Tuy rời khỏi cảng New York vào ngày 17 tháng 12 năm 1878, nhưng chúng
tôi vẫn chưa ra khỏi hải phận Mỹ cho đến trưa ngày 19, vì bị nước ròng
vào ngày 18 và tàu phải bỏ neo ở vịnh Lower Bay để chờ nước lên.
Bạn đọc hãy thử tưởng tượng tâm trạng của bà Blavatsky! Bà quở trách,
quát tháo vị thuyền trưởng, viên hoa tiêu, các kỹ sư, chủ tàu, và cả
những con nước thủy triều lên xuống!
Sau hơn hai tuần vượt Đại Tây Dương, vào ngày đầu năm 1879, tàu chúng
tôi tiến vào hải phận Anh trong một biển sương mù dày đặc, cũng giống
như cái tương lai hãy còn mờ mịt của chúng tôi. Sáng hôm sau, tàu cập
bến Gravesend.
[2] Tại đây chúng tôi đáp xe lửa đi
London, và thế là kết thúc giai đoạn đầu của cuộc hành trình.
Đến thủ đô Anh quốc, chúng tôi được tiến sĩ Billing và phu nhân tiếp đón
nồng hậu tại tư gia của họ ở vùng ngoại ô Norwood Park. Ngôi nhà này đã
trở thành trung tâm qui tụ tất cả những bạn đạo và thư tín viên của
chúng tôi ở London kể từ lúc đó.
Ngày 15 tháng 1, tôi chủ tọa một phiên họp của xứ bộ Thông thiên học Anh
quốc để bầu cử một Ban chấp hành và bàn về nhiều vấn đề linh tinh khác.
Thời gian chúng tôi ở London hoàn toàn bận rộn với những công việc của
Hội, tiếp khách và viếng thăm Viện Bảo Tàng Anh cùng nhiều nơi khác.
Ngoài ra cũng có những dịp biểu diễn phép mầu của bà Blavatsky và những
buổi họp đàn với bà Hollis-Billing và một vong linh mệnh danh là “Ski”
mà toàn thể giới Thần linh học đều biết.
Diễn biến kỳ diệu nhất trong thời gian chúng tôi ở London là việc gặp gỡ
một vị chân sư khi tôi và hai bạn đạo cùng nhau dạo chơi trên đường
Cannon Street.
Sáng hôm đó, sương mù dày đặc đến nỗi người ta không nhìn thấy bờ bên
kia đường, và cả thành phố đều hoàn toàn mờ mịt. Hai bạn tôi nhìn thấy
ngài trước nhất, còn tôi lúc ấy mải lo nhìn quanh nên không để ý. Khi
hai bạn tôi thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên, tôi mới quay đầu nhìn lại
và bắt gặp cái nhìn của chân sư. Khi ấy ngài cũng vừa quay đầu nhìn lại
đằng sau.
Tôi nhận ra ngài không phải như một người quen biết thường, mà là nhận
ra gương mặt của một đấng cao cả, vì gương mặt ấy khi người ta đã gặp
một lần thì không bao giờ có thể lầm lẫn. Cũng như ánh sáng huy hoàng
chói rạng của mặt trời so với ánh sáng nhẹ nhàng êm dịu của mặt trăng,
vốn có một sự khác biệt rõ ràng giữa sự sáng sủa dịu hiền trên gương mặt
một người hiền lương của thế tục so với sự xán lạn huy hoàng rực rỡ trên
gương mặt của một vị chân sư, vì gương mặt ấy phản ảnh cái ánh sáng bên
trong của một tinh thần đã thức tỉnh về phương diện tâm linh và hoàn
toàn giải thoát.
Chúng tôi ba người cùng dạo chơi trong thành phố và cùng về một lượt,
nhưng khi vừa bước vào nhà thì đã nghe bà Billing và bà Blavatsky nói
cho chúng tôi biết rằng chân sư đã đến đây và ngài có nói đã gặp chúng
tôi đi chơi ngoài phố. Ngài cũng có nêu tên cả ba người.
Câu chuyện của bà Billing thuật lại rất thú vị. Bà nói rằng cửa trước
vẫn đóng và khóa chặt như thường lệ, và không ai có thể vào nhà mà không
reo chuông báo hiệu. Tuy nhiên, khi bà rời khỏi phòng khách đi qua hành
lang để đến phòng bà Blavatsky thì bà suýt đụng phải một người lạ mặt
hình dung cao lớn, đứng sững ngoài hành lang trước cửa buồng của bà
Blavatsky.
Bà mô tả người ấy như là một người Ấn Độ có tác phong cao quý, với đôi
mắt sáng và cái nhìn như soi thấu lòng người. Lúc ấy bà ngạc nhiên đến
nỗi không thốt ra được môt lời nào, nhưng người lạ mặt nói: “Tôi muốn
gặp bà Blavatsky”, và tiến về phía cửa phòng của bà Blavatsky.
Bà Billing đích thân mở cửa cho ngài và mời ngài vào. Ngài bước vào
phòng, tiến đến gần bà Blavatsky, chào bà theo cung cách của người
phương Đông, và bắt đầu nói chuyện với bà Blavatsky bằng thứ ngôn ngữ
hoàn toàn xa lạ đối với bà Billing, tuy rằng bà này, với tư cách một
người đồng tử công cộng với nhiều năm thực nghiệm, đã từng tiếp xúc với
đủ mọi hạng người của nhiều xứ khác nhau.
Lẽ tự nhiên là bà Billing đứng dậy để bước ra ngoài, nhưng bà Blavatsky
mời bà ở lại và bảo bà đừng để ý về việc hai người nói chuyện với nhau
bằng một thổ ngữ lạ, vì họ cần thảo luận với nhau về một việc đạo sự
trên phương diện huyền linh. Tôi không biết là người khách Ấn Độ bí mật
này có trợ giúp thêm thần lực cho bà Blavatsky hay không, nhưng khi ngồi
vào bàn ăn tối hôm đó, bà làm cho vị nữ gia chủ rất vui mừng thích thú
khi thò tay xuống dưới mặt bàn rồi lấy lên một ấm trà Nhật Bản bằng sứ
rất đẹp, dường như là theo lời yêu cầu của chủ nhà, tuy rằng tôi không
chắc lắm về chi tiết này.
Ngày 15 tháng 1, chúng tôi sửa soạn đến Liverpool để đáp tàu “Speke
Hall” đi Ấn Độ qua ngã Địa Trung Hải, Hồng Hải và Ấn Độ Dương rồi thẳng
vào Bombay.
Đúng một tháng sau, ngày 15 tháng 2, chúng tôi đã vào hải phận Ấn Độ và
sáng hôm sau tàu cập bến hải cảng Bombay.
Đêm hôm đó, tôi đã ngồi trên boong tàu đến một giờ sáng để ngắm nhìn bầu
trời xanh biếc hùng vĩ của xứ Ấn Độ, và căng mắt nhìn lên bờ để mong
thấy được ánh sáng đầu tiên của thành phố Bombay.
Sau cùng, từ xa một ngọn đèn nhỏ xuất hiện trên mặt biển, và tôi liền
trở về ca-bin để thân xác mỏi mệt được nghỉ ngơi chờ đón những công việc
của ngày mai.
Trước khi mặt trời mọc, tôi lại trở lên boong tàu, và khi chiếc tàu lướt
trên mặt nước, tôi ngắm nhìn và thưởng thức cảnh tượng hải cảng Bombay
hiện ra trước mắt tôi. Động Voi (Elephanta Cave) ngay trước mặt là địa
điểm đầu tiên mà chúng tôi muốn xem, vì đó là kiểu mẫu điển hình của xứ
Ấn Độ cổ xưa, tức đất Thiên Trúc thiêng liêng cổ kính của muôn đời
(Bharata-Varsha) mà chúng tôi vẫn kính ngưỡng tận đáy lòng và ước mong
được nhìn thấy sự phục sinh nơi xứ Ấn Độ ngày nay.
Nhưng than ôi! Khi chiếc tàu lượn vòng quanh ngọn đồi Malabar Hill thì
mơ ước của chúng tôi liền tiêu tan như mây khói. Cảnh tượng mà chúng tôi
thấy ngay trước mắt là một xứ Ấn Độ tân thời với những dinh thự, lầu đài
nguy nga tráng lệ, lồng trong cái bối cảnh xinh tươi của những công viên
được chăm sóc lịch sự theo kiểu mẫu du nhập từ Anh quốc, và bao phủ bằng
tất cả những dấu hiệu của sự giàu có sung mãn thu hoạch được bằng các
dịch vụ kinh doanh thương mãi!
Xứ Tây Vực cổ kính của Elephanta
[3] xa xưa nay đã
bị xóa nhòa bởi sự lộng lẫy huy hoàng của một nền kiến trúc mới, trong
đó triết học và tôn giáo không có dự phần, và lòng tôn sùng nhiệt thành
nhất được đặt vào hình ảnh của thần tượng Nữ hoàng trên tờ giấy bạc
Ru-pi!
Bây giờ chúng tôi đã quen với thực trạng, nhưng lần đầu tiên thì cảnh
tượng đó đã gây cho chúng tôi cảm giác đau lòng của sự thất vọng chua
cay. Tàu chưa bỏ neo cập bến thì đã có ba người Ấn sắc phục chỉnh tề đến
tìm chúng tôi. Đó là Mulji Thackersey, Krishnavarma và Sitaram, đã gia
nhập Hội Thông thiên học bằng thư từ và được cấp chứng thư của Hội. Ba
người này đã ngủ đêm trên một chiếc ca-nô nhỏ để đợi tàu cập bến và lấy
làm vui mừng được tiếp đón chúng tôi, cũng như chúng tôi rất vui mừng
khi được đến đất nước của họ.
Chúng tôi bốn người cùng xuống ca-nô với họ để vào bờ. Khi vừa lên đất
liền, cử chỉ đầu tiên của tôi là cúi rạp xuống hôn bậc tam cấp bằng đá,
một hành động chiêm bái do bản năng tự nhiên thúc đẩy! Đây là giờ phút
chờ đợi từ lâu, chúng tôi đã thật sự được đặt chân lên dải đất thiêng
liêng, nơi đất lành của các chân sư, quê hương của các tôn giáo cổ từ
nghìn đời, xứ sở của những huynh đệ đồng môn cùng một lý tưởng tâm linh
với chúng tôi, và được cùng sống chết với họ là tất cả những gì chúng
tôi có thể mong ước.
Tất cả những gì người ta nói với chúng tôi trên tàu về những thói hư,
tật xấu của người Ấn như sự nhu nhược tinh thần, thói a dua, nịnh hót,
bợ đỡ, sự bất trung bất tín... đều đã bị quên hết cả. Đó là vì chúng tôi
thương yêu họ, vì những truyền thống tổ tiên của họ, và thậm chí còn vì
những điểm thiếu sót bất toàn của họ nữa. Nói đúng hơn, chúng tôi sẵn
lòng thương yêu họ bất luận họ là như thế nào. Ít nhất là đối với tôi,
cái cảm nghĩ đó vẫn còn nguyên vẹn cho đến tận ngày nay. Tôi cảm thấy
thật sự rằng dân tộc họ là dân tộc của tôi, quê hương xứ sở họ là quê
hương xứ sở của tôi: ước mong sao những ân huệ của các đấng chân sư minh
triết luôn luôn đến với họ và che chở họ mãi mãi!