Từ Thụy Sĩ xa xôi, một mình lẻ loi như cánh chim lạc đàn, tôi tìm về tổ ấm nhập đoàn cùng thầy, bạn, những người quen và những người chưa quen ở Đức. Một chuyến đi xa, hành hương đến một nước xa lạ chưa hề nghĩ có ngày đặt chân tới, tôi háo hức như đứa trẻ sắp được mặc áo mới.
Chuyến bay cất cánh từ phi trường Frankfurt, Đức quốc lúc 22g40, thuận lợi cho tôi đủ nhân duyên để tham dự chuyến hành hương này.
Chuẩn bị trước cả tháng, từ quần áo, thuốc men, chương trình vé tàu xe… đâu vào đấy. Đúng ngày, tôi khăn gói lên đường. Vì mua vé máy bay tại Đức được cấp vé xe lửa đi và về miễn phí đến phi trường, tôi lo xa đi sớm cả 10 tiếng đồng hồ dù đoạn đường dài chỉ cần 6 tiếng thôi.
Trời mùa hè, nắng rực sáng lung linh như thủy tinh. Mây trắng lững lờ bay giữa bầu trời quang đãng. Ngồi trên tàu, tôi có nhiều thì giờ thả hồn mơ mộng, ngắm những đồng cỏ mượt mà tươi mát cắt tỉa gọn gàng như tấm thảm nhung xanh trải trên nền nhà Thụy Sĩ, cùng những hàng cây ăn trái để thấy nét dịu dàng hiền hòa của một xứ sở thanh bình thịnh trị. Tôi ngắm hồ Bodensee nước trong như ngọc thạch, giáp nối biên giới Áo, Đức, Thụy Sĩ; cùng ngắm những rừng thông bạt ngàn hùng vĩ của Đức quốc vươn thật cao thành khu Rừng Đen (Schwarzwald) chạy dọc theo lối đi biểu hiện sự mạnh mẽ của đất nước này.
Đi sớm đến sớm, nhưng tôi không phải đợi lâu, chỉ vài phút sau đã nhập vào với phái đoàn do Hòa thượng Phương Trượng hướng dẫn. Gặp nhau, chắp tay chào mừng, thầy trò ai nấy đều rạng rỡ.
Hãng máy bay Oman của Ả Rập. “Oman” người Đức dịch là “Oh mann”, là “than ôi” hay “trời ơi đất hỡi”, nhưng thật ra không đến nỗi tệ như cái tên của nó. Những cô tiếp viên với làn da nâu mặn mà, mắt to đen, xinh đẹp trong cách trang phục thật bắt mắt: quần tây đen, áo vest màu xanh cổ vịt chạy một đường viền đen ở những cổ tay, gấu áo. Đặc biệt nhất là chiếc mũ cũng màu xanh, cũng chạy một đường viền đen. Nhưng nổi bật và duyên dáng nhất là dải lụa cùng màu áo, treo từ chiếc mũ buông xuống tới bờ vai.
Chuyến bay kéo dài khoảng 12 tiếng đồng hồ thì đến nơi, sau khi vượt qua vùng sa mạc mênh mông của nước Oman. Từ trên cao nhìn xuống, chỉ thấy rải rác vài đám cây khô cằn với những ngôi nhà trắng mái bằng. Trái với Oman, Tích Lan lại xanh tươi với những rừng dừa bao la trải dài, phủ khuất những căn nhà ẩn núp trong những lùm cây.
Ra khỏi phi trường, chúng tôi được tiếp đón bởi bốn nhân viên chính phủ cùng Tiến sĩ Seelawansa, một tu sĩ Tích Lan kiêm Giáo sư đại học ngành tôn giáo tại thủ đô Wien, Áo quốc. Nhìn bốn nhân viên và một số Phật tử Tích Lan tại phi trường cúi mình quì rạp, chân trước chân sau, hai tay chấm nhẹ xuống đất hoặc chấm vào chân thầy Như Điển và vị tu sĩ của họ, rồi lại chấm tay lên đầu, sau đó mới chắp tay đứng dậy, tôi nhận ra sự cung kính tăng sĩ của xứ này.
Cũng như Thái Lan và Miến Điện, Tích Lan lấy Phật giáo làm quốc giáo. Trong Kinh, Luật, Luận thì Thái Lan chú trọng Kinh và tượng Phật; Miến Điện chú trọng Luật và tháp thờ Xá-lợi Phật; còn Tích Lan chú trọng Luận và cây bồ-đề. Tuy nhiên, Tích Lan có hai quốc bảo. Đó là Xá-lợi Răng Phật và cây bồ-đề do công chúa Sanghamitta, con gái vua A-dục mang từ Ấn Độ sang dâng tặng vua Tích Lan từ 2.300 năm trước.
Phật giáo đến Tích Lan từ khoảng thế kỷ 3 trước Tây lịch. Tuy Phật giáo là quốc giáo tồn tại ở Tích Lan từ hơn 2.300 năm, nhưng vẫn chịu luật vô thường biến đổi không ngừng trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm cho đến ngày nay.
Tích Lan rất nghèo, mặc dù đất đai phì nhiêu. Phong cảnh khắp nơi xanh tươi, rất nhiều dừa và những cây cao, cây đại thụ từ thôn quê ra tới thành phố. Nhờ thế, không khí trong lành, thêm sự sạch sẽ của đường phố làm giảm đi cái nóng gay gắt của xứ sở này. Tích Lan giống như một cô gái nông thôn mộc mạc hiền hòa, không có cái rộn ràng xô bồ hào nhoáng của một đất nước kỹ nghệ. Họ sống với thiên nhiên, với biển và cỏ cây.
Phái đoàn lên xe bus về một khách sạn ven biển. Dọc đường đi, có rất nhiều tượng Phật lớn nhỏ khác nhau được thiết trí rất trang nghiêm ở những ngã ba, ngã tư đường. Nhiều nhà treo cờ Phật giáo mặc dù không phải ngày lễ.
Khách sạn chúng tôi ở tọa lạc ngay bãi biển, vùng phụ cận của thủ đô Colombo. Khách sạn ba tầng lầu, các phòng đều mở ra nhìn xuống một hồ tắm nhân tạo và nhìn thẳng ra biển. Đêm ngày nghe tiếng sóng vỗ rì rào, hàng dừa xào xạc, gió lồng lộng thổi và rộn tiếng quạ kêu.
Suốt thời gian 12 ngày, chúng tôi được thăm thú những thắng tích của Tích Lan. Hầu hết là những tượng Phật lớn, có tượng cao đến 30 mét; những tháp lớn, có tháp xây dựng từ 1.500 năm về trước, và những cánh cửa gỗ đã hơn 1.000 năm tuổi; những hang động hùng vĩ đã có từ 2.000 năm, bên trong tạc hàng trăm tượng Phật lớn, nhỏ; có những hang nằm trên núi cao. Và có hang động tạc tượng lên đá, những phù-đồ (tháp rất cao) thờ xá-lợi Phật xây dựng từ những viên gạch xếp lớp rất công phu, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Ở xứ này, khắp nơi từ thôn quê cho tới thị thành, từ hang động cho đến núi cao, đâu đâu cũng đều thấy rất nhiều hình tượng Phật: Phật lớn, Phật nhỏ, Phật ngồi, Phật đứng, Phật nằm, Phật đang ngủ và Phật nhập Niết-bàn. Chúng tôi đến thăm ngôi chùa Kelaniya, nơi có chiếc chuông lớn được mệnh danh là chuông Hòa bình. Chuông này do một vị trụ trì bên Đại Hàn, tiến sĩ Byun, gởi tặng Tích Lan vào năm 1982 và đưa về chùa năm 1984.
Thầy Bhante Seelawansa có đưa chúng tôi về thăm chùa, thăm gia đình Thầy, ăn cơm do gia đình Thầy thết đãi. Có nhiều món ăn lạ, nặng mùi cà-ri nên hơi khó ăn, nhưng vườn cây nhà Thầy thì nào chuối, nào mít, nào dừa, nào ô ma... Trái ô ma đã hơn 30 năm tôi mới nhìn thấy lại, ăn rất bùi, ngon và gợi nhớ quê hương Việt Nam. Được Thầy Seelawansa cho phép, chúng tôi tha hồ, thích trái nào thì cứ tự nhiên thưởng thức. Những trái mít ướt, mít ráo, dù cao, dù lớn, dù nặng, dù sống, chín... bất kể, chúng tôi cũng cố trèo và hái cho bằng được, vừa ăn tại chỗ vừa hái mang về. Chín thì ăn ngay, sống thì đem kho. Cũng nên kể thêm, người chủ khách sạn chúng tôi ở là một Phật tử Tích Lan từng sống ở Đức, đệ tử của thầy Bhante, nên đối xử với chúng tôi rất thân tình, thoải mái và dễ dãi như người nhà.
Người Tích Lan có những thói quen quy ước ngược đời, chẳng hạn như lái xe bên trái thay vì bên phải, hoặc khi họ đồng ý, chấp thuận một điều gì thì thay vì gật đầu, họ lại lắc đầu. Có đôi lần vì thế mà chúng tôi hiểu sai ý họ. Như khi chúng tôi xin phép thầy Bhante hái trái cây trong vườn, thầy lắc đầu, khiến chúng tôi tiu nghỉu buồn; cho đến lúc thầy đưa hai tay ra dấu xin mời, xin mời... chúng tôi mới sực nhớ ra và biết là thầy đồng ý. Lại có lần nhờ anh tài xế vác hộ hai trái mít to vào nhà, thầy Phương Trượng đã tặng anh 10 đô-la Mỹ, anh nhận tiền nhưng lắc đầu lia lịa, làm chị bạn tôi bực mình trách móc: “Thầy trả công hậu hỉ như vậy sao anh còn từ chối?” Tôi cười nhắc nhở: “Anh ấy lắc đầu nghĩa là chấp thuận đó!” Chị bạn mới nhớ ra, bật cười khi thấy anh tài xế khệ nệ bưng hai trái mít vào cho chúng tôi.
Thầy Bhante còn đưa chúng tôi thăm một trung tâm từ thiện, nơi nuôi dưỡng những trẻ mồ côi nạn nhân của trận sóng thần năm 2006. Trung tâm rất sạch sẽ, ngăn nắp gọn gàng, nằm trong một khu vườn rộng ở ngoại ô thành phố, được thành lập từ năm 2007 do thầy Bhante chủ xướng. Trung tâm này đa số được tài trợ từ Áo, do những đệ tử học đạo với thầy, cũng có sự trợ giúp của chính phủ Tích Lan. Giáo hội Âu Châu qua thầy Như Điển và thầy Minh Tâm cũng đóng góp 17 ngàn Euro trong việc xây dựng trung tâm này. Hiện có 22 em trai đang sinh sống, trong khi trung tâm có khả năng nhận tối đa 40 em. Trong tương lai, thầy Bhante sẽ mở thêm lớp huấn luyện computer cho các em. Chúng tôi đến thăm được mời ở lại dùng cơm. Mãi đến 14 giờ các em mới đi học về. Các em đã hát và múa cho chúng tôi thưởng thức.
Nhưng, thắng tích quan trọng nhất chúng tôi đã được xem là hai quốc bảo mà du khách đến Tích Lan không thể bỏ qua. Đó là Xá-lợi Răng Phật và cây bồ-đề thiêng liêng.
Chúng tôi tạm rời khách sạn, “dọn nhà” đến thành phố Kandy, nơi có cung điện thờ Xá-lợi Răng Phật. Kandy là một thành phố cổ của Tích Lan. Phố sá sầm uất, nhộn nhịp người qua kẻ lại. Suốt tuần qua ở quê, đóng vai anh, chị “Hai Lúa”, giờ có dịp ra phố, nhất là lại được chiêm bái cung điện vua chúa và Xá-lợi Răng Phật, lòng ai nấy đều vui như mở hội.
Cung điện thờ răng Phật nằm ngay trung tâm phố, đối diện và không xa lắm với khách sạn Queen nơi chúng tôi ở. Nhìn cung điện nguy nga dưới bóng tà dương, cung điện của các triều đại cách nay đã 450 năm, không thấy quân sĩ, vua chúa đâu nữa, tôi lại chạnh lòng nghĩ đến lẽ vô thường và ngậm ngùi nhớ hai câu thơ của bà Huyện Thanh Quan:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Nhờ tháp tùng theo thầy Bhante và nhị vị Hòa thượng vừa được trao giải thưởng, chúng tôi hưởng ké phúc lộc của quý thầy mới được phép vào tận trong cung điện, đi loanh quanh khắp nơi để tưởng như mình là nhân vật của hoàng gia, và được phép chiêm bái tháp thờ Xá-lợi Răng Phật dù chưa thể tận mắt nhìn thấy Răng, vì theo luật Tích Lan, Xá-lợi Răng Phật hằng năm chỉ được chiêm bái lễ lạy một lần do bốn vị là Tổng thống, Thủ tướng, Tăng thống và vị Trụ trì giữ bốn chìa khóa, mới được phép mở tháp vàng bao bọc Xá-lợi Răng.
Vì Phật giáo là quốc giáo nên việc thờ tự rất tôn nghiêm, cung kính. Người chiêm bái vào đây không được mang giày dép, không được đi hay đứng quay lưng về phía tượng Phật. Những ai quên mang áo tràng không được phép vào lễ lạy, hoặc có nơi phải tốn tiền mua vé vào cửa.
Trước khi vào cung điện chính, nơi có bảo tháp thờ Xá-lợi Răng Phật, còn có nhạc công nhảy múa vũ điệu dân tộc Tích Lan để cúng dường cùng chào đón chúng tôi.
Qua hôm sau, chúng tôi lại “dọn nhà” đến một nơi khác, nơi có cây bồ-đề do công chúa Shanghamita, con gái vua A-dục, trao tặng vua Tích Lan.
Có ba cây bồ-đề cổ thụ hết sức cao lớn, cành lá sum xuê, không rõ cây nào là cây chính, nằm trên một điện đài có rào cản, có lính canh nghiêm ngặt. Phải là tu sĩ hay có áo tràng mới được phép lên đó lễ lạy, còn không chỉ được đứng bên dưới ngưỡng vọng lên thôi. Xung quanh khuôn viên gần đó còn có một tháp lớn với rất nhiều cây bồ-đề lớn nhỏ, hằng năm qui tụ hàng triệu người đến làm lễ dâng hoa ở khu vực này, dưới những cây bồ-đề.
Cuộc hành hương Tích Lan của chúng tôi, ngoài thăm viếng thắng tích, trọng điểm chính là tham dự lễ trao giải thưởng của Hội Đồng Tăng-già Tích Lan vinh danh Hòa thượng Minh Tâm và Hòa thượng Như Điển.
Riêng với cá nhân tôi thì sự nghiệp hoằng pháp của hai vị Hòa thượng cũng đã có thể nhận biết rõ ràng. Bản thân tôi tìm đến với đạo pháp, hiểu phần nào giáo lý của Đức Phật để được lợi lạc, chính là nhờ nhân duyên tạo ra bởi hai vị Hòa thượng. Với thầy Như Điển là qua nhân duyên văn chương, qua tờ báo Viên Giác. Tờ báo sống mạnh mấy chục năm nay cho đến bây giờ không phải chuyện ngẫu nhiên, mà do sự đóng góp tích cực trong tinh thần đoàn kết, nhất là sự tận tụy hết lòng của anh Chủ bút Phù Vân cùng Ban Biên Tập và sự ủng hộ chân thành của độc giả. Nhưng Chủ Nhiệm sáng lập tờ báo, tạo chất keo để nối kết mọi người đến với nhau chính là thầy Như Điển.
Riêng với thầy Minh Tâm, tôi được biết qua các khóa học Âu Châu hằng năm mà chính thầy là người khai sáng, cho đến nay đã 23 năm rồi, càng lúc càng phát triển. Từ lần đầu tiên chỉ có 21 người trong phạm vi quốc gia và nay lên đến cả ngàn người mở rộng khắp Âu Châu, cùng với sự tham dự của Phật tử từ nhiều nước khác trên thế giới. Qua đó, tôi nhìn thấy thành quả của hai vị đã phát huy Chánh pháp, đem lợi lạc đến bao người. Nhờ đó rất nhiều người Việt ở Âu Châu biết đến Giáo Pháp của Đấng Từ Phụ, thuộc và hiểu kinh điển Phật Giáo.
Không chỉ Phật tử Việt Nam ngày nay với thông tin rộng rãi được biết đến quý thầy, mà chính Hội Đồng Tăng-già Tích Lan, từ một xứ xa xôi, sau khi duyệt xét vào năm 2010 cũng thấy được những thành quả liên tục hoằng pháp lợi sanh của hai vị Hòa thượng, nên mới có giải thưởng vinh danh hai vị hôm nay.
Ngày phát giải rất long trọng, có sự hiện diện của Thủ tướng, Phó Thủ tướng và Hội trưởng Hội Phật giáo Tích Lan. Ba vị đều mặc bộ vest trắng kín cổ. Dường như quần áo trắng của người Tích Lan là pháp phục, cũng như áo tràng của Việt Nam, để dự các lễ của Phật giáo, nên trong hội trường đa số người Tích Lan đều mặc đồ trắng, chỉ trừ nhóm người ngoại quốc và phụ nữ Việt chúng tôi là quốc phục áo dài, mỗi người một vẻ, trăm hoa đua nở.
Buổi lễ còn có sự hiện diện của vị Tăng thống, các thành viên Hội Đồng trưởng lão Tăng-già Tích Lan và nhiều quan khách. Có tới 200 Phật tử và tu sĩ trong phòng khánh tiết. Riêng phái đoàn chúng tôi cả thảy là 40 người đến từ nhiều quốc gia. Đặc biệt có 4 vị sư trẻ Việt Nam du học Ấn Độ đang trình luận án tiến sĩ, bốn vị này nằm trong số 150 vị kể từ năm 1994 cho đến nay được Hòa thượng Như Điển tài trợ học bổng. Đến nay có 100 vị đã ra trường.
Buổi lễ trao giải bắt đầu lúc 16 giờ bằng những tiếng kèn, trống và vũ công chào mừng qua những vũ điệu dân tộc. Khi Thủ tướng, Phó Thủ tướng và Hội trưởng Hội Phật giáo Tích Lan bước vào, chỉ có đồng bào Phật tử đứng dậy; riêng các tăng sĩ vẫn ngồi yên. Điều đó chứng tỏ ở xứ Tích Lan, tăng sĩ có một địa vị cao quý bậc nhất, luôn được mọi tầng lớp từ chính quyền đến nhân dân kính trọng.
Buổi phát giải không chỉ dành riêng cho nhị vị Hòa thượng Việt Nam mà còn cho hai vị cư sĩ người Áo đã có công đóng góp trong việc truyền bá đạo Phật cho người bản xứ. Đó là ông Gerhard Weissgrab, tiến sĩ Khoa học, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Phật giáo tại Áo và ông Wolfgang Alkier, tiến sĩ Luật, Phó giám đốc và là thành viên Dân biểu Quốc hội Áo. Hai vị đã góp phần để Phật giáo được chính quyền sở tại công nhận như một tôn giáo cùng với các tôn giáo khác. Và theo quan niệm của hai ông, đạo Phật giúp chữa trị nỗi đau khổ của thế gian.
Cùng đi với chúng tôi, đặc biệt có một cô người Thổ Nhĩ Kỳ. Cô hiện sinh sống và học tại Áo, và là đệ tử học Phật với ngài Bhante. Suốt cuộc hành hương, cô hay theo đoàn Việt Nam, ăn uống và lễ lạy y như chúng tôi vậy. Cô rất dễ thương và rất hòa đồng. Có một lần, thấy một vị người Áo trong đoàn nổi sân, cô nhẹ nhàng nói với chúng tôi: “Đã học Phật sao lại còn giận nhỉ!”
Buổi lễ kết thúc sau hai tiếng đồng hồ, sau khi từng chính khách đọc diễn văn, phát giải và 16 em học sinh Tích Lan pháp phục màu trắng lên hát một bài đồng ca để cúng dường. Riêng nhị vị Hòa thượng, ngoài việc nhận bằng danh dự như hai vị cư sĩ Áo quốc, còn đặc biệt được trao tặng hai chiếc quạt có giá trị biểu trưng sự tôn kính như đối với ngôi vị quốc sư.
Cuộc hành hương Tích Lan của chúng tôi đã kết thúc. Mỗi người đã trở về với cuộc sống thường nhật trước đây. Tuy nhiên, những hình ảnh tôn nghiêm nơi Thánh tích, sự tôn kính của người Phật tử Tích Lan dành cho chư Tăng cũng như tấm lòng hiếu khách và sự chơn chất hồn hậu của những người dân Tích Lan mà chúng tôi đã gặp, tất cả sẽ là những kỷ niệm khó quên sau một chuyến hành hương về vùng đất Phật.