Lúc ấy, Phật ở thành Vương-xá, trong tinh xá Trúc Lâm. Trong thành có
một vị trưởng giả giàu có vô cùng, lại chọn được người vợ cũng thuộc
dòng cao sang quyền quý.
Khi ấy, người vợ mang thai đủ ngày tháng sanh được một đứa con trai,
hình dung xinh đẹp, khôi ngô ít có. Cha mẹ đều vui vẻ, nhân đó mới đặt
tên là Ưu-đa-la.
Dần dần khôn lớn, không may người cha mất sớm. Ưu-đa-la khi ấy suy nghĩ
rằng: “Cha ta trước đây chuyên đường buôn bán kiếm lãi, nhờ đó mà dựng
thành gia nghiệp. Ta nay không nên đi theo đường ấy, mà nên kính tin
Phật pháp.” Nghĩ vậy rồi liền thưa với mẹ xin được xuất gia tu học.
Người mẹ đáp rằng: “Cha con đã chết, nay ta chỉ còn có mỗi một mình con,
sao nay con lại muốn bỏ ta mà ra đi xuất gia. Ta còn sống đây ngày nào,
quyết không thuận cho con xuất gia. Mai sau ta có chết rồi, thì con tùy
ý.”
Ưu-đa-la không thỏa ý nguyện, liền nói với mẹ: “Nếu mẹ không cho con
xuất gia, con sẽ dùng thuốc độc tự vẫn.”
Mẹ khuyên dỗ rằng: “Con đừng nói vậy. Mẹ nghĩ con không cần phải xuất
gia nhập đạo. Từ nay về sau nếu con muốn thỉnh các vị sa-môn, bà-la-môn
đến cúng dường, ta đều chiều ý.”
Ưu-đa-la nghe vậy cũng nguôi ngoai. Từ đó thường thỉnh các vị tỳ-kheo
tăng về nhà cúng dường.
Người mẹ thấy các vị tỳ-kheo thường đến nhà thọ nhận cúng dường nhiều
lần, sinh lòng tham tiếc, không vui. Lâu dần bà buông ra nhiều lời nhục
mạ, xúc xiểm các vị.
Có lần Ưu-đa-la đi vắng chẳng có nhà, mẹ liền lấy một ít thức ăn đổ cho
rơi vãi trên mặt đất. Ưu-đa-la trở về, mẹ lại nói rằng: “Khi con đi
chẳng có nhà, mẹ có thỉnh các vị tỳ-kheo đến nhà cúng dường đầy đủ các
món ăn ngon lạ.” Nói rồi dẫn Ưu-đa-la đến chỗ thức ăn đổ mà chỉ cho xem,
nói: “Con xem, thức ăn thừa rơi vãi cũng vẫn còn đó.” Ưu-đa-la nghe và
thấy như vậy thì tin là thật và lấy làm vui mừng, hoan hỷ.
Đến khi người mẹ mạng chung, do tạo ác nghiệp như thế mà phải đọa làm
thân ngạ quỷ. Còn Ưu-đa-la không còn vướng bận gia đình liền xuất gia
nhập đạo, tinh cần tu tập, đắc quả A-La-hán. Ngày kia, khi đang ngồi
thiền trong một hang động nơi bờ sông, có một ngạ quỷ miệng phun ra lửa,
thân thể nóng khát, hiện đến nơi ấy mà nói rằng: “Ta là mẹ của con đây.”
Tỳ-kheo Ưu-đa-la lấy làm kinh quái, nói rằng: “Mẹ ta sanh tiền thường
làm việc bố thí, cúng dường tỳ-kheo tăng, làm sao có thể thọ quả báo làm
thân ngạ quỷ được?”
Ngạ quỷ đáp rằng: “Quả thật là mẹ đây. Ngày xưa mẹ tham lam, bủn xỉn,
chưa từng thật lòng cúng dường tỳ-kheo tăng, chỉ dối gạt con đó thôi.
Chính vì vậy mà phải sinh làm thân ngạ quỷ, đã 20 năm nay chưa từng được
món ăn thức uống gì vào miệng. Khi đến bờ sông, nước sông liền khô kiệt;
gặp quả trên cây, cây với quả đều khô chết. Mẹ nay đói khát, khổ sở vô
cùng, chẳng thể dùng lời mà nói ra cho hết được.”
Tỳ-kheo Ưu-đa-la lại hỏi: “Nguyên do thật sự là thế nào?” Ngạ quỷ đáp:
“Tuy mẹ có vì con mà làm việc bố thí, nhưng trong tâm tham lam, keo
kiệt, thường tiếc rẻ những thứ mang ra cúng dường. Vì thế mà chẳng có
lòng cung kính đối với các vị tỳ-kheo tăng, lại nhiều lần nặng lời mạ
nhục, xúc phạm. Nay nếu con vì mẹ mà thiết lễ cúng dường Phật và chư
tăng, vì mẹ mà sám hối các ác nghiệp, thì mẹ có thể nhờ đó mà thoát được
thân ngạ quỷ này.”
Ưu-đa-la khi ấy hết lòng thương mẹ, liền đi quyên góp vật thực khắp nơi
trong thành, thiết lễ cúng dường thỉnh Phật và chư tăng đến thọ nhận. Lễ
cúng dường xong, ngạ quỷ liền hiện thân đến giữa chúng hội mà sám hối
các ác nghiệp.
Đức Thế Tôn khi ấy vì ngạ quỷ mà khai diễn thuyết pháp. Nghe Phật thuyết
pháp rồi, ngạ quỷ tự thấy xấu hổ vì những nghiệp ác đã tạo, ngay trong
đêm đó mạng chung, lại sinh làm loài ngạ quỷ phi hành.
Khi ấy, ngạ quỷ phi hành hiện hào quang quanh thân, có đủ các món trang
sức quý báu, đẹp đẽ, hiện đến chỗ Ưu-đa-la mà nói rằng: “Mẹ nay vẫn chưa
thoát được thân ngạ quỷ. Con nên vì mẹ thiết lễ cúng dường tăng chúng
khắp bốn phương, mẹ có thể nhờ đó mà thoát thân ngạ quỷ.”
Ưu-đa-la nghe vậy rồi, lại một lần nữa quyên góp vật thực nhiều nơi,
thiết lễ cúng dường thỉnh chư tăng bốn phương cùng thọ nhận. Lễ cúng
dường xong, ngạ quỷ phi hành liền hiện đến trước chúng hội, sám hối các
ác nghiệp đã tạo. Ngay trong đêm đó liền mạng chung, sinh lên cõi trời
Đao-lỵ.
Khi ấy, vị chư thiên mới sinh lên cõi trời ấy liền tự hỏi: “Ta đã tạo
được phước đức gì mà nay được sinh lên cõi trời này?” Rồi tự quán sát,
nhớ lại việc tỳ-kheo Ưu-đa-la vì mình hai lần thiết hội cúng dường Phật
và chư tăng, nhờ đó mà được thoát thân ngạ quỷ, sinh lên cõi trời. Nhớ
lại rồi, liền tự nghĩ rằng: “Nay ta nên đến đó báo ơn Phật và tỳ-kheo
Ưu-đa-la.”
Nghĩ rồi, liền hiện thân trang nghiêm đẹp đẽ của chư thiên, mang theo
những hoa hương, trân bảo ở cõi trời, hiện đến chỗ Phật và tỳ-kheo
Ưu-đa-la mà cúng dường. Lễ cúng dường xong, liền ngồi lại một bên nghe
Phật thuyết pháp. Nghe rồi được khai mở tâm ý, chứng quả Tu-đà-hoàn,
liền lễ bái Phật rồi quay về cõi trời.
Khi Phật thuyết nhân duyên đọa ngạ quỷ của người mẹ Ưu-đa-la, chư
tỳ-kheo trong chúng hội liền lìa bỏ lòng tham lam, sân hận, lánh sợ
đường sinh tử, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm,
có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người
phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng
Bồ-đề.
Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng
tin nhận.