp người khác thiền
định.
321. Như người được
leo lên,
Chiếc thuyền mạnh vững chắc,
Ðược trang bị đầy
đủ,
Mái chèo và tay lái;
Người như vậy ở
đây,
Giúp nhiều người ngược
dòng,
Rõ biết những phương
tiện,
Thiện xảo và sáng suốt.
322. Như vậy, bậc sáng
suốt,
Luôn luôn tự tu tập,
Bậc nghe nhiều hiểu nhiều,
Không còn bị dao động,
Vị ấy giúp đỡ
được,
Các người khác tu
thiền,
Làm khởi lên nguyên
nhân,
Tha thiết muốn nghe pháp.
323. Do vậy, hãy thân cận,
Bậc chân nhân hiền sĩ,
Bậc sáng suốt, có
trí,
Bậc nghe nhiều học nhiều.
Sau khi biết mục đích,
Cố gắng khéo hành
trì,
Rõ biết được Chánh
pháp,
Vị ấy được an
lạc.
(IX) Kinh Thế Nào là Giới
(Sn 56)
324. Thế nào là giới
đức?
Thế nào là chánh hạnh?
Cần phải làm tăng
trưởng.
Thân khẩu ý nghiệp nào?
Ðể người chánh nhập
cuộc,
Ðạt được đích
tối thượng?
325. Kính lễ bậc trưởng
thượng,
Không ganh tị một ai,
Cần phải biết thời gian,
Ðể yết kiến Ðạo sư,
Biết được đúng
thời khắc,
Thuyết giảng bắt đầu
giảng,
Hãy cẩn thận lắng
nghe,
Lời giảng được
khéo nói.
326. Hãy đi đến đúng
thời,
Trước mặt vị Ðạo
Sư,
Từ bỏ tánh cứng
đầu,
Với thái độ khiêm
tốn,
Hãy nhớ nghĩ ác niệm,
Hãy chơn chánh hành
trì,
Mục đích và Chánh
pháp,
Chế ngự và Phạm hạnh
327. Vui thích trong Chánh Pháp
Hoan hỷ trong Chánh Pháp,
An trú trên Chánh pháp,
Biết phân tích Chánh
pháp,
Sở hành không làm
gì,
Có lời uế nhiễm pháp,
Chịu hướng dẫn lãnh
đạo,
Lời trung thực khéo nói.
328. Bỏ cười đùa,
lắm miệng,
Khóc than và sân hận,
Làm những điều man trá,
Lừa đảo, tham, kiêu
mạn,
Bồng bột và bạo
ngôn,
Cứng rắn và đam
mê,
Sống từ bỏ tất
cả,
Ly say đắm, kiên trì.
329. Thức tri được
cốt lõi,
Những lời đươc
khéo nói,
Ðươc nghe khéo thức
tri,
Cốt lõi của thiền định,
Với con người hấp tấp,
Lại phóng dật buông
lung,
Trí tuệ, đều được
nghe,
Không có thể tăng trưởng.
330. An vui thích Chánh pháp,
Do bậc Thánh tuyên thuyết,
Họ trở thành vô thượng,
Về lời ý và nghiệp,
Họ an tịnh nhu hòa,
An trú trên thiền định,
Chứng đạt được
cốt lõi,
Pháp được nghe, trí
tuệ.
(X) Kinh Ðứng Dậy (Sn 57)
331. Hãy đứng
dậy, ngồi dậy,
Với người mộng ích
gì?
Kẻ bệnh ngủ làm gì?
Khi mũi tên phiền lụy.
332. Hãy đứng dậy,
ngồi dậy,
Hãy kiên trì học tập,
Ðạt cho được
an tịnh,
Ðừng để cho thần
chết,
Biết Ông là phóng dật,
Mê hoặc, chinh phục Ông.
333. Chư Thiên và loài
Người,
Sống y chỉ tầm cầu,
Hãy vượt ái dục
này,
Chớ để thời khắc qua,
Khi thời khắc đã
qua,
Bị sầu khổ địa
ngụ.
334. Phóng dật là bụi
nhơ,
Bụi do phóng dật khởi,
Với minh, không phóng dật,
Tự mình rút mũi
tên
(XI) Kinh Ràhula (Sn 58)
Thế Tôn:
335. Thường chung sống
người hiền,
Thầy có khinh miệt không?
Người cầm đuốc
loài Người,
Ðược thầy tôn
trọng không?
Ràhula:
336. Thường chung sống
người hiền,
Con không có khinh miệt.
Người cầm đuốc
loài Người,
Thường được con
tôn trọng.
Thế Tôn:
337. Bỏ năm dục
trưởng dưỡng,
Khả ái và đẹp
ý,
Với lòng tin xuất gia,
Hãy trở thành con người,
Làm chấm dứt khổ
đau.
338. Thân cận với bạn
lành,
Sống trú xứ xa vắng,
Viễn ly không ồn ào,
Hãy tiết độ ăn uống
339. Y áo, đồ khất
thực,
Vật dụng và sàng
tọa,
Chớ có tham ái chúng,
Chớ trở lui đời này.
330. Chế ngự trong giới bổn,
Phòng hộ trong năm căn,
Hãy tu tập niệm thân,
Sống với nhiều nhàm chán.
341. Hãy từ bỏ tịnh
tướng,
Hệ lụy với tham ái,
Tu tập tâm bất tịnh,
Nhất tâm, khéo định
tính.
342. Hãy tu tập vô tướng,
Bỏ đi, mạn tùy
miên,
Do nhiếp phục kiêu mạn,
Người sẽ sống an tịnh.
Như vậy, Thế Tôn thường
giáo giới Tôn giả Ràhula với
những bài kệ này.
(XII) Kinh Vangìsa (Sn 59)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế tôn sống
ờ Alavi, tại điện Aggàlava. Lúc
bấy giờ, giáo sư thọ sư của Tôn
giả Vangìsa, tên là Nigrodhakappa
tại điện Aggalava, mệnh chung không bao lâu.
Rồi Tôn giả Vangìsa, trong khi thiền định
độc cư, tư tưởng sau đây được
khởi lên: "Không biết bậc giáo thọ sư
của ta có hoàn toàn nhập Niết-bàn
hay không hoàn toàn nhập Niết-bàn?". Rồi
Tôn giả Vangìsa vào buổi chiều, từ
thiền tịnh đứng dậy, đi đến Thế
Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn,
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Vangìsa bạch
Thế Tôn:
- Ở đây, bạch Thế Tôn,
trong khi Thiền tịnh độc cư, con khởi lên
tư tưởng như sau: "Không biết bậc giáo
thọ sư của con có hoàn toàn nhập
Niết Bàn hay khônng, hoàn toàn nhập Niết-bàn?"
Rồi Tôn giả Vangìsa,
từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp
y vào một bên vai, chấp tay vái chào
Thế Tôn và với bài kệ, nói lên với
Thế Tôn:
Vangìsa:
343. Con hỏi bậc Ðạo
Sư,
Bậc trí tuệ tối thượng,
Ai chặt đứt nghi hoặc,
Ngay trong đời hiện tại?
Tại Aggàlava,
Tỷ-kheo đã mệnh chung,
Có danh vọng danh xưng,
Nhập Niết bàn tịch tịnh.
344. Nigrodhakappa,
Chính là tên vị
ấy,
Chính Thế Tôn đặt
tên,
Cho vị Phạm chí ấy,
Vị ấy đảnh lễ
Ngài,
Sống tầm cầu giải
thoát,
Tinh cần và tinh tấn,
Kiên cố thấy Chánh
Pháp.
345. Bạch Thích Ca, chúng
con
Ðệ tử Ngài, tất
cả
Chúng con đều muốn biết
Bậc Pháp nhãn biến tri,
An trú tại chúng con,
Sẵn sàng để được
nghe,
Ngài Ðạo sư chúng
con,
Ngài là bậc Vô
thượng.
346. Hãy đoạn nghi chúng
con,
Cho con biết vị ấy,
Ðã được tịch
tịnh chưa
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Hãy nói giữa chúng
con,
Bậc có mặt cùng khắp,
Như Thiên chủ Ðế
Thích,
Lãnh đạo ngàn
chư Thiên.
347. Phàm những cột gút
gì,
Ở đây, đường
si ám,
Dự phần với vô trí,
Trú xứ cho nghi hoặc;
Gặp được đức
Như Lai,
Họ đều không còn nữa.
Mắt này mắt tối
thắng,
Giữa cặp mắt loài
Người.
348. Nếu không có người
nào,
Ðoạn trừ các phiền
não,
Như gió thổi tiêu tan
Các tầng mây dưới
thấp,
Màn đen tức bao trùm,
Tất cả toàn thế giới,
Những bậc có hào
quang,
Không có thể chói sáng.
349. Bậc trí là những
vị
Tạo ra những ánh sáng,
Con xem Ngài như vậy.
Ôi! Bậc trí sáng
suốt,
Chúng con đều cùng đến,
Bậc tu hành thiền quán,
Giữa hội chúng, chúng
con,
Hãy nói về Kappa!
350. Hãy gấp phát tiếng
lên,
Tiếng âm thanh vi diệu,
Như con chim thiên nga,
Giương cổ lên để
hót,
Phát âm từng tiếng một,
Với giọng khéo ngân nga,
Tất cả bạn chúng
con,
Trực tâm nghe lời Ngài.
351. Vị đoạn tận
sanh tử,
Không còn chút dư
tàn,
Vị tẩy sạch phiền não,
Con cầu Ngài thuyết pháp,
Kẻ phàm phu không thể
Làm theo điều nó muốn.
Bậc Như Lai làm được,
Ðiều được ước
định làm,
352. Câu trả lời của
Ngài
Thật đầy đủ
trọn vẹn,
Ðược chơn chánh
nắm giữ,
Bậc chánh trực trí
tuệ.
Ðây chắp tay cuối
cùng,
Con khéo vái chào Ngài,
Chớ làm con si ám,
Bậc trí tuệ tối cao.
353. Sau khi đã được
biết
Thánh pháp thượng
và hạ,
Chớ làm con si ám,
Bậc tinh tấn tối cao,
Như vào giữa mùa
hè,
Nóng bức khát khao nước,
Chúng con ngóng trông
lời,
Hãy mua sự hiểu biết.
354. Kappa, sống Phạm hạnh,
Nếp sống có mục đích,
Phải chăng sống như
vậy
Là sống không uổng
phí?
Vị ấy chứng tịch
tịnh,
Hay còn dư tàn lại,
Ðược giải thoát
thế nào,
Hãy nói chúng con nghe!
Thế Tôn:
355. Vị ấy trên
danh sắc,
Ðã đoạn tận
tham ái,
Thế Tôn ở nơi đây
Ðã trả lời như
vậy,
Vượt qua được già
chết,
Không còn có dư
tàn,
Thế Tôn nói như vậy,
Bậc tối thắng thứ
năm.
Vangìsa:
356. Nghe vậy, con tịnh
tín,
Với lời nói của Ngài,
Bậc ẩn sĩ thứ bảy?
Và lời hỏi của con.
Không phải là vô
ích!
Và vị Bà-la-môn
Không có lừa dối
con.
357. Nói gì thời làm
vậy,
Thật xứng đệ tử
Phật,
Chặt đứt lưới
rộng chắc
Của thần chết xảo quyệt.
358. Ôi! Thế Tôn, Kappa
Thấy căn nguyên chấp
thủ,
Thật sự đã vượt
qua
Thế lực của Ma vương,
Thế lực thật khó vượt.
(XIII) Kinh Chánh xuất gia (Sn
63)
Người hỏi:
359. Tôi hỏi bậc
ẩn sĩ,
Có trí tuệ rộng lớn,
Ðã vượt qua bờ
kia,
Tịch tịnh, tự an trú.
Làm sao một Tỷ-kheo,
Bỏ nhà, bỏ các
dục,
Lại có thể chơn chánh
Du hành ở trên đời?
Thế Tôn:
360. Ai nhổ lên điềm
lành,
Như vậy, Thế Tôn đáp
Các sao băng mộng mị,
Và các tướng lành
dữ,
Vị ấy đoạn trừ
được,
Các lỗi lầm điềm lành;
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
361. Tỷ-kheo nhiếp phục tham,
Ðối với các dục
vọng,
Tại thiên giới, nhân
giới,
Vượt hữu, chứng tri
pháp;
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
362. Tỷ kheo bỏ hai lưỡi,
Bỏ phẩn nộ, xan tham,
Với tùy thuộc chống
đối,
Ðoạn tận thật hoàn
toàn,
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
363. Sau khi đã từ bỏ,
Cả ái và phi ái,
Không chấp thủ một
ai,
Không y chỉ chỗ nào,
Giải thoát được
hoàn toàn
Các kiết sử trói buộc,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
364. Ai không tìm lõi
cây,
Ðối với các sanh
y,
Có thể nhiếp phục tham,
Ðối với các chấp
thủ,
Vị ấy không y chỉ,
Không để ai dắt dẫn,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
365. Với lời và với
ý,
Và với cả nghiệp làm,
Không chống đối
một ai,
Chơn chánh biết diệu pháp,
Thường cố gắng hướng
đến,
Ðường Niết bàn tịch
tịnh,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
366. Tỷ-kheo không tự cao,
Khi người đảnh lễ
mình,
Dầu có bị nhiếc mắng,
Không khởi tâm tức
tối,
Ðược đồ ăn
của người,
Không có sự tham đắm,
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
367. Tỷ-kheo sau khi đoạn,
Tham dục và sanh hửu,
Từ bỏ, không làm
hại,
Không trói buộc một
ai,
Vị ấy vượt nghi hoặc,
Ðã rút ra mũi
tên,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
368. Tỷ-kheo sau khi biết,
Ðiều thích đáng
cho mình,
Không làm hại một
ai,
Có mặt ở trên đời,
Sau khi đã biết pháp
Như thật, như thế nào,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
369. Với ai, các tuỳ miên,
Không còn có tồn
tại,
Và cội gốc bất
thiện,
Ðược nhổ lên tận
trừ,
Vị ấy không tham dục,
Không có hy cầu gì.
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
370. Ai đoạn tận lậu
hoặc,
Ðoạn trừ cả kiêu
mạn,
Mọi con đường tham dục,
Ðược chế ngự nhiếp
phục,
Ðược nhiếp phục tịch
tịnh,
Tự ngã được
an lập,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
371. Có lòng tin, nghe pháp,
Thấy được quyết định
tánh,
Bậc hiền không phe phái,
Giữa rất nhiều phe phái,
Có thể nhiếp phục được,
Tham, sân và hận thù,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
372. Thanh tịnh và chiến thắng,
Kéo lên màn che kín,
Tự tại trong các pháp,
Ðến bờ kia, bất động,
Ðoạn diệt các sở
hành,
Thiện xảo trong chánh trí,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
373. Trong những thời quá
khứ,
Trong những thời vị lai,
Vượt qua các chủ thuyết,
Trí tuệ thật thanh tịnh,
Với tất cả mọi xứ,
Ðược hoàn toàn
giải thoát.
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
374. Rõ biết được Pháp
cú,
Chứng tri được Chánh
pháp,
Thấy được sự
mở rộng,
Ðoạn tận các lậu
hoặc,
Ðối tất cả sanh
y,
Ðược trừ diệt hoàn
toàn,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
Người hỏi:
375. Bạch Thế Tôn, chắc
chắn,
Thực sự là như
vậy,
Tỷ-kheo được chế ngự,
Ðã an trú như vậy,
Ðã nhiếp phục hoàn
toàn,
Tất cả các kiết sử,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
(XIV) Kinh Dhammika (Sn 66)
Như vầy tôi nghe:
Một thời Thế Tôn trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn
ông Anàthapindika. Rồi nam cư sĩ Dhammika
đi đến Thế Tôn với năm trăm nam cư
sĩ, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một
bên, nam cư sĩ Dhammika nói lên những
bài kệ với Thế Tôn:
Dhammika:
376. Kính thưa Gotama,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Con xin kính hỏi Ngài,
Vấn đề đặc biệt
này:
Với vị đệ tử Ngài,
Làm thế nào là thiện?
Nếu là vị xuất gia,
Bỏ nhà, sống không
nhà,
Hay là vị có nhà,
Sống đời nam cư sĩ?
377. Ngài rõ biết đường
đi,
Cùng mục đích
tối hậu,
Của Thế Tôn đời này,
Và thế giới chư Thiên.
Không ai so sánh Ngài,
Bậc thấy nghĩa thù
diệu,
Chính Ngài được
tôn xưng,
Là đức Phật thù
thắng.
378. Ngài biết tất cả trí,
Ngài trình bày Chánh
pháp,
Vì lòng thương, từ
mẫn,
Ðối với mọi chúng
sanh,
Ngài mở rộng bức
màn,
Bậc có mắt mọi nơi
Không cấu uế, thanh tịnh,
Ngài chói toàn thế giới.
379. Vị vua loài Nàgà
Tên Eràvano,
Ðã đến gần bên
Ngài,
Ðược nghe: Ngài chiến
thắng.
Vị ấy tìm đến
Ngài,
Ðể nghe lời khuyên nhủ,
Sau khi nghe, thích thú
Nói lên lời: Lành
thay!.
380. Vua Vessavana,
Kuvera đến Ngài,
Tìm hiểu hỏi han Ngài
Về vấn đề diệu pháp,
Ðược hỏi, ôi
bậc trí,
Hãy nói lên cho vua!
Sau khi nghe, vị ấy,
Cũng thích thú, ưa
thích.
381. Các bậc ngoại đạo
này
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Các tà mạng ngoại
đạo,
Hay các Ni-kiền Tử,
Tất cả không vượt
qua,
Hơn thắng trí của
Ngài,
Như người đang đứng
lại,
Không thắng kẻ đi
mau.
382. Các Bà-la-môn này,
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Có những bậc Phạm-chí,
Ðã đến tuổi trưởng
thượng,
Tất cả đều trói
buộc,
Bởi tư tưởng của
Ngài,
Kể cả những hạng người,
Tự phụ nói khoe khoang.
383. Pháp này là tế nhị,
Ðem lại nguồn an lạc,
Ðã được bậc
Thế Tôn
Khéo nói, khéo thuyết
giảng,
Tất cả mọi hạng người,
Ðều thích thú ưa
nghe,
Ðược hỏi, hãy
nói lên,
Ôi đức Phật tối
thượng.
384. Các vị Tỷ-kheo này,
Ðang ngồi đây
tất cả,
Kể cả nam cư sĩ,
Tất cả đều chờ nghe,
Hãy để họ nghe pháp,
Bậc Vô uế Giác ngộ,
Như chư Thiên nghe lời,
Vàsava khéo nói!
Thế Tôn:
385. Tỷ-kheo, hãy nghe Ta,
Ta khiến các Thầy nghe,
Pháp đoạn trừ
điều ác,
Tất cả hãy trọ trì,
Với ai thấy ý nghĩa,
Nghĩ ngợi có suy tư,
Hãy sống theo chánh
hạnh,
Thích hợp với xuất
gia.
386. Tỷ-kheo chớ ra ngoài,
Trong thời gian phi thời,
Hãy vào làng khất
thực,
Ðúng thời, thì
hãy đi,
Ai đi đứng phi thời,
Bị bẩy sập trói buộc.
Do vậy các đức
Phật,
Không có đi phi thời.
387. Các sắc và các
tiếng,
Các vị, hương và
xúc,
Chính những loại pháp
ấy
Làm mê hoặc chúng
sanh.
Hãy nhiếp phục, lòng
dục,
Ðối với các pháp
ấy,
Hãy vào cho đúng
thời,
Ðể dùng buổi ăn sáng.
388. Tỷ-kheo được đúng
thời,
Các đồ ăn khất
thực,
Hãy đi về một mình,
Ngồi tại chỗ an tịnh,
Suy tư hướng nội tâm,
Ý không chạy ra ngoài,
Làm cho thoát ra khỏi,
Mọi chấp thủ tự ngã.
389. Nếu vị ấy có nói,
Với một vị đệ tử,
Hay nói với một vị
Một Tỷ-kheo nào khác,
Hãy nói cho vị ấy,
Sự thù diệu Chánh pháp,
Không có nói hai lưỡi,
Không bài xích một
ai,
390. Nhưng có những hạng
người,
Dùng khẩu chiến bằng lời,
Những hạng người tuệ
nhỏ,
Chúng ta không tán thán,
Triền phược trói buộc
họ,
Từ chỗ này chỗ kia,
Ở đây họ dẫn tâm,
Ðưa tâm đi quá
xa.
391. Ðồ khất thực,
tinh xá,
Cùng sàng tọa trú xứ,
Nước để trừ bụi
nhớp,
Y áo Tăng-già-lê,
Sau khi nghe Chánh pháp,
Do Thiện Thệ thuyết giảng,
Bậc đệ tử thắng tuệ,
Quán sát, hãy dùng
chúng.
392. Do vậy đồ khất
thực,
Sàng tọa và trú xứ,
Nước để trừ bụi
nhớp,
Y áo Tăng-già-lê,
Ðối với những pháp
ấy,
Ðừng để cho dính
nhiễm.
Tỷ-kheo như giọt nước,
Không dính trên lá
sen.
393. Trách nhiệm của gia chủ,
Ta cũng nói các Ông,
Làm theo đúng như
vậy,
Ðệ tử là tốt lành.
Pháp Tỷ-kheo toàn diện,
Khó thành tựu đầy
đủ,
Vì là người gia chủ,
Phải làm nhiều việc đời.
394. Chớ giết loài hữu tình,
Chớ bảo người giết hại,
Hay chấp nhận kẻ khác,
Giết hại các người
khác,
Ðối với mọi sanh loại,
Từ bỏ các hình
phạt,
Ðối với kẻ mạnh
bạo,
Như đối kẻ run
sợ.
385. Rồi hãy quyết từ
bỏ,
Lấy của không được
cho,
Ðệ tử khéo sáng
suốt,
Vật gì, vật của
ai,
Chớ khiến người khác
lấy,
Chớ chấp nhận lấy
trộm.
Hãy từ bỏ, chấm
dứt,
Mọi của cải không cho.
396. Hãy từ bỏ, tránh
xa
Ðời sống phi Phạm
hạnh,
Như bậc trí tránh
né,
Lửa cháy hố than hừng.
Nếu tự mình bất lực,
Không thể sống Phạm hạnh,
Thời chớ có xâm phạm
Vợ của các người
khác.
397. Khi đi đến hội chúng,
Hay đi đến đoàn
chúng,
Hay một mình một người,
Chớ nói lời nói láo,
Chớ khiến người nói
láo,
Chớ chấp nhận nói
láo,
Tất cả điều không
thật,
Hãy tránh xa từ bỏ.
398. Chớ sống theo nếp sống,
Uống rượu và say rượu,
Với vị là cư sĩ,
Ðã chấp nhận pháp
này,
Chớ khiến nguời uống rượu,
Chớ chấp thuận uống
rượu
Sau khi biết uống rượu,
Cuối đường là
điên cuồng.
399. Chỉ kẻ ngu say rượu,
Mới làm các điều
ác,
Và khiến các người
khác,
Sống buông lung phóng
dật,
Hãy từ bỏ, tránh
xa
Xứ phi công đức
này,
Khiến điên cuồng si mê,
Làm kẻ ngu thỏa thích.
400. Chớ có giết hữu tình,
Chớ lấy của không
cho,
Chớ nói láo không
thật,
Chớ uống rượu say mê,
Từ bỏ phi Phạm hạnh,
Không hành trì dâm
dục
Không có ăn ban đêm,
Không ăn lúc phi thời.
401. Chớ mang các vòng
hoa,
Chớ dùng các nước
thơm,
Hãy nằm trên mặt đất,
Trên thảm chiếu trải dài,
Tám hạnh này được
gọi
Là hạnh ngày trai giới,
Do đức Phật giảng
dạy,
Ðể chấm dứt khổ
đau.
402. Từ nay ngày trai giới,
Chia nửa tháng hai phần,
Ngày mười bốn, mười
lăm,
Hay ngày tám mỗi tháng,
Với tâm ý hoan hỷ,
Thực hành thần thông
pháp
Gồm có đủ tám
phần,
Khéo đầy đủ
vẹn toàn.
403. Do vậy, vào buổi sáng,
Thực hành ngày trai
giới,
Bậc có trí sáng
suốt,
Với tâm tư tín thành,
Với tâm ý tùy hỷ,
Cúng dường Tỷ-kheo Tăng,
Với món ăn đồ
uống,
Hợp với khả năng mình.
404. Hãy nuôi dưỡng
mẹ cha,
Hợp pháp và đúng
pháp,
Và cũng đúng với
pháp,
Hãy làm nghề buôn bán,
Người gia chủ như vậy,
Sở hành không phóng
dật,
Ðược sanh làm Thiên
nhân,
Tên là: "Tự chói
sáng".
[Giới thiệu][1][2][3][4][5][
^ ]
|