Như chó dại dính mật ong nơi mũi
  Cuồng điên tìm vị ngọt khắp nơi nơi
  Hãy tiết lộ bí mật của một Lạt-ma
  Cho kẻ dại khờ kia hiểu rõ
  Với một con người nhạy cảm
  Ngộ được chân lý vô sinh
  Tia nhìn thoáng qua của một Lạt-ma
  Là tia chớp thanh tịnh
  Soi sáng và huỷ diệt ảo ảnh
  Như con voi đốn ngã quân thù
  Bằng chiếc vòi tựa gươm đao
  
Truyền thuyết
  Thuở nọ, tại đảo quốc Tích Lan (Śrỵ  Lanka), sau  khi quốc vương băng hà, theo truyền thống, thái tử thứ nhất sẽ kế vị vua cha.  Nhưng các quan thiên văn xét thấy rằng muốn đất nước được an bình thì cần phải  trao ngôi báu cho người con thứ. Vì vậy, vị hoàng tử trẻ tuổi nghiễm nhiên  thành người trị vì cả vương quốc Tích Lan. 
  Mặc dù sống trong cảnh lộng lẫy xa hoa,  được cung phụng đầy đủ các món ngon vật lạ, nhưng vị vua trẻ vẫn cảm thấy chán  chường quyền lực và sự giàu sang. Bởi xét cho cùng thì nhà vua chẳng được gì  thêm ngoài hai thứ ấy! Và niềm khao khát duy nhất của ngài là thoát khỏi cảnh  ràng buộc này.
  Rủi thay, trong lần đầu bỏ trốn, nhà vua  trẻ bị bắt lại và bị xiềng chặt vào chiếc ngai bằng một sợi xích vàng. Sau đó,  nhờ đút lót cho lính canh, nhà vua lại thoát ra khỏi hoàng cung cùng một người  hầu.
  Ngài đã tưởng thưởng một cách hào phóng  cho người hầu cận trung thành trước khi rời bỏ Tích Lan để tìm đến Ramesvaram,  nơi đức vua Rama đang trị vì. Tại đây, ngài đã đổi chiếc vương miện bằng  vàng để lấy một da dê và bộ vương phục quí giá để lấy một bộ quần áo rách nát.  Kể từ đó, ngài trở thành một đạo sĩ du phương.
  Vị đạo sĩ vốn là cựu vương này thân tướng  oai nghiêm đẹp đẽ nên không mấy khó khăn trong việc khất thực độ thân.
  Du hành khắp xứ Ấn Độ, cho đến một hôm  tình cờ ngài đặt chân đến vùng Phật tích Vajrasana, nơi xưa kia thái tử Tất-đạt-đa tu thành chánh quả. Tại đây, ngài được gặp các nữ Du-già hành giả (Dakini)  truyền cho tâm pháp.
  Rời Vajrasana, ngài đi đến Pataliputra (thành Hoa-thị), kinh đô của nhà vua nằm ven bờ sông Hằng. Ban ngày ngài đi khất  thực, đêm về nghỉ ngơi nơi mộ địa.
  Một bữa nọ, trong khi đi khất thực ngài  tình cờ dừng chân trước ngưỡng cửa của một thanh lâu. Chính nghiệp lực của ngài  đã dun rủi đưa đến sự kỳ ngộ này.
  Một cô kỹ nữ lầu xanh mà trong tiền kiếp  từng là một dakini chăm chú nhìn vị đạo sĩ một hồi lâu rồi thốt lên rằng:  “Các căn của ông quả là khá thanh tịnh, chỉ hiềm một nỗi tính kiêu mạn vi tế về  dòng dõi hoàng tộc vẫn còn phảng phất trong ông.”
  Nói xong, cô đổ một ít cháo ôi thiu vào  bình bát của ngài.
  Đi được một quãng, vị đạo sĩ trút thứ  cháo lỏng bỏng đã hôi thối không còn ăn được nữa xuống một rãnh nước ở ven đường.  Cô gái nhìn theo thấy vậy bèn quát lên một cách giận dữ: “Làm thế nào ông có thể  đạt đến Niết-bàn khi tâm ông còn phân biệt sự dơ sạch của thức ăn? ” 
  Nghe lời trách mắng như thế, vị đạo sĩ cảm  thấy xấu hổ và chợt nhận ra rằng ngài chưa hoàn toàn dứt trừ hết các phiền não  trong tâm. Và ngài nhận thức được rằng tâm suy lường phân biệt là trở ngại  chính khiến ngài khó đạt tới Phật tính.
  Ngài liền đi về phía sông Hằng, liên tục  thiền quán ròng rã suốt 12 năm để diệt vọng niệm phân biệt và các kiến chấp.
  Hằng ngày, ngài đi quanh bờ biển lượm các  ruột cá mà ngư dân vứt bỏ rải rác. Pháp tu của ngài là vận tâm quán tưởng thứ  ruột cá tanh hôi đến tởm lợm ấy trở thành một loại tiên dược thanh khiết. Ngài  quán chiếu các pháp thế gian là duyên hợp, bản chất của chúng chỉ là một sự rỗng  không.
  Bởi hạnh tu ấy, nhân dân quanh vùng gọi  ngài là Luipa, có nghĩa là “người ăn ruột cá”.
  Sau 12 năm tinh cần tu luyện, ngài Luipa đã chứng đắc thần thông và giác ngộ. Ngài trở thành một vị Guru nổi tiếng, và  trong các truyền thuyết về Darikapa và Dengipa cũng có nhắc đến  ngài.
  Hành trì
  Truyền thuyết về ngài Luipa đã  khôi phục lại một số sự kiện trùng lắp gần giống như trường hợp của đức Phật Thích-ca  Mâu-ni. Luipa là một vị vua từ bỏ ngai vàng và các thú vui ngũ dục để  đi tìm sự giác ngộ, và ngài cũng đã ra đi trong một đêm tối cùng với một người  hầu, để rồi sau đó trở thành một tu sĩ. Cả hai đều đánh đổi vương miện và hoàng  bào để lấy một bộ y phục tồi tàn của dân nghèo. Điều ấy nói lên quyết tâm từ bỏ  địa vị cao sang để đi tìm chân lý giải thoát.
  Có điều là Luipa đã sinh ra vào thời  kỳ Phật không còn tại thế. Do đó ngài không gặp Phật để được người trực tiếp  trao truyền giới luật và được hướng dẫn các pháp tu đơn giản nhưng có hiệu quả  lớn.
  Để có thể đoạn trừ tạp nhiễm vi tế, vị Kim  cương Thánh nữ đã đưa ra phương pháp giải trừ các kiến chấp phân biệt trong  tâm của Luipa, vì đó là nguyên nhân đưa hành giả trở lại sáu nẻo luân hồi.  Tuy nhiên, muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi trong hiện kiếp cần phải có pháp  môn thù thắng khế hợp với căn cơ của hành giả.
  Luipa được xem là bậc thầy của Tantra Mẹ,  nhưng khai ngộ cho ngài lại là một kỹ nữ mà trong tiền kiếp vốn là một nữ Du-già hành giả (Dakini).
  Vị Dakini đã thấu suốt được tâm  kiêu mạn vi tế về dòng dõi, chủng tộc, đẳng cấp còn đọng lại trong tâm của Luipa,  nên qua cách cúng dường cháo thiu bà đã gián tiếp chỉ cho ngài pháp môn đối trị: Pháp môn dùng thức ăn bất tịnh.
  Để đạt tới tâm siêu xuất, cần nuôi dưỡng  và kết thân với cái mà ta căm ghét nhất. Cách tu tập này hình thành tâm bất nhị,  không phân biệt, bởi vì phải biến mọi kiêu hãnh, phân biệt, định kiến thành những  hạnh lành, giống như ngài Luipa biến ruột cá tanh hôi thành tiên dược.
  Nếu hành giả không lãnh hội được chân  tính rỗng không thường hằng trong từng xúc niệm liền lập tức rơi vào đối đãi  phân biệt, mà cảnh giới nhị phân là cảnh giới của sáu nẻo luân hồi.
  Để đạt tới cảnh giới Niết-bàn bất  nhị, cần phải đạt được tâm bất nhị. Bởi nhờ nơi tâm bất nhị mà hành giả có thể  nhận rõ được mùi vị chung của tất cả các pháp. Mùi vị ấy là mùi vị giải thoát  thanh tịnh. 
  Xem xét pháp tu của ngài Luipa, ta  sẽ thấy được rõ hơn nếu hiểu được cá biểu trưng cho điều gì trong xã hội  của thời ấy.
  Trước hết, cá cũng là một chúng sinh hữu  tình. Đối với đạo Bà-la-môn, ăn cá đồng nghĩa với sự chối đạo vì ruột cá  là thức ăn chỉ dành cho chó mà thôi. Và trong Vật tổ giáo (Totem),  chó là giống thấp hèn nhất.
  Thực hành một pháp tu như vậy vào thời ấy, Luipa trở thành một hạng người dơ bẩn, hạ tiện, không ai có thể đến gần  hay tiếp xúc. Ăn ruột cá là một cách tự sỉ nhục mình nhằm xoá bỏ tất cả những vết  tích về dòng dõi, sự giàu sang và các đặc quyền trước kia trong sâu thẳm của hiện  hữu kiêu mạn vi tế núp mình trong đó, cái mà hành giả Luipa cần phát hiện.
  Mặc dù pháp môn tu tập của ngài Luipa không được mô tả đầy đủ ở đây nhưng ta thấy rằng định lực của ngài đã biến chuyển  được thế giới riêng của ngài. Luipa là chủ tể của cái thế giới mà ngài  kiến lập.
  Sử liệu
  Truyền thuyết vừa kể là căn cứ duy nhất  xác định ngài Luipa đã sinh ra ở Tích Lan, và như vậy lẽ ra các văn bản  của Singhaladvipa nhất định phải có đề cập đến. Nhưng vào thời ấy có nhiều  vương quốc nằm trên vùng tiểu lục địa gọi là Singhaladivpa, trong đó có  một vương quốc giáp ranh với Oddiyana mà nhiều nguồn tư liệu khác cho là  nơi ngài Luipa đã sinh ra.
  Trong một tài liệu khác do học giả Buston chép lại, Luipa là con của đức vua Lalitacandra của xứ Oddiyana.  Khi còn là một thái tử, ngài Luipa có cơ duyên gặp được đạo sư Savaripa,  vốn là đệ tử của ngài Saraha. Đạo sư Savaripa truyền tâm ấn cho  ngài Luipa trong một buổi lễ trà tỳ (lễ thiêu xác). Sau khi được  truyền tâm ấn, Luipa rời Oddiyana và thực hành hạnh đầu đà. Cuối  cùng ngài đến bờ sông Hằng, suốt ngày thiền định bên cạnh một đống ruột cá thối.  Ngài trụ tâm vào một điểm duy nhất (sustained one pointed meditation)  cho đến lúc đắc pháp.
  Hai nhân vật nổi tiếng khác là Darikapa và Dengipa đã mô tả ngài Luipa như một đại sư vô uý, vô ngại, và  là sơ tổ của pháp môn Tantra Ấn Độ. Theo hai vị sư học giả này, ngài Luipa vốn là quan văn ở kinh đô Maharaja, xứ Bharendra, dưới triều vua Dharmapala.  Thuyết này nói rằng khi đạo sư Savaripa du hoá tại kinh đô Maharaja,  ngài nhận ra Luipa là người hội đủ điều kiện lãnh hội huyền môn của ngài  nên ngài đã truyền pháp Kim cương Mạn-đà-la cho Luipa.
  Theo chứng cứ lịch sử, ngài Luipa sinh cùng thời với hoàng đế Dharmapala (770-810) Nếu ngài Luipa thọ pháp vào cuối thế kỷ 8 hoặc vào đầu thế kỷ 9, ta có thể ước tính niên hiệu  của các đạo sư khác như Darikapa, Dengiea, Dombi Heruka vì họ đều là môn đồ của Luipa.
  Nhưng nếu ngài Luipa sinh vào thế  kỷ 8 thì không thể đồng thời với Minapa và Macchendrannath, mặc  dù có những sự kiện trùng lặp, chẳng hạn như tên của các vị ấy theo Phạn ngữ đều  có nghĩa là “cá”. Cả hai vị đều thuộc hệ phái Yogini Tantra (Luipa thuộc chi phái Samvara, ngài Minapa thuộc chi phái Yogini  Kanda).
  Thật ra Minapa xuất thân từ phái Naith  Saiva (thờ thần Siva) và đạt danh hiệu adi-guru, còn ngài Luipa không liên quan gì đến giáo phái Hindu mặc dù môn thiền quán của ngài có  đặc tính của phái Sakta (Đại Mẫu).
  Sở dĩ tên tuổi của ngài Luipa được  đưa vào đầu danh sách của 84 vị đại sư Đại thủ ấn vì tác giả cho rằng  ngài Luipa chính là vị pháp sư đầu tiên của phái Đại thủ ấn.
  Vị thứ hai đứng vào vị trí này là Saraha.  Theo tuổi tác thì Luipa sinh ra sau Saraha. Mặt khác, xét theo địa  vị và pháp lực, uy danh của Saraha rất lừng lẫy trong lãnh vực văn  chương, nhưng tên ngài Luipa lại gợi lên ý nghĩa đại trí lực. Chính đại  trí lực ấy tạo cho ngài sức thần thông quán chúng.
  Cả Saraha và Luipa đều xuất  thân từ phái Samvara Tantra, nhưng chính Luipa được nhận  danh hiệu Guhyapati, tức là Bí mật Pháp sư, đưa ngài vào địa vị của  một adi-guru trong hệ phái Samvara Tantra. Môn đồ của dòng  tu này đều tu tập theo phương pháp của Luipa. Hơn nữa, Luipa được Kim cương Thánh nữ (Dakini Vajra Varahi) trực tiếp khai ngộ.
  Nếu ngài Luipa nhận được sự thiên  khải có nguồn gốc từ Samvara Tantra tại Oddiyana, vốn là  vùng đất sản sinh ra nhiều chi phái Tantra thuộc Tantra Mẹ,  thì chính ngài có nhiệm vụ hoằng dương pháp môn này ở vùng Đông Ấn.
  Cho dù nguồn gốc của chi phái Tantra này như thế nào thì Luipa cũng vẫn là biểu tượng của điều mà ngài Sahara tôn thờ. Điều này đã được khẳng định trong các bài đạo ca do Sahara trước  tác.
  Chính phương pháp tu tập của ngài Luipa đã trở thành nguồn cảm hứng và khuôn mẫu tu tập cho những đạo sư lẫy lừng khác  như Kambala, Ghantapa, Indrabhuti, Jalandhara, Krsnacarya, Tilopa và Naropa. Tất cả các vị đạo sư này đều thọ trì pháp môn của Luipa, và Marpa Dopa đã truyền dòng Tantra này vào Tây Tạng  mà phái Kahygu vẫn còn gìn giữ tu tập cho đến ngày nay.
  Mặc dù Luipa theo Tạng ngữ nghĩa  là “người ăn ruột cá” (Nya Ito zhabs), nhưng có lẽ từ này có nguồn  gốc từ chữ lohita trong tiếng Bengal cổ, là tên của một loài cá.  Và vì thế Luipa cũng đồng nghĩa với các từ như Minapa và Macchendra, Matsyendra. Ngoài ra, tên gọi này còn có nhiều dạng khác nữa như là Luhipa, Lohipa, Luyipa, Loyipa.