Sức phát triển của bộ môn Tantra tại  Ấn Độ thiên về tâm lực xảy ra đồng thời với mối đe doạ huỷ diệt ngày một lớn ở  biên giới tây bắc Ấn Độ. Ngay từ đầu thế kỷ 8, khi thế lực hùng mạnh của người Ả  Rập trải dài từ Morocco đến xứ Sindh (Pakistan) thì tại Ấn  Độ, phần lớn những người kế vị đế quốc vinh quang Gupta lại bận rộn với  cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, và nền văn hoá Ấn Độ bắt đầu đi vào thời kỳ  ruỗng nát.
  Cơ chế tôn giáo cũ mất dần hiệu lực kiểm  soát, nên xã hội phải nương vào các luật lệ rất khắt khe về đẳng cấp. Do đó,  nghi lễ và nền triết học kinh viện thống lãnh đời sống xã hội. Không có một sức  mạnh xã hội đoàn kết thống nhất để đối phó với sự đe doạ của các đạo quân Hồi  giáo cuồng tín đi đến đâu cướp phá và tàn sát đến đó.
  Trong khi quân Hồi tiến hành cuộc chiến  tranh huỷ diệt Phật giáo ở Trung Á thì pháp môn Tantra gia tăng ảnh hưởng,  đặc biệt là ở Oddiyana thuộc khu vực ranh giới đông bắc Ấn Độ. Tại đây,  triều đại Phật giáo Pala đang thời cực thịnh.
  Phải chăng do ngẫu nhiên mà trong thời kỳ  chớm hoang tàn người Ấn đã nương tựa vào pháp môn Tantra, một môn vật lý  siêu hình với giáo thuyết bất nhị tuyệt đối và giải thoát cùng với hình ảnh các  vị thần dữ tợn ăn thịt, uống máu? Phải chăng vì vô tình mà qua nhiều thế kỷ  phương Tây chối bỏ Tantra nay quay lại thừa nhận giá trị siêu việt của  nó, đem lòng tín mộ và đồng thời lo ngại sự thất truyền của pháp môn Tantra này.
  Gần 4 thế kỷ trôi qua – kể từ giữa năm  711, khi xứ Sindh bị xâm lược, cho đến thế kỷ 12 – giáo pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bị quân xâm lược Thổ huỷ báng, mạo phạm. Nhưng cũng  chính trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12 lại là thời kỳ chói lọi nhất  của nền văn minh thuần tuý Hindu.
  Suốt thời kỳ này, quốc gia Tây Tạng đã kịp  thời nắm bắt tinh tuý của Tantra Phật giáo và các kinh điển Mật tông chính yếu đều được dịch sang Tạng ngữ, nhờ vậy đã tránh được sự thất  truyền vì các đại tu viện và thư viện của Ấn Độ bị quân thù đốt phá.
  Khi thủ phủ Java trở thành thuộc địa  thì đồng thời một đại tu viện được xây dựng ở Borobohur. Mặc dù những  thành quả nghệ thuật ở quê nhà bị quân Hồi giáo hủy diệt, nhưng các kinh điển Mật  tông của đế quốc Pala (gồm Bengal, Bihar, Orissa và Assam ) vẫn được bảo tồn.
  Các di tích đền đài tu viện do các hoàng  đế triều đại Pala xây dựng đã chứng minh giá trị nghệ thuật tuyệt vời của Mật tông. Nền nghệ thuật chịu ảnh hưởng đậm đà của Tantra đã miêu  tả các đặc điểm của nền văn minh Ấn Độ thuộc thời kỳ này. Những con người biểu  trưng cho đặc tính, mục đích và lý tưởng của một nền văn hoá. Họ là động cơ, là  lực lượng điều hướng những năng lực đầy sáng tạo để làm chuyển biến cả một dân  tộc và thay đổi nền móng xã hội Ấn, làm mẫu mực, và là những ngôi sao sáng trên  bầu trời huyền thuật của pháp môn Tantra. Những con người ấy được  tôn vinh là Đạo sư (Siddha).
  Tám mươi tư vị đạo sư này là những vị  tiêu biểu, đại diện cho hàng ngàn vị khác thông suốt về pháp môn huyền thuật.  Điều đáng lưu tâm là các đạo sư này xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội  khác nhau. Họ có thể xuất thân từ hàng vua chúa, quan lại, thầy tế lễ, các nhà Du-già,  thi sĩ, nhạc sĩ, thợ thủ công, nông dân hoặc một phụ nữ nội trợ, thậm chí có thể  là một cô gái lầu xanh.
  Tám mươi tư vị đạo sư mà cuộc đời và các  phương pháp tu tập của quý ngài được mô tả trong các truyền thuyết được đưa vào  tác phẩm này là những đạo sư Mật tông Phật giáo, hoàn toàn khác hẳn với  các môn huyền thuật (tantra) của thần Siva và giáo phái thờ Đại  Mẫu.
  Trong 84 vị ấy, lừng danh nhất là các đạo  sư Tilopa, Naropa, Saraha, Luipa, Ghantapa, Dombipa...  Họ là những bậc chứng ngộ, những nhà Du-già khất thực, sống lẫn lộn và  hoà nhập vào tầng lớp bình dân nghèo khổ ở tận cùng đáy xã hội. Các đạo sư này  giáo hoá quần chúng bằng chính hành vi, thái độ, cung cách của các ngài và sử dụng  các phương pháp gây chấn động tâm linh hơn là thuyết giảng suông về giáo lý.
  Một số trong các vị ấy là những người chủ  trương bài trừ mê tín, đập đổ tượng thờ và không chịu ép mình vào những khuôn  khổ cứng nhắc. Họ đánh đổ các hủ tục và tập quán xấu đã có từ lâu đời để tạo một  luồng sinh khí mới và sống động cho xã hội. Chế độ đẳng cấp và các nghi thức  thuần tuý tôn giáo theo chủ nghĩa kinh viện tự động huỷ diệt khi các vị đạo sư  này thể hiện giáo pháp bằng lối sống phóng khoáng đầy giải thoát. Vì vậy, các  ngài không viện dẫn thứ ngôn ngữ kinh viện để giáo hoá, mà bằng những ngôn từ  giản dị, bình dân, dùng thổ ngữ để viết lên những bài đạo ca trác tuyệt có nội  dung đánh đổ những tư tưởng sai lệch, những điều xấu xa của xã hội, cũng như những  tà kiến về tín ngưỡng.
  Các ngài giáo hoá những gì có liên quan đến  thực tại nhiều hơn là những ý niệm siêu hình. Các ngài giáo hoá lý tưởng của cuộc  sống chứ không phải cách ép xác, khổ hạnh hay xa lánh gia đình. 
  Không một nguyên tắc chính thức nào và  cũng không có một sự đồng nhất nào về hình tướng, về cung cách giáo huấn. Đó  chính là đặc điểm của các đấng đạo sư này.
  Dưới sự bảo trợ của các hoàng đế Pala vùng Đông Ấn, nơi mà đại đa số các đạo sư sinh sống, một cuộc cách mạng đã manh  nha hình thành.
  Nhiều đại tu viện được xây dựng hoặc được  trùng tu trở lại hay mở rộng. Tuy nhiên, thái độ chỉ trích công khai của các  ngài về hình thức lễ nghi rỗng tuếch của tôn giáo, chủ nghĩa kinh viện, sự bịp  bợm và thói đạo đức giả cũng như những phê phán về chế độ đẳng cấp của thời ấy  có phần nhẹ nhàng hơn so với thời kỳ của ngài Naropa ở thế kỷ 11.
  Mật tông được phổ biến rộng rãi trong xã  hội nhờ một số đạo sư thuộc các thế hệ sau nắm giữ quyền hành thế tục. Họ tạo ảnh  hưởng sâu rộng trong đời sống nhân dân và có những hoạt động gắn liền với những  biến cố lịch sử ở nhiều mức độ khác nhau. Ngoài ra, tính chất uyển chuyển linh  động của Mật tông cho phép các đạo sư khai ngộ và truyền tâm ấn cho một  môn đồ khi người này vẫn giữ địa vị thế tục cũng như tài sản và các thú vui ngũ  dục, như trường hợp của đạo sư Lilapa chẳng hạn.
  Nguyên tắc rộng rãi bao dung này chính là  yếu tố cơ bản có sức hút và tính thuyết phục mạnh mẽ của pháp môn Tantra trong Phật giáo. Bởi một lý do dễ hiểu là tại Ấn Độ trải qua hàng chục thế kỷ,  chủ nghĩa khoái lạc thường được xem như một phương thức để giải phóng tinh thần.
  Tính chất vô tổ chức cùng thái độ khai trừ  các nghi thức tôn giáo đã chiếm ưu thế trong Bí mật pháp. Tuy nhiên, Mật  tông vẫn giữ được sự chân truyền cho đến ngày nay.
  Vốn là một pháp môn bí mật nên trải qua  nhiều thế kỷ Tantra mới được truyền ra ngoài. Lai lịch của nó cũng chỉ  là những phỏng đoán nhờ dựa vào niên kỷ của các pháp sư Mật tông. Ban đầu, Tantra được ngụy trang dưới hình thức cầu đảo của các bộ tộc thờ Đại Mẫu,  sau đó lan dần xuống các đẳng cấp thấp hơn trong xã hội Hindu. Một bản  sao lục về pháp thuật với nhiều mục đích khác nhau như chữa bệnh, trừ tà trở  thành một bộ phận của các giáo phái bí mật. Qua nhiều thế kỷ, khi các bản sao lục  được Phạn hoá và thường là ngụy tạo hơn là chính bản gốc, các giáo phái bí mật  lần lượt xóa bỏ các vị thần của đạo Bà-la-môn cùng các nghi thức và các  nguyên tắc của mật chú. Cho nên càng về sau triết học của Áo nghĩa  thư, các kinh điển của khoa Du-già cũng như các giáo pháp của Phật  giáo Đại thừa cũng rơi vào một số phận tương tự. Tuy nhiên, có một sự chuyển  hoá quan trọng là cơ cấu nghi thức Mật giáotrở thành một hệ thống siêu  hình với mục đích giải phóng con người ra khỏi khổ đau. Và Kapalika, một  giáo phái tương tự như dòng Tantra của Saiva, do nhiều tu sĩ Phật  giáo hình thành. Đây là dòng Mật tông đầu tiên.
  Nhưng mãi đến thế thế kỷ 4 hoặc 5, do nhu  cầu truyền thừa để giữ vững mối đạo, các kinh điển Mật tông mới được  chép lại trên lá cọ. Trước đó chúng chỉ được truyền khẩu.
  Bộ kinh Manjusri Mulakalpa bao gồm  các tư tưởng Đại thừa lẫn Kim cương Mạn-đà-la của Ngũ Phật Thiền  Định, nhưng Guhyasamaja Tantra lại được xem là tác phẩm đầu tiên  trong số các Tantra gốc mô tả khoa Du-già, gồm các mạn-đà-la,  mật chú và các nghi thức để triệu thỉnh một vị thần đặc biệt nào đó cùng với  quyến thuộc của ngài. Đây chính là trường hợp của Guhyasamaja. Có lẽ môn Tantra này được biên soạn vào thế kỷ 6 hoặc 7, nhưng mãi đến thế kỷ 8 mới  được ngài Indrabhuti truyền ra ngoài.
  Thế kỷ 8 và 9 đã chứng kiến một sự khải  huyền (revelation) của các môn Tổng trì (Major Tantras), đặc  biệt là Thai tạng thừa của Phật giáo pha lẫn một số yếu tố của giáo phái  thờ Đại Mẫu (Sakta).
  Khi kinh văn Tantra được viết ra  thì không còn giữ bí mật được nữa. Có lẽ có nhiều lý do để giữ bí mật, nhưng lý  do quan trọng nhất là tránh sự thù địch đối với đạo Bà-la-môn, vốn là một  tôn giáo lớn vào bậc nhất thời ấy.
  Một trong những khía cạnh có tính thu hút  của Tantra Phật giáo là việc truyền trao rộng rãi pháp tu cho mọi tầng lớp  quần chúng, cả nam lẫn nữ, khác với sự độc quyền truyền thừa cho một giai cấp  được ưu đãi trong xã hội. Hơn nữa, phép tu có phần phóng khoáng do không chịu ảnh  hưởng của Tantra Sakta (Đại Mẫu) nên cho phép dùng rượu thịt và tính  giao giữa tầng lớp quý tộc với giai cấp hạ tiện. Đây là những điều cấm kỵ đối với  đạo Bà-la-môn.
  Một trong những thành công lớn nhất của  các nhà sư Phật giáo là biến môn Tantra thành một cái gì đó mà xã hội  đương thời có thể chấp nhận được, và mặc dù các hình thức Tantra Phật  giáo được phổ biến vào thời ấy có phần thoả hiệp với tôn giáo lớn (Bà-la-môn)  nhưng về học thuyết cơ bản vẫn có sự đối địch cho đến ngày nay.
  Chính nhờ sự thoả hiệp ấy mà Phật giáo đã  thu hút được những tâm hồn vĩ đại, những học giả đạo sĩ thông thái và uyên bác  có khả năng trước tác nhiều bộ luận quan trọng về Tantra, cũng như chú  giải rành mạch những điểm tối nghĩa của Tantra bằng chính giáo pháp và  các nguyên lý của Phật giáo Đại thừa. Các ngài còn lược bỏ những dấu vết thô  thiển của pháp môn này để tạo thành một dấu ấn lớn.
  Trước khi mô tả các pháp Du-già và  phương thức tu luyện của những pháp sư đa dạng này, có lẽ cần định nghĩa một số  từ Sanskrit mà ở đây chúng tôi sẽ giữ nguyên không dịch vì không có thuật  ngữ tương đương. 
  Trước hết là từ siddha. Về mặt  ngôn ngữ, siddha là người tu pháp môn Mật tông hay Tantra và đã thành tựu đạo quả, nên cũng được dịch là “thành tựu giả” (người đã  thành tựu). Sự thành tựu này được gọi là siddhi. Từ siddhi có hai  nghĩa: một là thần thông, hai là Phật trí, hay trí giác ngộ. Do vậy siddha thông thường có thể dịch là thánh tăng, pháp sư, đạo sư hay kim cương sư. Nhưng những từ này không đủ sức diễn tả hết mật hạnh của  các ngài. Đối với một người bình thường chưa được khai tâm thì siddha trước hết ám chỉ một con người có các phép thần thông quảng đại. Nếu một hành  giả Du-già có thể đi xuyên qua tường, bay trên không trung, chữa lành  các bệnh tật, biến rượu thành nước, đọc được ý nghĩ của người khác... vị ấy được  phong tặng danh hiệu Siddha. Nhưng cũng vị sư Du-già ấy, nếu có  tia nhìn lấp lánh vẻ điên dại trong đôi mắt, bùn đất trét đầy thân thể, hát lên  những lời ngô nghê khiến người nghe phải rơi lệ... sự xuất hiện bất ngờ của vị ấy  khiến cho một đám đông đang ẩu đả phải chấm dứt ngay lập tức; vị ấy có thể khiến  cho một phụ nữ hiền thục đoan trang từ bỏ mái ấm gia đình, dùng bình bát là chiếc  sọ người, chuyện trò với các loài chim chóc, ngủ chung với người bệnh hủi, quở  mắng những kẻ mị dân và những người có hành vi trái với luân thường đạo lý, giữa  búi tóc bện dài hàng thước có đính một viên kim cương - biểu tượng cho sự kiên  cố và tánh bất hoại: vị ấy chính là Mahasiddha. Cho nên nếu chỉ căn cứ  vào hình tướng bên ngoài của các vị này, phàm phu không thể nhận biết được mục  đích của họ qua những hành động cử chỉ dị thường.
  Các vị siddha, hay Kim cương sư Mật  tông có thể xuất hiện trong nhiều hình tướng hoặc ở những địa vị xã hội  khác nhau. Có thể đó là một kẻ bán rong, một vị quan, một ông hoàng, tu sĩ, đày  tớ, nô lệ, hay một kẻ có cuộc sống lang thang đây đó, thậm chí có thể là một cô  gái lầu xanh.
  Tiếp đến là từ saddhana, có thể dịch  là “tu pháp”. Đó là hành động hợp nhất giữa thân, khẩu và ý do nguyện lực  của vị Bồ Tát. Saddhana còn là giới luật tu tập của một hành giả Du-già được thầy truyền trao. Saddhana cũng là nghi thức thiền định của một tu  sĩ đã được truyền giới. Như vậy, saddhana rất quan trọng đối với một Tantrika,  tức hành giả tu Mật tông. Trong thực tế, saddhana chính là toàn bộ  cuộc đời của hành giả. Vị này sẽ không thể thâm nhập vào saddhana một  khi còn vi phạm lời thệ nguyện lúc mới được khai tâm.
  Việc thực hiện saddhana phải hoàn  toàn dựa trên căn bản vô ngã để cống hiến toàn bộ cho sự giác ngộ và đem  tri kiến giải thoát này mà thành tựu đạo quả cho người khác.
  Trong ngôn ngữ Tây Tạng, saddhana được dịch là Sgrub Thabs, chỉ có nghĩa là “thành tựu pháp”, tức  là pháp môn tu tập để đạt tới đạo quả.
  Tùy theo nhân cách của từng vị mà saddhana của mỗi vị có phần khác nhau. Dù ý nghĩa hạn chế nhưng tựu trung thì các saddhana là những phương cách thiền định hoàn bị và sáng tạo. Mục đích rốt ráo của saddhana là Mahamudrasiddhi, nghĩa là Thần thông Đại thủ ấn.
  Siddhi bao gồm hai nghĩa là thần thông và sự  giác ngộ. Từ “giác ngộ” ở đây được định nghĩa là “nắm hiểu rốt ráo  tánh nhất quán của các pháp”, tức là tri kiến bất nhị về thật tánh của  các pháp.
  Trí phát sinh cùng lúc với Bi. Sự hội nhập  giữa Bi và Trí chính là Mahamudrasiddhi. Nhập vào Ba thân, có đủ Tứ  trí thì gọi là Mahamudra.
  Mahamudra là một thuật ngữ siêu hình khó  hiểu. Trong Tantra Mẹ (mother tantra), mahamudra là biểu  tượng của chân đế.
  Theo hệ phái Áo Vãi (Kargytpa)  hay là dòng Đại thủ ấn, mà tiêu biểu là các đạo sư Tilopa, Naropa và Marpa, thì Mahamudrasiddhi gồm 8 đại thần lực. Nhưng truyền  thuyết nói rằng ngài Bồ Tát Long Thụ truyền cho ngài A-xà-lê Long Trí 6  món thành tựu như sau: 
  1. Thấu suốt các pháp.
  2. Trí huệ thiện xảo.
  3. Biến hoá thần thông.
  4. Phương tiện thù thắng.
  5. Thần túc.
  6. Phép luyện đan dược trường sinh bất tử.
  Những pháp thuật như thế có thể được diễn  dịch một cách hình tượng về mặt văn chương tùy theo đức tin và trí tuệ của mỗi  chúng sinh. Do đó sự hiển lộ thần thông của một vị đạo sư như đi xuyên tường chẳng  hạn, chỉ là phương tiện để đem lại niềm tin vào pháp lực đối với kẻ kém trí,  nhưng đồng thời cũng chứng minh rằng bản chất của thực tướng cũng chỉ là hình  bóng, là ảo ảnh, là ánh sáng, là hư vô.
  Chúng ta cần hiểu rằng tất cả các pháp  thuật thần thông ấy đều dựa trên một nguyên lý cơ bản: “Các pháp đều do tâm  tạo.” Đối với một đạo sư không có sự phân tách riêng biệt giữa thân và tâm, giữa tinh thần và vật chất, giữa ta và người  khác.
  Vì thế nên các ngài có thể trực nhận được  đau khổ của người khác và có thể thực hiện các phép lạ bằng cách vận hành các  nguyên tố đất, nước, lửa, gió như những phương tiện cứu độ.
  Ngay cả một hành giả còn sơ cơ cũng có thể  đạt được một số thần thông trong lúc thiền định, nhưng quan trọng nhất là sau  khi xả thiền các thần thông ấy không bị mất. Đó mới chính là dấu hiệu của sự chứng  đắc.
  Hành giả phải khéo vận dụng các phương tiện  thiện xảo để an tâm mình và người khác, giúp cho các pháp lành tăng trưởng và  làm biến đổi ý thức một cách tự phát. Vì thần thông sẽ mất đi khi hành giả bị vọng  tưởng che lấp, còn trực giác nhạy bén do thiền định lâu ngày sẽ phát sinh.
  Trong Mật tông các thần lực được  tượng trưng bằng hình tướng của bốn thiên nữ (dakini) cai quản bốn  đại (đất, nước, lửa, gió).