T: nāro chodrug [nāro chos-drug]; cũng được gọi là Na-lạc du-già tốc đạo; »Sáu giáo pháp của Na-rô-pa (t: nāropa);
một loạt giáo pháp Tây Tạng thuộc Kim cương thừa, xuất phát từ các vị Ma-ha Tất-đạt (s: mahāsiddha) do Ðại sư Na-rô-pa truyền dạy. Na-rô-pa lại được Tai-lô-pa (tilopa) chân truyền. Na-rô-pa truyền lại cho Mã-nhĩ-ba (t: marpa), người đưa giáo pháp này qua Tây tạng trong thế kỉ 11. Song song với Ðại thủ ấn (s: mahāmudrā), Na-rô lục pháp là phương pháp thiền định quan trọng nhất của trường phái Ca-nhĩ-cư (t: kagyupa).
Sáu giáo pháp này gồm có:
1. Tạo Nội nhiệt (t: tumo; s: caṇḍa, caṇḍalī);
2. Quán huyễn thân (t: gyulu [sGyu lus]; s: mayākāyā, mahādeha), thấy thân này là giả tạo. Trong Kim cương thừa, huyễn thân này là một thân thanh nhẹ, cao hơn thân do Ngũ uẩn tạo thành, nhưng luôn luôn hiện diện trong đó. Quán huyễn thân cũng được hiểu là một phép tu Tan-tra nhằm thanh lọc thân thể thông thường để đạt Phật quả;
3. Quán giấc mộng (t: milam [rMi lam]; s: svapna-darśana). Theo cách tu này, giấc mộng cũng là một phương tiện để phát triển tâm thức. Một mặt, hành giả chủ động tạo tác giấc mộng của mình, mặt khác hành giả xem cuộc sống bình thường cũng chỉ là một giấc mộng;
4. Quán Cực quang (t: osel ['od-gsal]; s: ābhāsvara). Cực quang ở đây có nhiều nghĩa: 1. Ánh sáng của tâm thức sáng rực mà hành giả cần quán thấy bên cạnh tính Không (s: śūnyatā). Phép quán này là mục đích quan trọng nhất của giáo pháp Tan-tra (Ðại thủ ấn; s: mahāmudrā; Ðại cứu kính), 2. Phép quán, trong đó ánh sáng vô lượng của tâm thức tự chói rực, »như ngọn đèn vừa tự chiếu sáng mình vừa chiếu sáng các vật chung quanh« (theo Giuseppe Tucci);
5. Quán thân Trung hữu (t: bardo; s: antarābhava);
6. Chuyển thức (t: phowa; s: saṃkrānti); là phép tu trong lúc Cận tử, chuyển hóa tâm thức mình vào một Tịnh độ, thí dụ cõi của Phật A-di-đà. Hành giả Tây Tạng theo phép tu này đã tập luyện và chuẩn bị trong lúc còn sống, phần lớn họ đọc tụng một số thần chú và thiền theo các Nghi quĩ (s: sādhana). Tại phương Tây phép tu này được giáo phái Ca-nhĩ-cư (t: kagyupa) phổ biến.
Các phép tu này có nhiều điểm giống với các phép được mô tả trong Tử thư (t: bardo thodol). Người ta còn nhắc rằng Mật-lặc Nhật-ba (t: milarepa) là người rất giỏi phép sử dụng nội nhiệt.
Na-rô lục pháp này xuất phát từ nhiều Tan-tra khác nhau và được các vị Ðạo sư khác nhau truyền lại. Theo một tác phẩm của Tai-lô-pa thì phép quán huyễn thân và cực quang là do Long Thụ (Long Thụ theo truyền thống Ma-ha Tất-đạt) khởi truyền. Phép nội nhiệt được xem là từ Cha-ya-pa (caryapa), phép quán giấc mộng từ La-va-pa (lavapa), phép quán thân trung hữu và chuyển thức từ Pu-ka Tất-địa (pukasiddhi) khởi phát.
Hành giả chuyên trách tu tập sáu phép này dựa trên cách tận dụng thân xác vi tế của mình, sẽ đạt nhiều Thần thông (xem Tất-địa). Ðó là cách đưa thân vào trong các tầng phát triển của tâm và theo truyền thuyết Tây Tạng, năng lượng trong thân được vận dụng dưới ba dạng như sau: luồng năng lượng (t: lung) tác động lên các bộ phận trong thân thể, đạo quản năng lượng (tsa) là các kênh dẫn năng lượng luân lưu và cuối cùng là tiềm năng lượng (thig-le) là gốc chứa hệ thống năng lượng đó. Với các phép tu của Na-rô lục pháp mà những năng lượng này được kích động, được dùng như phương tiện đạt giác ngộ. Mục đích của tất cả những phép tu đó là thống nhất tính Không (s: śūnyatā) và các thụ tưởng của hành giả. Mật-lặc Nhật-ba có bài kệ »sáu hỉ lạc« sau đây về kinh nghiệm giác ngộ này:
Lửa của nội nhiệt tràn đầy khắp người – Hỉ lạc! Chân khí tràn ngập trong ba luồng năng lượng – Hỉ lạc! Luồng từ tâm giác ngộ chảy xuống – Hỉ lạc! Dưới gốc cũng tràn đầy năng lượng – Hỉ lạc! Ở giữa, âm dương hòa hợp – Hỉ lạc! Tràn đầy niềm vui thanh tịnh của thân – Hỉ lạc!