Chim khôn kêu tiếng rỗng rang,
	  Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
	  (Ca dao)
	  Từ xa xưa, tổ tiên chúng ta đã sớm biết được rằng “dịu dàng dễ nghe” là 
		biểu hiện của người khôn ngoan trong lời ăn tiếng nói. Quả thật, nếu bạn 
		nói ra toàn những lời hợp tình đúng lý, sâu xa hàm súc, nhưng lại bằng 
		một cách nói “khó nghe” thì chắc chắn là sẽ không mấy ai lắng nghe bạn, 
		và vì thế mà hiệu quả của những lời nói ấy sẽ chẳng đạt được bao nhiêu.
	  Nói thế không có nghĩa là chúng ta phủ nhận sự cần thiết của nội dung 
		lời nói, là muốn nói sao thì nói, bất kể chuyện đúng sai, phải quấy. Ở 
		đây chỉ là nhấn mạnh việc bạn nói năng như thế nào cũng có vai trò quan 
		trọng không kém, thậm chí còn có thể là quan trọng hơn, so với nội dung 
		những điều muốn nói.
	  Khi bạn đưa ra một ý kiến, điều tất nhiên mà bạn chờ đợi ở sự thẩm định 
		của người khác là ý kiến ấy có thể đúng hoặc sai, chứ không thể tin chắc 
		là bao giờ cũng hoàn toàn chính xác. Nếu là một ý kiến đúng, bạn sẽ được 
		tán thành. Nếu là một ý kiến sai, bạn sẽ nhận được sự giải thích về 
		những điểm không đúng trong đó, và ý kiến ấy bị bác bỏ. Sự bác bỏ ý kiến 
		của bạn hoàn toàn không có nghĩa là người nghe đã mất đi thiện cảm với 
		bạn, mà chỉ có nghĩa là nội dung của ý kiến ấy không phù hợp, không 
		chính xác...
	  Tuy nhiên, cách trình bày ý kiến của bạn lại thực sự có giá trị mang lại 
		hoặc đánh mất đi thiện cảm của người nghe dành cho bạn. Khi bạn biết 
		“nói tiếng dịu dàng dễ nghe”, thì cho dù bạn nói sai, bạn vẫn nhận được 
		cảm tình của người nghe. Ngược lại, nếu bạn nói năng theo cách “khó 
		nghe”, thì cho dù những điều bạn nói ra là chính xác và được chấp nhận, 
		nhưng cảm tình của người nghe dành cho bạn có thể là sẽ không còn nữa. 
		Vì thế, người khôn ngoan chưa hẳn đã có thể luôn nói ra những điều hoàn 
		toàn chính xác, không sai lầm, nhưng chắc chắn là bao giờ họ cũng biết 
		trình bày ý kiến của mình theo cách rất “dịu dàng dễ nghe”.
	  Sức mạnh của lời nói dịu dàng, êm ái là có thể hàn gắn được những tổn 
		thương tinh thần và tạo ra được thiện cảm nơi người nghe. Ngược lại, lời 
		nói thô lỗ, cứng rắn và xúc phạm bao giờ cũng có khả năng gây tổn thương 
		cho người khác và tạo ra những định kiến, ác cảm nơi người nghe.
	  Vì thế, chúng ta cần phải biết phân biệt giữa nội dung điều muốn nói và 
		cách nói ra những điều ấy. Trong khi chúng ta hoàn toàn không nên chủ 
		quan về tính chính xác của những gì mình nói ra, cần phải biết cởi mở 
		lắng nghe và chấp nhận ý kiến sửa sai của người khác, thì chúng ta lại 
		hoàn toàn có thể tin chắc được rằng việc trình bày ý kiến của mình theo 
		cách êm dịu, hòa nhã và không xúc phạm đến người khác bao giờ cũng là 
		một quyết định chính xác và sáng suốt.
	  Sự va chạm bằng lời nói là điều xảy ra thường xuyên nhất trong cuộc 
		sống. Hầu hết những ai có chút tri thức đều không tán thành việc giải 
		quyết vấn đề bằng cách “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay”, và vì thế mà 
		cách giải quyết bất đồng tất nhiên là phải thông qua việc “đấu khẩu”. 
		Nhưng ngay cả đối với những người ít học thì không phải ai cũng thích 
		chọn giải pháp “đấm đá”, bởi vì họ biết chắc rằng khi đã đánh nhau thì 
		chuyện thông thường là “bên lỗ đầu, bên sứt trán”, chẳng dễ gì giữ được 
		vẹn toàn. Vì thế, chỉ trừ những trường hợp hết sức căng thẳng, quá đáng, 
		bằng không thì đa số vẫn chuộng phương thức “đấu khẩu” hơn là “đấu võ”. 
		Và do đó mà chúng ta luôn có thể thấy sự va chạm bằng lời nói hầu như 
		xảy ra ở bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào trong cuộc sống.
	  Vì là một thứ “vũ khí” cực kỳ đơn giản và rất dễ “khai hỏa”, nên những 
		trận “đấu võ mồm” có thể diễn ra ở rất nhiều mức độ khác nhau. Từ một sự 
		chỉ trích nhỏ nhặt cho đến những phê phán gay gắt, từ những lời qua 
		tiếng lại trong sự gặp gỡ thoáng qua mỗi ngày cho đến những luận điệu 
		công kích nhau một cách có hệ thống, được ghi chép cẩn thận để có thể 
		phổ biến cho thật nhiều người biết đến... Tất cả đều là những biểu hiện 
		khác nhau của việc sử dụng lời nói trong giao tiếp. Chúng có thể mang 
		lại sự hòa hợp, tiến bộ, nhưng cũng có thể dễ dàng gây ra những tổn 
		thương, đổ vỡ...
	  Hầu hết mọi trường hợp lời nói gây ra thương tổn đều là do người nói 
		muốn tranh lấy phần ưu thế, phần đúng, phần phải về mình. Những trao đổi 
		mang tính cách giải thích hoặc chia sẻ thường không bao giờ gây ra 
		thương tổn cho người nghe. Vì thế mà nguyên tắc thứ hai trong sáu pháp 
		hòa kính nhấn mạnh là “lời nói hòa hợp, không tranh cãi”.
	  Nói năng hòa nhã, êm dịu đã là biểu hiện của sự khôn ngoan, nhưng nếu 
		biết tránh đi sự tranh cãi mới là người thực sự khôn ngoan nhất. Bởi vì 
		những gì mà sự tranh cãi mang đến cho chúng ta thật ra hoàn toàn không 
		bù đắp được cho những gì chúng ta phải mất đi vì nó. Cảm giác thích thú 
		của người “chiến thắng” - nếu có - chỉ thoáng qua trong chốc lát, trong 
		khi những bất hòa và sự tổn thương tình cảm do sự tranh cãi tạo ra lại 
		có thể còn mãi, thậm chí có khi còn được nuôi lớn thêm mãi nếu không sớm 
		chấm dứt.
	  Cũng cần phân biệt rõ giữa sự tranh cãi với tranh luận. Mọi cuộc tranh 
		cãi đều nhắm đến việc giành lấy phần thắng, chứng minh rằng những gì 
		mình đưa ra là đúng đắn, hợp lý, còn những gì đối phương đưa ra đều là 
		sai trái, nhầm lẫn. Ngược lại, một cuộc tranh luận luôn để ngỏ khả năng 
		đúng sai của mỗi người, và luôn chấp nhận lắng nghe những người khác để 
		nhận lấy những điều nào là hợp lý, đúng đắn. 
	  Tranh luận chỉ nhằm làm rõ vấn đề, tìm ra chân lý, lẽ phải, bất kể là 
		chân lý hay lẽ phải đó thuộc về ai, và cũng có thể là thuộc về tất cả 
		mọi người, trong trường hợp mỗi người chỉ nói đúng một phần nào hoặc một 
		khía cạnh nào đó của vấn đề mà thôi. 
	  Vì thế, cuộc tranh cãi chỉ được kết thúc khi có sự phân định thắng thua 
		rõ rệt, còn một cuộc tranh luận thì kết thúc khi tất cả mọi người tham 
		gia đều đạt được mục đích của mình, đều hài lòng với kết luận cuối cùng.
	  Chính do sự khác biệt như trên mà một cuộc tranh cãi thường bao giờ cũng 
		chia thành hai “phe”. Tất cả những ai tham gia tranh cãi đều phải thuộc 
		về một trong hai phe đó, và càng có nhiều người tham gia thì sẽ càng 
		căng thẳng, gay gắt hơn, đôi bên dễ dàng trở nên hằn học, đối địch nhau. 
		Và phe chiến thắng - nếu có - bao giờ cũng trở thành thù nghịch với phe 
		thất bại. 
	  Tranh luận thì khác hẳn, có thể chấp nhận sự tham gia của bất cứ ai quan 
		tâm đến vấn đề, và người tham gia không phải thuộc về phe nào cả. Mỗi 
		người chỉ cần khách quan trình bày quan điểm, ý kiến của riêng mình, 
		đồng thời biết lắng nghe quan điểm, ý kiến của những người khác. Vì thế, 
		một cuộc tranh luận càng có nhiều người tham gia thì ý kiến càng thêm 
		phong phú, đa dạng, và vấn đề được tranh luận càng dễ được làm sáng tỏ 
		hơn, kết luận cuối cùng càng được chính xác hơn. Bất cứ ai đưa ra ý kiến 
		được nhiều người chấp nhận nhất sẽ nhận được sự hoan nghênh của mọi 
		người khác chứ không phải là sự thù nghịch.
	  Vì tiền đề của một cuộc tranh cãi bao giờ cũng là những định kiến bảo vệ 
		lập luận của “phe ta”, nên nó thực sự không mang lại được gì cho những 
		người tranh cãi. Như một tách trà đầy không thể rót thêm vào được nữa, 
		những người thích tranh cãi cũng không thể học hỏi thêm được điều gì từ 
		người khác vì họ luôn cho rằng những quan điểm, ý kiến của mình đã là 
		hoàn toàn đúng đắn. Vì thế, xét cho cùng thì những cuộc tranh cãi là 
		hoàn toàn vô ích nếu không muốn nói là có hại.
	  Ngược lại, tiền đề của một cuộc tranh luận chính là sự khát khao kiến 
		thức, truy tìm chân lý, nên những người tham gia tranh luận luôn có thể 
		học hỏi được nhiều điều từ những người khác cùng tham gia tranh luận. Và 
		sự chia sẻ kiến thức càng giúp họ gần gũi nhau hơn, không hề có sự đối 
		đầu, thù nghịch. Vì thế, tuy không cần thiết phải thường xuyên tranh 
		luận, nhưng nếu có cơ hội tham gia những cuộc tranh luận đúng đắn thì 
		chúng ta sẽ có khả năng học hỏi được rất nhiều.
	  Mặt khác, tránh xa sự tranh cãi bao giờ cũng là cách tốt nhất để hạn chế 
		những bất hòa trong cuộc sống. Bởi vì như đã nói, những va chạm trong 
		lời nói là thuộc loại va chạm thường xuyên xảy ra nhất trong cuộc sống 
		hằng ngày. Không ai trong chúng ta lại thích nói chuyện với một người 
		hay tranh cãi, luôn chỉ trích và bắt bẻ sai lầm của người khác. Vì thế, 
		chỉ cần bạn có thể loại bỏ được thói quen hay tranh cãi - nếu có - bạn 
		sẽ nhanh chóng nhận ra rằng mọi người chung quanh đều thích nói chuyện 
		với bạn nhiều hơn, gần gũi và chia sẻ với bạn nhiều hơn. Và đó chính là 
		biểu hiện của một cuộc sống hòa hợp với mọi người.
	  Ngoài việc tránh xa sự tranh cãi, lời nói hòa hợp còn có nghĩa là phải 
		biết quan tâm đến những gì mình nói ra để không gây thương tổn cho người 
		khác. Ngay cả khi cần phải nói lên những sự thật cứng rắn và đụng chạm 
		đến ai đó, cũng cần phải chọn cách diễn đạt sao cho sự căng thẳng của 
		vấn đề có thể được giảm nhẹ đến mức thấp nhất. 
	  Một ý nghĩa quan trọng khác của việc thực hành hòa hợp qua lời nói là 
		phải cố gắng nói ra những lời tốt đẹp, tạo ra sự hòa hợp, đoàn kết giữa 
		những người khác, cũng như khuyến khích mọi người khác thực hiện những 
		điều tốt lành và tránh xa những điều xấu ác. Được như vậy thì mỗi một 
		lời nói ra của bạn đều sẽ xứng đáng để được gọi là: “Lời lời châu ngọc, 
		hàng hàng gấm thêu.”
	  Mặc dù “lời nói chẳng mất tiền mua”, nhưng nó lại thực sự là một sức 
		mạnh quan trọng trong giao tiếp. Lời nói có khả năng xây dựng, làm cho 
		mọi quan hệ ngày càng trở nên gắn bó, tốt đẹp hơn, nhưng đồng thời lời 
		nói cũng có thể có tác dụng phá hoại, làm cho các mối quan hệ giữa người 
		và người trở nên căng thẳng và thù nghịch. Những công năng tốt hay xấu 
		đó đều là phụ thuộc vào cách “lựa lời mà nói” của chúng ta.
	  Mặt khác, lời nói là biểu hiện của tâm ý. Trong lòng nghĩ sao thì ngoài 
		miệng biểu lộ ra như vậy. Tâm ý ngay thẳng, hiền thiện thì lời nói cũng 
		thật thà, hòa nhã; tâm ý gian trá, hiểm độc thì lời nói cũng quanh co, 
		hung dữ. Trong lòng không có sự tu dưỡng thì không thể nói ra được những 
		lời thực sự ôn hòa, êm dịu; trong lòng không nuôi dưỡng tình cảm chân 
		thành tốt đẹp thì không thể nói ra được những lời cảm thông chia sẻ; và 
		nếu trong lòng đầy sự thù hận ganh ghét thì chỉ có thể nói ra toàn những 
		lời hung hãn, cay độc...
	  Cho nên, có thể nói là tâm ý tạo ra lời nói. Nếu không tu dưỡng tâm ý mà 
		chỉ gắng gượng nói ra những lời dịu dàng êm ái để lấy lòng người khác 
		thì cũng chỉ là sự giả dối, ngụy tạo, người nghe sớm muộn gì cũng sẽ cảm 
		nhận được điều đó. Tuy nhiên, nếu thật lòng muốn tu dưỡng tâm ý thì lại 
		có thể bắt đầu từ việc chú ý tu dưỡng lời nói. Nếu có thể tránh nói ra 
		những lời xấu ác thì tâm ý sẽ nhờ đó mà có thể quay về gần với sự hiền 
		thiện, thương yêu.
	  Lời nói xấu ác tuy rất đa dạng, nhưng cũng không đi ngoài những ý nghĩa 
		sau đây.
	  Thứ nhất là nói dối, không đúng sự thật. Nguyên nhân và động lực của 
		việc nói dối có thể bao gồm hết thảy những ham muốn, toan tính của con 
		người, nhưng nói chung thì một khi đã dùng cách nói dối để đạt được mục 
		đích của mình đều không phải là điều tốt. Vì thế, bản thân việc nói dối 
		chẳng những đã là một điều xấu, mà nó còn có thể là nguyên nhân dẫn đến 
		rất nhiều điều xấu ác khác nữa.
	  Thứ hai là nói lời trau chuốt, không thành thật, chỉ nhằm lấy lòng người 
		khác vì mục đích có lợi cho mình. Lời nói trau chuốt không xuất phát từ 
		những suy nghĩ chân thật trong lòng, mà là dựa theo ý muốn của người 
		nghe, nhằm làm cho người ấy phải tin theo điều gì đó. Tuy lời nói trau 
		chuốt không có vẻ là xấu ác, nhưng nó thường có những động lực không 
		chính đáng nên sẽ nuôi dưỡng và tạo điều kiện phát triển cho những tâm 
		niệm xấu ác. Hơn thế nữa, việc nói trau chuốt rất thường có khuynh hướng 
		trở thành nói dối.
	  Thứ ba là những lời nói thô tục, hung hăng, thường gây thương tổn cho 
		người khác một cách không cần thiết. Lời nói thô tục, hung hăng thường 
		không do những động lực khác thúc đẩy, mà là xuất phát từ tâm ý hung dữ, 
		thiếu sự tu dưỡng, tạo thành thói quen luôn nói ra những lời hung hăng, 
		xúc phạm, bất kể đối tượng là ai.
	  Thứ tư là nói những lời vô nghĩa, vô ích. Những lời nói loại này có vẻ 
		như chẳng gây hại đến ai, nhưng thực tế là tạo thành thói quen ăn nói 
		bừa bãi, thiếu cân nhắc. Như cỏ dại làm hại ruộng vườn, những lời vô 
		nghĩa cũng làm hại chúng ta vì làm mất đi cơ hội nói ra những lời tốt 
		đẹp, hữu ích.
	  Thứ năm là lời nói đâm thọc, cũng gọi là nói hai lưỡi, thường là để gây 
		chia rẽ giữa những người khác. Nói hai lưỡi có nghĩa là nói ra những lời 
		không chân thật, nhất quán. Khi gặp mỗi bên lại nói theo một cách khác 
		nhau nhằm tạo ra sự hoài nghi, mâu thuẫn lẫn nhau giữa mọi người, nhằm 
		đạt được mục đích cho riêng mình. Lời nói loại này luôn hướng đến gây ra 
		sự chia rẽ, ghét bỏ hay thù nghịch lẫn nhau, xuất phát từ tâm niệm tham 
		lam, xấu ác, muốn đạt được mục đích của riêng mình. 
	  Thứ sáu là những lời nói độc ác, gây thương tổn cho người khác. Những 
		lời nói loại này thường không nhằm mục đích gì khác, mà chỉ là sự biểu 
		lộ của tâm ý nóng nảy, hung dữ. Tuy nhiên, khi thường xuyên nói ra những 
		lời độc ác, gây thương tổn cho người khác thì cũng chính là tạo điều 
		kiện để nuôi dưỡng và làm phát triển sự nóng nảy, hung dữ trong tâm ý. 
		Vì thế, việc kiềm chế những lời nói loại này cũng là cách rất tốt để tu 
		dưỡng tâm ý.
	  Tất cả những lời nói xấu ác như trên đây đều tạo ra những nghiệp xấu ác, 
		gọi chung là khẩu nghiệp - nghiệp tạo ra bởi lời nói - là một trong ba 
		cách tạo nghiệp của chúng ta, đó là: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý 
		nghiệp. 
	  Mặc dù lời nói không có hình dạng, tướng mạo, không thể làm người khác 
		tổn thương, đau đớn về thể xác, nhưng lại có sức mạnh tinh thần cực kỳ 
		lớn lao. Lời nói tốt đẹp có thể xây dựng cuộc sống tốt đẹp cho chính bản 
		thân ta và mọi người chung quanh, trong khi lời nói xấu ác lại có thể dễ 
		dàng hủy hoại hạnh phúc của bản thân và người khác. Vì thế, muốn sống 
		hòa hợp giữa mọi người, chúng ta không thể không quan tâm đến lời nói 
		của mình, phải luôn tránh nói ra những điều xấu ác, chỉ nói những điều 
		hướng đến sự hòa hợp, tốt đẹp và tránh xa sự tranh cãi.