Trong chuyến đi lên miền Bắc, chúng tôi có dịp đến bờ sông Jumna để
viếng thăm một nhà tu khổ hạnh tên Babu Surdass, một đệ tử của đạo sư
Nanak. Người ấy đã thể hiện đến một trình độ tuyệt luân những khả năng
làm chủ thể xác với một ý chí kiên cường không hề lay chuyển.
Kể từ năm 1827, tức là trong 52 năm trường, ông ta đã ngồi yên một chỗ
trong tư thế tọa thiền trên một cái bệ đá ở gần pháo đài, trên đầu không
một mái che, bất chấp mọi sự thay đổi thời tiết, nóng lạnh, mưa gió và
giông tố, bão bùng.
Ông ta vẫn ngồi nhập định như thế trải qua suốt thời kỳ chiến tranh, khi
quân bản xứ nổi loạn chống giai cấp thống trị người Anh, không màng chú
ý đến những tiếng nổ kinh hồn của những khẩu đại bác hay những trận giao
phong đẫm máu diễn ra khắp nơi ở các vùng chung quanh. Những tiếng động
ồn ào náo loạn của chiến tranh không thể xâm nhập vào cõi giới thiền
định thâm sâu mà trong đó ông đã chôn vùi suốt cả cuộc đời.
Ngày chúng tôi đến viếng ông ta là một ngày nóng như thiêu đốt, mặt trời
cháy rực như lửa than hồng, người tu sĩ vẫn để đầu trần nhưng dường như
không cảm thấy gì là khó chịu. Ông ta vẫn ngồi yên bất động suốt ngày và
suốt đêm ở một chỗ ấy, trừ ra vào lúc nửa đêm mới đứng dậy và đi đến chỗ
gặp nhau giữa hai con sông Hằng và sông Jumna để tắm rửa và cầu nguyện.
Những gian lao khổ nhọc của phép tu khổ hạnh đã làm cho ông mù cả hai
mắt và phải có người dắt ông đi đến bờ sông, tuy nhiên gương mặt ông
toát ra một niềm an lạc tuyệt vời, với một nụ cười dịu dàng và chân
thật.
Nhờ Mulji làm thông ngôn, chúng tôi nói chuyện được với vị tu sĩ già.
Ngài cho chúng tôi biết rằng ngài đã được một trăm tuổi. Điều này có
thật hay không cũng không quan hệ gì, nhưng thời gian mà ngài đã trải
qua trên bục đá lại là một sự thật lịch sử.
Trường hợp của người tu sĩ này quả là ly kỳ độc đáo, xét theo tiêu chuẩn
đời sống của xã hội phương Tây. Làm sao ông ta có thể ngồi yên bất động
trong sự tham thiền quán tưởng trải qua đến nửa thế kỷ giữa những dục
vọng, đam mê và náo loạn của loài người luôn khuấy động ồ ạt ở chung
quanh? Những điều đó hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến ông ta, dù tốt hay
xấu, ví như những đợt sóng cồn gầm thét lăn xả vào một ghềnh đá trên bờ
biển nhưng tuyệt nhiên không thể làm rung chuyển cái nền tảng vững chắc
của nó.
Câu chuyện của vị tu sĩ này cũng có hàm xúc vài nét thi vị, chẳng hạn
như khi ông nói rằng bậc hiền giả nhận định và nắm vững những điểm chân
lý cũng giống như con trai hấp thụ giọt nước mưa để chuyển hóa thành hạt
trân châu.
Ông ta vẫn điềm nhiên khi nghe tôi nói về sự cấu tạo thành hạt trân
châu, và bảo rằng khoa học nói sai, nên ông vẫn giữ lập trường của mình.
Trích dẫn lời dạy quen thuộc trong các thánh kinh Ấn Độ, ông nhắc nhở
chúng tôi rằng, chỉ khi nào tâm hồn yên tịnh, thần trí vắng lặng hư
không, người ta mới có thể nhận biết được chân lý, cũng ví như hình
chiếu của mặt trời chỉ có thể thấy được trên mặt nước phẳng lặng êm đềm.
Nói về những tai biến, hoạn nạn nghịch cảnh trong đời người, ông cho
rằng những kinh nghiệm đó làm thức động phần tinh anh tế nhị của tâm
hồn, ví như chất dầu thơm chỉ có được bằng cách nghiền nát và chế biến
những cánh hoa tươi.
Khi được hỏi rằng ông có thể biểu diễn phép thuật thần thông cho chúng
tôi xem hay không, ông quay cặp mắt trống rỗng không còn thị giác về
phía chúng tôi và đáp rằng, người hiền giả không bao giờ tách rời tâm
trí của mình ra ngoài đường đạo và để cho bị lôi cuốn bởi những trò chơi
đó của kẻ ngu dốt. Ông nói, khi ở trong tâm trạng thích hợp, ông có khả
năng nhìn thấu suốt cả quá khứ và tương lai, nhưng ông từ chối không cho
chúng tôi thấy bằng chứng cụ thể về năng lực thần nhãn đó.
Kể từ đó về sau, mỗi khi có dịp trở lại Allahabad tôi đều đến thăm viếng
nhà tu khổ hạnh này, nhưng trong lần vừa qua, tôi nghe nói rằng ông đã
từ trần. Hẳn sẽ là một điều lý thú nếu người ta được biết rằng cuộc đời
trường kỳ khổ hạnh của ông đã ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng tâm
thức của ông sau khi chết.
Từ đó, chúng tôi tiếp tục chuyến đi đến Kanpur. Tại đây chúng tôi gặp
những người bạn mới là hai anh em ông Ross Scott và Walter Scott. Người
anh là một kỹ sư làm việc cho Chính phủ.
Sáng hôm sau, chúng tôi đến viếng một tu sĩ khổ hạnh khác. Người này đã
từng sống trên bờ sông Hằng khoảng một năm. Ông ta có một gương mặt với
những nét thanh tú, biểu lộ một đời sống tinh thần dồi dào, một thân
mình gầy ốm và một phong độ hoàn toàn thản nhiên đối với những sự vật
trần gian. Người này cũng từ chối không biểu diễn cho chúng tôi xem
những hiện tượng thần thông, với một vẻ mặt dường như khinh bỉ. Thật
hiển nhiên là những tu sĩ Ấn Độ này có một lập trường khác hẳn với quan
niệm của người Tây phương, và khinh thường những phép thuật nhiệm mầu
nhất của những đồng tử giỏi nhất. Dù sao, đó chỉ là cảm nghĩ của tôi.
Tuy nhiên, vị này có nói cho chúng tôi nghe chuyện một nhà tu khổ hạnh
khác tên là Jungli Shah, đã nhiều lần làm phép lạ theo kiểu “bánh mì và
cá” được kể trong Kinh Thánh. Ông ta đã làm gia tăng số lượng thực phẩm
dành cho một người ăn đến mức khiến cho hàng trăm người ăn được một bữa
no nê.
Kể từ khi đó, tôi đã nhiều lần nghe nói có những tu sĩ Ấn Độ khác cũng
đã làm các phép lạ tương tự. Những nhà phương sĩ lão luyện đều nói rằng
việc làm tăng số lượng một vật giản dị đơn thuần, chẳng hạn như hạt gạo,
một trái cây, một ly nước lạnh, v.v... là tương đối dễ dàng. Điều kiện
cần thiết là phải có một trung tâm hạt nhân để hành giả có thể qui tụ
chung quanh nó chất liệu của không gian. Nhưng tôi muốn biết phải chăng
sự tăng gia số lượng thực phẩm đó chỉ là những ảo giác, và nếu vậy thì
người ăn những thực phẩm mầu nhiệm ấy có thực sự được bổ dưỡng hay
không?
Tôi còn nhớ giáo sư Berheim đã cho tôi thấy rằng bằng phương pháp thôi
miên ông có thể làm cho một đối tượng trong một lúc cảm thấy bỗng no
tràn thức ăn, và một lúc sau đó liền cảm thấy bao tử trống rỗng và đói
kinh khủng.
Người tu sĩ trẻ nói trên cũng cho biết rằng nhà đạo sĩ Lukhi Bawa và một
tu sĩ khổ hạnh có quyền năng làm cho nước biến thành sữa.
Khoảng ba giờ chiều hôm ấy, chúng tôi cưỡi voi đi viếng Jajmow, một
thành phố cổ hoang tàn ở cách Kanpur bốn dặm. Tương truyền rằng đó là
kinh đô của chủng tộc Thái Âm (Lunar Race) vào thời kỳ năm ngàn năm trăm
năm trước Công nguyên. Mục đích chuyến đi này là viếng thăm nhà đạo sĩ
Lukhi Bawa đã nói ở trên.
Chúng tôi nhận thấy vị đạo sĩ này có một tác phong khả kính. Ông là một
triết gia và một nhà chiêm tinh lỗi lạc. Một lần nữa, chúng tôi lại bị
từ chối sự biểu diễn phép thuật thần thông, khi chúng tôi bày tỏ ý muốn
được xem ông ta thi thố quyền năng nhiệm mầu.
Đại khái, đó là khía cạnh nghiêm chỉnh của chuyến đi này. Nhưng ngoài ra
nó cũng có một khía cạnh trào lộng rất buồn cười. Con voi của chúng tôi
cưỡi có cái tên rất thi vị là Chenchal Peri, có nghĩa là “tiên nữ linh
động”. Trên lưng nó không có bành để ngồi dựa lưng cho thoải mái mà chỉ
có đặt một tấm nệm lớn và dày được buộc chặt vào mình voi bằng những sợi
dây cói khổng lồ. Khi voi cất bước di chuyển, người cưỡi phải khéo léo
giữ thăng bằng mới ngồi được yên, và tôi để cho những bạn bè quen thuộc
với bà Blavatsky hãy thử tưởng tượng việc gì xảy ra khi bà với bốn bạn
đạo sơ cơ về môn cưỡi voi cùng chia sẻ với nhau khoảng trống có giới hạn
trên tấm nệm.
Vì phép lịch sự, chúng tôi đỡ bà trèo cái thang ngắn lên ngồi trước,
đương nhiên nghĩ rằng bà sẽ dành chỗ cho chúng tôi lên sau, nhưng bà lại
không nghĩ như vậy! Bà nghiễm nhiên chiếm trọn khoảng giữa của tấm nệm,
và không chịu nhích một phân để cho chúng tôi có cơ hội trèo lên. Bà còn
phát ngôn mạnh mẽ và cứng cỏi khi chúng tôi nhắc nhở cho bà nhớ rằng bà
không có độc quyền chiếm trọn tấm nệm cho một mình bà!
Thế rồi, khi “nàng tiên linh động” bắt đầu đập hai cánh quạt trên lỗ tai
và biểu lộ những cử chỉ sốt ruột khác nữa, vì sự giằng co của chúng tôi.
Bọn chúng tôi bốn người là W. Scott, Mulji, Babula và tôi, đều lần lượt
trèo lên và bám lấy bốn góc của tấm nệm, tùy sự xoay xở tháo vát của mỗi
người. Bạn Walter Scott ngồi phía sau và bỏ một chân thòng xuống, nhưng
con voi đầy hảo ý, ngoắt cái đuôi nó lên đỡ lấy bàn chân anh ta và giúp
anh ngồi lại ngay ngắn, an toàn.
Thế là chúng tôi khởi hành. Bà Blavatsky miệng phì phèo thuốc lá, vẻ mặt
hân hoan cơ hồ như đã từng quen thuộc với môn cưỡi voi từ thuở nhỏ.
Nhưng chỉ độ vài trăm thước đầu tiên cũng đủ lấy mất đi cái bộ vó tự phụ
của bà. Bà ngả nghiêng bên nọ bên kia một cách nặng nề, chậm chạp, làm
cho bao nhiêu mỡ trong người bà đều quấy động và hơi thở của bà như thổi
hết ra ngoài, cho đến khi bà nổi trận lôi đình và nguyền rủa bọn cười
đùa chúng tôi, cùng với con voi và cả thằng nài, đều chết sa đọa xuống
âm ty!
Bạn Ross Scott, em ruột của Walter, vì đau chân không thể cưỡi voi nên
ngồi trên một chiếc xe nhỏ kiểu bản xứ, trông rất lạ mắt, gọi là ekka,
giống như một cái thùng mà chỗ ngồi là một mảnh gỗ lớn hơn bàn tay, do
một con ngựa kéo. Suốt chuyến đi dài bốn dặm đường trường, (mà bà
Blavatsky quả quyết là hai mươi dặm), chúng tôi đi trong sự vất vả khổ
nhọc, còn bà thì trong cơn ầm ĩ thịnh nộ. Nhưng đến bận về, không một sự
thuyết phục nào có thể làm cho bà Blavatsky tiếp tục ngồi lại chỗ cũ
trên lưng voi. Bà bảo bạn Scott ngồi thu mình nép vào một bên trên chỗ
ngồi của chiếc ekka và bà cùng ngồi chung trên xe ấy để trở về nhà.