Ngày 29 tháng 9, bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi cùng đi dạo chơi trên
đỉnh một ngọn đồi ở vùng chung quanh. Trên nóc lợp ngói của một ngôi
miếu nhỏ của Ấn giáo tại đó, giữa vô số những chữ khắc tên họ của du
khách bốn phương đến viếng, tôi nhận thấy có một chữ khắc ám hiệu của
Chân Sư M. với tên tôi ở dưới, nhưng do đâu mà có chữ đó thì tôi cũng
không biết.
Khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, bà Blavatsky nhân lúc cao hứng, mới
hỏi chúng tôi có ai mơ ước điều gì không? Bà Sinnett nói: “Tôi muốn có
một thông điệp của chân sư rơi xuống ngay chỗ tôi ngồi.”
Bà Blavatsky bèn lấy từ trong quyển sổ tay bỏ túi của bà một tờ giấy màu
hồng, dùng ngón tay vẽ lên đó vài phù hiệu bí mật, xếp tờ giấy thành
hình ba góc, cầm nó trong tay đi xuống sườn đồi cách đó độ hai mươi
thước, day mặt về hướng tây, đưa tay vẽ một đạo bùa trên không gian, xòe
cả hai bàn tay ra, và tờ giấy kia liền biến mất. Thay vì nhận được thư
trả lời rơi xuống chỗ bà đang ngồi, bà Sinnett nhận thư bằng cách trèo
lên một cái cây ở gần bên. Thông điệp ấy được viết trên tờ giấy màu hồng
lúc nãy, cũng xếp thành hình ba góc, và mắc vào một nhánh nhỏ trên cây.
Trên tờ giấy có chữ viết do một bàn tay lạ, để trả lời một câu hỏi riêng
tư của bà Sinnett, và do chân sư K. H. ký tên bằng chữ Tây Tạng.
Bây giờ tôi xin kể một chuyện khác. Một nhóm chúng tôi gồm sáu người, ba
người nam và ba người nữ, sửa soạn từ nhà ra đi trong một cuộc du ngoạn
dưới một thung lũng cách xa thành phố. Người quản gia của gia đình
Sinnett đã sắp đặt các giỏ mây đựng đồ vật thực, và đã gói vào trong giỏ
sáu bộ chén dĩa kiểu lạ để dùng trà. Khi chúng tôi sắp sửa ra đi thì một
người khách đến thình lình, và cũng được mời cùng đi với chúng tôi.
Những người giúp việc đã xách các giỏ mây đi trước, còn chúng tôi từ từ
đi sau theo hàng một, trên con đường mòn gồ ghề khúc khuỷu đưa xuống
thung lũng. Sau một chuyến đi bộ dạo chơi thong thả, chúng tôi đến một
chỗ bằng phẳng trên sườn một dãy đồi cỏ cây sầm uất, với những cây cổ
thụ to lớn có tàn cây che mát rượi.
Chúng tôi bèn cắm trại ở đây, và nằm ngồi rải rác trên bãi cỏ xanh,
trong khi những người giúp việc dọn chỗ trên bãi cỏ và bày đồ vật thực.
Họ vừa nhóm lửa nấu nước pha trà, thì thấy người quản gia vẻ mặt băn
khoăn bước đến gần bà Sinnett và thưa với bà rằng còn thiếu một bộ chén
dĩa cho ông khách mới đến vào phút chót. Bà nói với một giọng bực mình:
– Anh thật là lơ đễnh, sao không nhớ đem thêm một bộ chén dĩa nữa khi
anh biết rằng ông khách ấy cũng sẽ dùng trà như mọi người?
Kế đó bà quay lại với chúng tôi và vừa nói vừa cười:
– Hình như trong các bạn chắc phải có hai người uống chung một cốc.
Lúc ấy tôi mới nói rằng, trước đây trong một trường hợp tương tự, chúng
tôi đã giải quyết vấn đề bằng cách đưa cái chén cho một người và cái dĩa
cho người kia. Đến đây, một người trong nhóm mới nói đùa với bà
Blavatsky:
– Bây giờ, thưa bà, đây là một cơ hội để cho bà thực hiện phép mầu.
Tất cả chúng tôi bất giác cười lớn vì câu nói đùa bỡn vô lý đó, nhưng
khi thấy bà Blavatsky có vẻ sẵn lòng chấp nhận thì mọi người đều hoan hô
thích thú, và yêu cầu bà làm ngay lập tức. Những người nằm trên bãi cỏ
cũng đã đứng dậy và tề tựu chung quanh. Bà Blavatsky nói rằng để làm cái
việc này, bà cần có sự trợ giúp của Thiếu tá X., một bạn hữu của chúng
tôi cũng đang có mặt lúc ấy.
Ông này tỏ vẻ bằng lòng. Bà yêu cầu ông đemtheo một đồ dụng cụ để đào
đất; ông ta bèn chụp lấy con dao lớn đựng trong giỏ và đi theo bà. Bà
Blavatsky nhìn chăm chú trên mặt đất, đưa mặt chiếc nhẫn lớn của bà đeo,
chiếu xuống chỗ nọ chỗ kia, và sau cùng bà nói: “Ông hãy đào ở chỗ này.”
Ông khách ra tay đào xới, và nhận thấy rằng phía dưới lớp cỏ xanh che
phủ mặt đất là một hệ thống chằng chịt những rễ cây của những cây lớn
nhỏ ở gần bên. Ông ta cắt những đám rễ và lôi ra từng nắm, kéo đất rời
qua một bên, và đụng phải một vật màu trắng. Thì ra đó là một cái chén
sứ uống trà nằm trong lòng đất, và khi ông ta lấy cái chén ra thì thấy
nó thuộc cùng một kiểu giống y như sáu cái chén kia.
Hãy tưởng tượng những tiếng kêu ngạc nhiên và xúc động của nhóm người
đứng xem chung quanh! Bà Blavatsky bảo ông kia hãy tiếp tục đào nữa ở
chỗ ấy, và sau khi ông này đã cắt bỏ và kéo ra một rễ cây lớn bằng ngón
tay út của tôi, ông ta lôi ra một cái dĩa cũng cùng một kiểu với những
bộ chén dĩa khác. Điều này làm cho cả bọn xúc động đến cực điểm, và ông
khách sử dụng con dao lại là người kêu to ầm ĩ nhất vì ngạc nhiên và
khoái trá.
Khi cuộc đi chơi kết thúc và chúng tôi trở về nhà, bà Sinnett và tôi
cùng đi thẳng đến cái tủ đựng chén để kiểm điểm lại, thì thấy bốn bộ
chén dĩa uống trà bỏ sót lại ở nhà vẫn còn nguyên, cùng với sáu bộ đem
theo là tất cả mười bộ. Thế là bộ thứ bảy do bà Blavatsky tạo thêm trong
cuộc đi chơi, không phải ở trong số mười bộ chén của bà Sinnett.
Nếu có kẻ hoài nghi đưa ra giả thuyết rằng bộ chén sau cùng này có thể
đã được chôn dấu từ trước để lòe bịp chúng tôi, thì sự thật hiển nhiên
đã đính chính ngay điều ấy. Mọi người có mặt đều nhìn thấy rõ rằng bộ
chén dĩa ấy nằm gọn trong lòng đất y như những mảnh đá vụn, giữa những
rễ cây mọc dọc ngang chằng chịt như mạng lưới, phải dùng sức mạnh và dao
bén để chặt đứt và bứng ra một cách mạnh mẽ mới lôi bộ chén dĩa kia ra
được. Lớp cỏ trên mặt đất ở chỗ ấy vẫn xanh tươi và không có dấu hiệu gì
khả nghi, và nếu có ai đã đào đất lên để chôn bộ chén dĩa từ trước, thì
mặt đất bị đào xới đã không thể nào thoát khỏi cái nhìn nhận xét tinh vi
của toàn thể quan khách đứng vây chung quanh trong khi ông thiếu tá ra
tay làm việc.
Sau buổi ăn trưa, bà Blavatsky còn làm một phép mầu khác, nó làm tôi
ngạc nhiên hơn cả. Một trong những vị khách nói rằng ông ta sẵn lòng gia
nhập Hội Thông thiên học nếu bà Blavatsky có thể làm ngay tại chỗ cho
ông ta một chứng chỉ Hội viên đã hoàn tất mọi thủ tục. Đó hẳn là một yêu
cầu quá đáng, nhưng bà bạn tôi không hề e ngại, đưa tay khoát một cái
trên không trung, và chỉ vào một bụi rậm cách đó một khoảng ngắn, bà bảo
người kia hãy đến đó xem có gì không, vì cây và bụi rậm thường được dùng
làm các trạm phát thư tín. Người khách kia vừa cười vừa đi đến chỗ bụi
rậm, dường như không tin tưởng lắm về kết quả mong ước. Nhưng khi đến
nơi, ông ta rút ra từ trong bụi rậm một chứng chỉ hội viên bằng chữ in
có ghi tên họ của ông và ngày tháng hôm đó, với một bức thư chính thức
của vị Hội trưởng, mà tôi biết chắc rằng tôi không hề viết, nhưng lại
viết bằng chính tuồng chữ của tôi!
Điều này làm cho tất cả mọi người đều hoan hô vui vẻ, và vì bà Blavatsky
đang nhân lúc cao hứng, nên dường như không một phép lạ nào khác mà bà
không làm cho chúng tôi xem. Những màn biểu diễn phương thuật của bà
Blavatsky đã có kết quả là làm cho nhiều nhân vật người Âu có thế lực đã
gia nhập Hội Thông thiên học, và biểu lộ một lòng ưu ái đầy thiện cảm
đối với bà bạn của tôi.
Ngày 7 tháng 10, tôi thuyết trình về đề tài: “Thần linh học và Thông
thiên học” tại hội trường của Viện Phụng sự hợp nhất (United Service
Institution). Tôi được cho biết rằng số thính giả hôm ấy gồm một cử tọa
đông đảo nhất chưa từng thấy tại Simla.
Tối hôm đó tôi được mời tham dự buổi dạ tiệc tiếp tân của vị Phó vương
Anh là Lord Ripon tại Dinh Chính phủ và được nhiều bạn hữu đến chúc
mừng, khen tặng tôi về buổi diễn thuyết và về những mối giao tế được cải
thiện tốt đẹp với Chính phủ Anh Ấn.
Hằng ngày chúng tôi đều bận rộn tiếp khách. Bà Blavatsky vẫn tiếp tục
thực hiện các hiện tượng huyền bí đến mức làm cho một nửa dân số Simla
tin rằng bà được sự “trợ giúp của Quỷ vương (Satan)”. Một viên sĩ quan
Anh trong nhóm quan khách cũng đã không ngần ngại mà nói thẳng với bà
như vậy.
Chiều hôm đó, ông Hume đưa cho bà bức thư đầu tiên để nhờ bà chuyển đạt
lên chân sư K. H. Đó là bước khởi đầu một cuộc trao đổi thư từ vô cùng
thú vị giữa ông với chân sư, thỉnh thoảng vẫn được mọi người nhắc đến.
Những ngày cuối cùng của chúng tôi ở Simla vẫn còn tiếp nối những buổi
dạ tiệc tiếp tân và những cuộc đi du ngoạn ngoài thành phố. Trong những
dịp đó một vài màn biểu diễn phép thuật của bà Blavatsky đã làm cho các
quan khách thích thú đến cực điểm.
Ngày hôm đó, bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi đang ngồi đợi ông Sinnett
tại phòng khách. Các bà ngồi chung với nhau trên chiếc đi-văng. Bà
Sinnett cầm tay bà Blavatsky để ngắm nhìn đến lần thứ hai mươi và trầm
trồ khen ngợi một chiếc nhẫn kim cương màu vàng rất đẹp, vốn là món quà
tặng của bà Wijeratne, vợ một nhà thầu giàu có ở tỉnh Galle trong dịp
viếng thăm của chúng tôi đến Tích Lan trong năm ấy. Đó là một hạt kim
cương loại rất hiếm và quý giá, long lanh chớp sáng và chiếu ra những
tia sáng chói lấp lánh.
Bà Sinnett đã có lần yêu cầu bà Blavatsky dùng phép thuật tạo thêm cho
bà một bản sao của hạt kim cương ấy, nhưng bà này không hứa gì cả. Tuy
nhiên, lần này bà chịu làm. Bà Blavatsky dùng hai ngón của bàn tay kia
xoa lên hạt đá quý độ một lúc, kế đó bà ngừng tay và để lộ chiếc nhẫn
đeo trên bàn tay bên này. Nằm sánh đôi với hạt kim cương của bà đeo,
giữa ngón tay đeo nhẫn và ngón tay bên cạnh là một hạt kim cương khác
cũng màu vàng, tuy không chói sáng bằng hạt của bà, nhưng cũng là một
hạt kim cương rất đẹp. Bà liền tặng hạt kim cương ấy cho bà Sinnett. Cho
đến bây giờ, món bảo vật ấy vẫn còn là sở hữu của bà bạn quí mến của
chúng tôi.
Buổi cơm tối hôm đó, bà Blavatsky không ăn gì cả, nhưng trong khi mọi
người đang dùng bữa thì bà ngồi sưởi ấm hai bàn tay trên dĩa bàn đựng
nước nóng đặt trước mặt bà. Độ một lát, bà xoa hai bàn tay và chà xát
thật mạnh thì thấy có hai hạt ngọc bích nhỏ rơi xuống dĩa.
Hiện tượng làm cho xuất hiện các loại đá quý này cũng rất thường xảy ra
với Stainton Moses, người bạn Anh mà chúng tôi có đề cập tới trong quyển
hồi ký trước đây. Đôi khi, các loại đá quý nhỏ rơi xuống như mưa trên
người ông ta và rơi khắp phòng, có khi là vài viên ngọc thạch lớn. Người
Đông phương nói rằng đó là do tác động của những tinh linh của loài
khoáng thạch, thuộc loại mà người Tây phương gọi là Thổ tinh (Gnomes),
hay tinh linh của các hầm mỏ, và thổ ngữ Tamoul Ấn Độ gọi là
Kalladimanden.
Ông Sinnett có ghi chép lại một việc xảy ra ngày 20 tháng 10 mà ông gọi
là “hiện tượng cái gối”. Hôm ấy chúng tôi đi du ngoạn và cắm trại trên
một ngọn đồi. Ông Sinnett đang trông đợi một thông điệp trả lời bức thư
ông gửi cho một vị chân sư, nhưng ông không nghĩ rằng ông sẽ nhận được
trong chuyến đi dạo chơi hôm đó. Tuy nhiên, một người trong nhóm đề nghị
với bà Blavatsky làm xuất hiện một vật gì đó bằng phép mầu.
Bà Blavatsky hỏi: “Các ông muốn nhận được vậy ấy ở đâu khác ngoài trên
một cành cây? Không nên làm cho sự việc trở thành nhàm chán vì cứ lặp
lại những chuyện cũ.”
Mọi người thăm dò ý kiến lẫn nhau, và sau cùng họ đồng ý yêu cầu bà làm
cho vật ấy xuất hiện bên trong cái gối dựa lưng của bà Sinnett đang dùng
ở trên chiếc ghế bành của bà lúc ấy.
Bà Blavatsky liền nói: “Được rồi, hãy mở nó ra xem có vật gì ở trong
không.”
Ông Sinnett liền lấy con dao bỏ túi của ông và rọc cái gối. Cái áo gối ở
ngoài mặt có thêu hoa, được lót bằng da hay một thứ vải cứng và may bằng
thứ chỉ lớn, dày và rất chắc. Đó là một cái gối kiểu xưa, và đường chỉ
đã trở nên cứng chặt với thời gian, làm cho công việc cắt rạch nó ra hơi
có phần khó nhọc. Tuy nhiên, sau cùng thì cái bao ngoài đã bị rách đứt,
và bên trong là một cái bao thứ nhì chứa đựng lông chim và cũng được may
bằng một thứ chỉ rất chắc.
Khi cái gối trong đã bị cắt ra xong, ông Sinnett mới thọc tay vào, mò
trong đống lông chim, và lấy ra một bức thư với cái trâm cài đầu. Đó là
bức thư của chân sư K. H. đề cập đến một câu chuyện giữa ông Sinnett với
bà Blavatsky; còn cái trâm cài đầu là của bà Sinnett, và ngay trước khi
xuất hành bà còn để nó lại trên mặt bàn phấn của bà. Tôi muốn để cho độc
giả hãy tự rút lấy kết luận của những sự việc kể trên.