This is an edited transcription of a series of talks given by His Holiness over a period of three days in London, 1984, translated by Jeffrey Hopkins.
Đối với người tu tập thì việc có được một động cơ đúng đắn và tốt đẹp là rất quan trọng. Tại sao [hôm nay] chúng ta [đến đây để] cùng nhau thảo luận về những vấn đề này? Chắc chắn không phải vì tiền bạc, không phải vì danh vọng hay vì sinh kế trong cuộc sống này. Có rất nhiều những sự việc khác mang đến cho ta nhiều tiền bạc hơn, nhiều danh vọng hơn và nhiều điều thú vị hơn. Như vậy, lý do chính yếu mà quý vị cũng như tôi cùng đến đây hôm nay, bất chấp những khó khăn về bất đồng ngôn ngữ, là tất cả mọi người đều mong muốn được hạnh phúc và không ai muốn [phải chịu đựng] khổ đau. Điều này chẳng có gì phải bàn cãi, vì ai ai cũng đồng ý như vậy. [Thế nhưng,] những phương cách [mà chúng ta dùng] để đạt được hạnh phúc và vượt qua bất ổn là khác nhau. Hơn nữa, hạnh phúc cũng có nhiều loại khác nhau, và khổ đau cũng thế. Ở đây chúng ta không chỉ nhắm đến việc làm giảm nhẹ [khổ đau] hay đạt được lợi lạc nhất thời, mà ta đang hướng đến một mục đích hay sự lợi lạc lâu dài. Là những người Phật tử, chúng ta không nhắm đến điều đó chỉ trong một kiếp sống này, mà là trong nhiều kiếp sống tiếp nối nhau, và chúng ta không tính đếm bằng tuần lễ hay năm tháng, mà là trong nhiều đời, nhiều kiếp.
For practitioners, it is important to have a right, good motivation. Why are we discussing these matters? Certainly not for money, not for fame, not for our livelihood in this life. We have plenty of other things which bring us more money, more fame and more enjoyable things. So the main reason why we come to this place and for me too, despite the language difficulties-is that everyone wants happiness and does not want suffering. This is a point on which there is no argument, everyone agrees. The ways to achieve happiness and the ways to overcome problems differ. There is also a variety of happiness’s and a variety of sufferings. Here we are not only aiming for temporary relief or temporary benefit, we are thinking of a long-term aim or benefit. As Buddhists, we are not looking for it only in this life, but in life after life and we are not counting in weeks, months or years but in lives and aeons.
Trong phạm vi vấn đề đang bàn, tiền bạc cũng có ích, nhưng có một sự giới hạn đối với những quyền lực và mọi pháp thế gian; rõ ràng là [trong pháp thế gian] cũng có những điều tốt đẹp đấy, nhưng chúng luôn có một giới hạn. Theo quan điểm Phật giáo, nếu quý vị có được phần nào phát triển trong chính tâm thức mình, điều đó sẽ được tiếp nối từ đời này sang đời khác. Bản chất của tâm thức có điểm đặc biệt là, nếu những phẩm chất tinh thần nhất định nào đó đã từng được phát triển trên một nền tảng đúng đắn, thì những phẩm chất đó sẽ luôn được duy trì; và không chỉ là được duy trì, mà chúng còn sẽ tiếp tục tăng trưởng theo thời gian. Những phẩm chất tốt đẹp của tâm thức, nếu được phát triển theo một phương cách thích hợp, thì cuối cùng sẽ tăng trưởng không giới hạn. Điều đó không chỉ mang lại hạnh phúc về lâu dài, mà còn mang đến cho quý vị một nội lực mạnh mẽ hơn ngay cả trong đời sống thường ngày. [Bây giờ,] quý vị hãy để tâm vào những điều này, với một động cơ thanh tịnh và chú ý lắng nghe, đừng để rơi vào trạng thái buồn ngủ.
In this field, money is something useful, but there is a limit to worldly power and worldly things; no doubt there are good things, but there is a limit. From the Buddhist viewpoint, if you have some development of the mind itself, it will go on from life to life. The nature of mind is such that if certain mental qualities have been developed on a sound basis, these qualities will always remain, and not only will they remain, they will increase as time goes on. The good qualities of mind, if developed in the proper way, will eventually increase infinitely. That brings happiness not only in the long term, but even in day to day life will give you more inner strength. Keep your mind on these things, with a pure motivation, and listen without going to sleep.
Về phía [người giảng là] tôi thì động cơ chính cũng là một ý nguyện vị tha chân thành, thực sự quan tâm đến mọi người và sự an vui của họ.
From my side too the main motivation is some sincere feeling towards others, some genuine concern for others and their welfare.
Nào, [chúng ta hãy bắt đầu,] làm thế nào để phát triển những phẩm chất tinh thần? Đó [là vấn đề] sẽ đưa ta đến với thiền quán, vốn có nghĩa là chuyển hóa. Nhưng nếu không có một nỗ lực đặc biệt nào đó thì sẽ không có sự chuyển hóa, vì thế chúng ta cần phải nỗ lực. Mục đích [trước tiên] của sự thiền quán là làm cho tâm thức quen thuộc với một ý nghĩa mới nào đó. Như vậy có nghĩa là trở nên quen thuộc dần với đối tượng thiền quán. Như quý vị đã biết, thiền quán là một trong nhiều dạng thức của sự phân tích, trong đó quý vị phân tích đối tượng [đã chọn] và rồi hướng tâm chuyên nhất vào đối tượng ấy. Có hai loại thiền quán: một loại xem đối tượng của thiền quán như là đối tượng phương thức nhận hiểu của tâm thức, và loại kia xem cái được gọi là đối tượng đó thực sự chính là chủ thể, hay là cung cách, khuynh hướng nhận thức mà hành giả đang cố nuôi dưỡng trong tâm thức mình. Khi khảo sát nhiều kiểu thiền quán khác nhau, quý vị sẽ thấy có nhiều cách phân loại khác nhau.
Now, how do we develop mental qualities? That brings us to meditation, which means to transform. Without making some special effort transformation will not take place, so we need effort. Meditation is a matter of making the mind acquainted with some new meaning. It means getting used to the object you are meditating on. As you know, meditation is of an analytical variety, in which you analyze the object, and then set your mind one-pointedly upon that object. Within analytical meditation there are two types: one in which the object that is being medi-tated on is taken as the object of the mode of apprehension of the mind; and the other, in which the so-called object is really the subject, or that type of consciousness into which you are trying to cultivate your mind. When you examine the various types of meditation, there are many different ways of dividing them.
Về nội dung thiền quán trong Phật giáo, để thuận tiện thì dường như có thể phân chia thành hai phần: tri kiến (hay quan điểm) và hành xử. Hành xử là phần chính yếu. Chính sự hành xử của riêng mỗi người là tác nhân mang lại hạnh phúc trong tương lai cho người ấy, và cũng là tác nhân mang đến hạnh phúc cho những người khác nữa. Để cho sự hành xử của một người được thanh tịnh và thành tựu thì cần thiết phải có một tri kiến, hay quan điểm đúng đắn. Sự hành xử của chúng ta nhất thiết phải được hình thành vững chãi trên nền tảng của sự hợp lý, vì thế mà một quan điểm triết học đúng đắn là cần thiết.
With regard to that on which one is meditating, it seems convenient in Buddhism to make a division into view and behaviour. Behaviour is the main thing. One's own behaviour is what induces one's own happiness in the future and it is also what brings about others' happiness. For one's behaviour to be pure and complete, it is necessary to have a proper view. One's behaviour must be well-founded in reason, so a proper philosophical view is necessary.
Những cung cách hành xử nào là chính yếu trong đạo Phật? Đó là tự chế ngự và tu dưỡng tâm thức mình theo giới hạnh, hay nói cách khác là không dùng bạo lực. Nhìn chung, các tông phái của đạo Phật được phân chia thành 2 nhóm lớn là Đại thừa và Tiểu thừa. Căn bản của Đại thừa là lòng bi mẫn vị tha, cứu giúp người khác, còn căn bản của Tiểu thừa là lòng bi mẫn không gây tổn hại đến người khác. Và như vậy, căn bản chung của tất cả giáo lý trong đạo Phật đều là lòng bi mẫn. Đức Phật, người đã truyền dạy giáo pháp này, được sinh ra từ lòng bi mẫn, và phẩm tính tốt đẹp chính yếu của một vị Phật chính là tâm đại bi. Sự chính đáng của việc ta quy y một vị Phật có lý do chủ yếu là do nơi tâm đại bi của ngài.
What is the main style of behaviour in the Buddhist system? To tame and discipline one's own mind, in other words non-violence. In general, the Buddhist vehicles are divided into two types, a great vehicle and a low vehicle. The great vehicle has the altruistic compassion of helping others as its root and the low vehicle has compassionate non-harming of others as its root, so the root of all Buddhist teachings is compassion. The Buddha who teaches this doctrine is born from compassion and the main good quality of a Buddha is his or her great compassion. Amongst the Three Jewels, the Buddha's greatest quality is great compassion. The main reason it is suitable to take refuge in a Buddha is because of his great compassion.
Cộng đồng tâm linh Tăng-già có 4 phẩm tính thuộc về giới hạnh thanh tịnh theo giáo pháp quy định. Thứ nhất là không đáp trả theo cách tương ứng nếu ai đó đến làm hại hay đánh đập mình. Thứ hai là không phản ứng bằng thái độ sân hận nếu ai đó có thái độ sân hận với mình. Thứ ba vẫn là không đáp trả khi có người thách thức mình, không phải với sân hận hay bạo lực mà chủ yếu là dùng những lời gay gắt để đả kích, xúc phạm. Thứ tư là không trả đũa nếu ai đó buộc tội và gây rắc rối cho mình. Những điều này được gọi là bốn pháp tu tập để rèn luyện giới hạnh, vốn là những phẩm hạnh đặc biệt của Tăng-già. Đây là cung cách hành xử của một vị tăng ni xuất gia. Phải chăng những cách hành xử này có thể được truy nguyên đến nền tảng xuất phát của chúng là lòng bi mẫn? Vì thế, những phẩm hạnh chính yếu của Tăng-già được khởi sinh từ lòng bi mẫn; việc người Phật tử quy y Tam bảo: Phật, Pháp và cộng đồng tâm linh Tăng-già, tất cả đều bắt nguồn từ lòng bi mẫn.
The Sangha, the spiritual community, has four qualities of pure enactment of the teaching. The first one means, not to answer back in kind if someone comes to harm you or strike you. The second is not to respond with an angry attitude if someone comes at you with an angry attitude. The third is again not answering back when someone challenges you, without anger or violence,but mainly using harsh words against you, insults. The fourth is not to retaliate if someone accuses you and embarrasses you. These are called the four practices for virtuous training, which are the special qualities of the Sangha. This is the style of behaviour for a monk or nun. The root of these can be traced back to compassion, can't it? Thus the main qualities of the Sangha derive from compassion; the Three Refuges for Buddhists, the Buddha, Dharma and the Spiritual Community, all have their root in compassion.
Tất cả các tôn giáo đều có sự tương đồng là những hệ thống giáo huấn hiệu quả khuyên dạy về lòng bi mẫn. Cách hành xử căn bản không dùng đến bạo lực này được bắt nguồn từ lòng bi mẫn, và là điều cần thiết cho chúng ta không chỉ trong cuộc sống hằng ngày, mà còn để giải quyết cả những bất ổn toàn cầu giữa các quốc gia trên toàn thế giới.
All religions are the same in having powerful systems of advice with respect to the teaching on compassion. This basic behaviour of non-violence that has compassion as its root is something that we need not only in our daily life, but also to solve global problems nation to nation throughout the world.