中 國 佛 教
Theo truyền thuyết thì đạo Phật vào Trung Quốc khoảng thế kỉ thứ 2 sau Công nguyên. Mới đầu nhiều người nghĩ rằng, đạo Phật là một tông phái của đạo Lão (Lão Tử). Sự hiểu lầm này bắt nguồn từ quan điểm chung của hai tôn giáo này; cả hai đều hướng đến giải thoát. Có người cho rằng, mới đầu người Trung Quốc không hiểu đạo Phật vì ngôn ngữ chữ Hán thời đó không tiếp cận được với các khái niệm hoàn toàn trừu tượng của Phật giáo và khi dịch kinh sách Phật giáo, người ta đành dùng ngôn đạo Lão. Vì vậy về sau, khi đạo Phật đã phổ biến, công các dịch giả rất lớn và tên tuổi của họ còn lưu truyền đến ngày nay. Khoảng thế kỉ thứ 3, các nhà dịch kinh bắt đầu dịch từ Phạn ngữ (sanskrit) ra tiếng Hán, mà những đại diện kiệt xuất là An Thế Cao (安 世 高), người chuyên dịch các kinh Tiểu thừa, và Chi Khiêm (支 謙), người chuyên dịch các tác phẩm Ðại thừa.
Năm 355, Tăng-già được thành lập. Kể từ thế kỉ thứ 4, nhiều trường phái Bát-nhã Ba-la-mật-đa ra đời với Cao tăng Chi Ðộn (支 遁; Chi Ðạo Lâm) là nhân vật quan trọng nhất. Năm 399, Pháp Hiển đi Ấn Ðộ và sau đó một số Cao tăng khác như Huyền Trang cũng lên đường đi Ấn Ðộ. Trong thế kỉ thứ 5, thứ 6, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và được sự ủng hộ của triều đình. Nhờ vậy trong thời gian này, nhiều chùa chiền được xây cất, nhiều tác phẩm ra đời. Vào năm 466 và 574-577 có hai lần Phật giáo bị bức hại nhưng vẫn phát triển mạnh. Trong thời kì này, hai vị có công lớn nhất trong việc dịch kinh điển là Cưu-ma-la-thập (鳩 摩 羅 什; s: kumārajīva) và Chân Ðế (真 諦; s: paramārtha). Với trình độ văn chương rất cao, hai vị này đã làm cho hầu hết các kinh Tiểu thừa và Ðại thừa đều có mặt tại Trung Quốc. Ðóng vai trò quan trọng trong Phật giáo Trung Quốc là các kinh Nhập Lăng-già (入 楞 伽 經; s: laṅkāvatārasūtra), Ðại bát-niết-bàn (大 般 涅 槃 經; s: mahāparinirvāṇa-sūtra) và Thành thật luận ( 成 實 論; s: satyasiddhi). Từ đó, các tông phái như Tam luận tông (三 論 宗), Thành thật tông (成 實 宗) và Niết-bàn tông (涅 槃 宗) ra đời.
Giữa thế kỉ thứ 6 và thứ 10, Phật giáo Trung Quốc phát triển rực rỡ. Các tông Hoa nghiêm (華 嚴), Thiên Thai (天 台), Thiền (禪), Tịnh độ (淨 土), Pháp tướng (法 相) ra đời, trong đó người ta nhắc nhở đến các vị Cao tăng như Huyền Trang Tam Tạng (玄 奘), Trí Khải (智 顗), Ðế Tâm Ðỗ Thuận (帝 心 杜 順). Với sự hiện diện của Huệ Năng (慧 能) và các môn đệ kế thừa, Thiền tông phất lên như một ngọn lửa sáng rực đời Ðường.
Với thời gian, giáo hội Phật giáo – nhờ không bị đánh thuế – trở thành một tiềm lực kinh tế và có những điểm mâu thuẫn với triều đình. Nhiều nông dân cúng dường đất cho nhà chùa rồi thuê lại đất đó để trốn thuế. Năm 845, Phật giáo bị bức hại, giáo hội bị triệt hạ, tăng ni bị buộc phải hồn tục. Từ thời điểm đó, Phật giáo Trung Quốc không bao giờ trở lại được thời đại huy hoàng như trước, nhưng vẫn để lại những dấu ấn quan trọng trong nền văn hóa nước này.
Trong đời nhà Tống (thế kỉ 10-13), Phật giáo hòa nhập với Khổng giáo và Lão giáo thành một nền văn hóa, trong các tông phái chỉ còn Thiền và Tịnh độ là quan trọng. Dưới thời nhà Minh (thế kỉ 14-17), có một khuynh hướng hợp nhất giữa Thiền và Tịnh độ (禪 淨 合 一; Thiền Tịnh hợp nhất) và gây được ảnh hưởng đáng kể (Vân Thê Châu Hoằng).
Giữa thế kỉ thứ 17 và 20, Phật giáo Tây Tạng bắt đầu gây ảnh hưởng tại Trung Quốc. Qua thế kỉ 20, Phật giáo Trung Quốc lại bị bức hại, nhất là trong thời kì cách mạng văn hoá (1966-1976).