Khái niệm và thực tại
  Trong tác phẩm Republic của Plato có một chuyện ngụ ngôn nổi tiếng về một hang động. Trong hang động có một hàng  người, họ bị xiềng lại với nhau trong tư thế chỉ có thể nhìn vào vách hang bên  trong, không thể nào quay lưng lại. Phía sau lưng những người bị xiềng là một  ngọn lửa, và có những hình người nhỏ xếp chung quanh như là đang sinh hoạt với  nhau. Bóng dáng của những hình người giả này chiếu lên vách tường phía bên  trong hang. Những người bị xiềng chỉ có thể thấy bóng dáng thay đổi của những hình  người giả trên vách hang, nên họ nhận những bóng hình đó làm một sự thật tuyệt  đối. 
  Cho đến một ngày, có một người trong bọn  họ cắt được sợi dây xích và quay lại được. Anh ta thấy được đống lửa và những  hình người giả, và hiểu rằng những điều anh tin xưa nay đều là giả tưởng. Bóng  hình không phải là sự thật mà chỉ là những phản ảnh trên vách. Và có lẽ sau khi  thoát ra khỏi sự xiềng xích, anh đi ra khỏi hang và bước đi trong tự do dưới  ánh sáng mặt trời.
  Tình trạng của chúng ta cũng giống như những  người bị xiềng trong hang. Bóng người trên vách tượng trưng cho những khái niệm  trong cuộc đời mà ta đang sống. Chúng ta bị xiềng xích bằng những đam mê, nhìn  cuộc đời qua ý niệm, thành kiến có sẵn trong ta, và nhận những khái niệm này  làm thực tại. 
  Có nhiều khái niệm khắc rất sâu trong tâm  ta, đến nỗi ta không còn nghi ngờ gì nữa. Chẳng hạn như chúng ta ai cũng có  khái niệm về nơi chốn, quê hương, quốc gia. Nhưng thực tế là trên trái đất này  không có đường ranh giới tự nhiên nào phân chia các quốc gia. Những đường ranh  giới đều là do tâm ý con người tạo ra. Chúng là nhân tạo. Mỗi khi bạn có dịp đi  ngang qua một đường biên giới, bạn sẽ thấy con người đã bỏ ra biết bao nhiêu  công sức để gây dựng khái niệm này. Trên thế giới có biết bao nhiêu vấn đề -  chánh trị, kinh tế - phát xuất từ ý nghĩ “đây là quốc gia của tôi, quê hương  của tôi...” Nếu hiểu được rằng mọi khái niệm chỉ là kết quả của tư tưởng,  ta sẽ có khả năng tự do thoát khỏi mọi ràng buộc. 
  Lúc còn ở Ấn Độ, có một cô bạn Hy Lạp kể  cho tôi nghe câu chuyện thí dụ về khái niệm nơi chốn. Cô ta tả lại một biên giới  giữa hai quốc gia nằm trên một vùng sa mạc. Giữa một vùng đất cát mênh mông, có  một chiếc cầu sắt bắc ngang qua một lòng sông cạn khô. Chiếc cầu sắt được sơn nửa  xanh, nửa đỏ. Lòng sông khô cằn là biên giới của hai nước. Chung quanh chẳng có  gì ngoài cát nóng và một chiếc cầu sắt hai màu. Chính giữa cầu có một cái cổng  bằng sắt, được khóa từ hai bên. Khi có người nào muốn đi từ một “quốc gia”  này sang phía bên kia, người gác bên đây sẽ gọi người gác bên kia, cả hai đi đến  cánh cổng và mở khóa cùng một lúc. Thế là ta đi ngang qua biên giới, sang một  quốc gia khác. 
  Khái niệm về thời gian cũng đã in rất sâu  vào tâm khảm ta, những ý niệm về quá khứ, tương lai. Cái mà chúng  ta gọi là thời gian, thật sự là gì? Trong giờ phút hiện tại ta có một vài tư tưởng  như là kỷ niệm, hồi tưởng. Chúng ta góp những tư tưởng này lại thành một nhóm  và gọi chúng là quá khứ, và cho rằng chúng đã xảy ra ở một thời điểm xa  xôi nào đó, không có thật trong hiện tại. Cũng vậy, ta chìm đắm trong những  dự định, mơ mộng và dán cho chúng nhãn hiệu thuộc về tương lai, có nghĩa  là chúng chỉ có trong một thực tại chưa xảy ra. Ít khi ta hiểu được rằng, thật  ra quá khứ và tương lai chỉ là những gì đang xảy ra trong hiện  tại. Tất cả những kinh nghiệm đó chỉ là một sự thật của hiện tại.  Quá khứ và tương lai là hai khái niệm mà chúng ta đặt ra với một mục đích.  Nhưng nếu ta nhận khái niệm là một sự thật, quên rằng chúng chỉ là sản phẩm của  tư tưởng, ta sẽ khổ đau vì những sự lo lắng, hối tiếc về quá khứ và những mong  chờ, hy vọng về một thực tại chưa đến. Khi nào ta có thể sống vững vàng trong  giây phút bây giờ, hiểu rằng quá khứ và tương lai chỉ là những tư tưởng trong  hiện tại, ta sẽ có khả năng tháo gỡ được sợi dây xích của khái niệm thời  gian.
  Một khái niệm quan trọng khác mà chúng ta  thường dùng đến là khái niệm về giới tính: nam nữ. Khi bạn nhắm mắt lại,  chú ý đến hơi thở, cảm giác, âm thanh, tư tưởng của mình - nam hay nữ nằm ở chỗ nào, nếu không phải chỉ là một khái niệm? Khái niệm nam nữ sẽ  không còn hiện hữu khi tâm ta yên lặng. Những làn sóng tưởng tượng nổi lên từ  nước, rồi chúng tự phê bình lẫn nhau là cao, thấp, đẹp, xấu... Nói theo lẽ  tương đối thì cũng đúng một phần nào, nhưng chúng quên rằng mọi làn sóng đều có  chung một bản chất là nước biển. Cũng vậy, một khi ta bị dính mắc vào một khái  niệm về hình thể, tâm ta sẽ sinh khởi những sự so sánh, phê phán, phân loại. Những  phân biệt này sẽ làm cho sự chia cách giả tưởng giữa ta và chung quanh càng  kiên cố thêm lên. Qua sự tu tập thiền quán ta sẽ dần dần từ bỏ những ràng buộc  của khái niệm và kinh nghiệm được những yếu tố căn bản thật sự tạo thành con  người. 
  Nhưng có lẽ khái niệm gây ảnh hưởng sâu đậm  nhất, có khả năng xiềng xích ta trong hang động, giữ ta lại trong vòng sinh tử  luân hồi, là khái niệm về một cái ngã, cái tôi. Ta luôn nghĩ rằng  phải có một cái tôi nào đó đứng phía sau mọi hành động, mọi ý nghĩ, đó  là một cá nhân có thật, trường cửu, là bản thể của con người chúng ta. Nhưng cái  ngã, cái tôi và những cái của tôi thật ra chỉ là những khái  niệm, chúng sinh khởi khi ta cố đi tìm một định nghĩa cho sự liên hệ giữa thân và tâm. Thuở ban đầu thì trong ta chưa có cái tôi, nhưng bởi  vì chúng ta bị dính mắc vào ý niệm này một cách quá sâu đậm, chúng ta bỏ hết  công sức ra để bảo vệ, phô trương và phục vụ cho cái tôi tưởng tượng  này. Thiền quán sẽ giúp ta thấy được cái tôi chỉ là một khái niệm, nó  không có một tự thể nào, chỉ là một ý niệm được phóng đại lên trong giây phút  hiện tại.
  Đó là những khái niệm hằng trói buộc ta -  khái niệm về nơi chốn, thời gian, sở hữu, nam nữ và cái tôi. Bạn có thể thấy sức  mạnh của những khái niệm này. Cả cuộc đời của ta bị chúng chi phối. Kalu  Rinpoche, một vị thiền sư Tây Tạng nổi tiếng có viết: “Bạn đang sống  trong một thế giới của ảo tưởng, với những hình dáng bên ngoài của sự vật.  Nhưng có một thực tại, bạn chính là thực tại đó. Hiểu được điều này, bạn sẽ thấy  rằng bạn chẳng là gì cả. Và vì không là gì cả mà bạn là tất cả. Chỉ có vậy  thôi.” 
  Có bốn pháp quan trọng được gọi là bốn thực  tại tuyệt đối. Ta gọi như thế bởi vì chúng có thể kinh nghiệm được chứ  không phải chỉ là ý niệm. Bốn thực tại tuyệt đối này chứa đựng trọn vẹn mọi  kinh nghiệm của chúng ta. 
  1. Sắc:
  Thực tại tuyệt đối đầu tiên là sắc,  tức là tứ đại. Tứ đại là bốn yếu tố căn bản cấu tạo nên mọi vật chất  trong vũ trụ, bao gồm đất, nước, gió và lửa. Trong thiền quán, ta  sẽ kinh nghiệm được sự hiện diện của tứ đại trong thân thể. 
  Yếu tố đất là yếu tố thuộc về tính chất nới  rộng. Ta kinh nghiệm được yếu tố này qua tính chất cứng, mềm, nặng, nhẹ của sự vật. Khi ta cảm thấy đau trong thân, điều đó thuộc về yếu tố  đất. Khi ta đi, chân chạm mặt đất, cảm giác đụng chạm, dính liền cũng thuộc về  yếu tố đất. Nói chung là mọi cảm giác cứng, mềm hay nới rộng. 
  Yếu tố lửa là những tính chất nóng, lạnh. Đôi khi trong những lúc ngồi thiền, yếu tố lửa có thể trở nên thắng  thế, bạn sẽ cảm thấy như bị lửa đốt. Thật ra thì chẳng có ai bị đốt cả, chỉ có  yếu tố lửa đang phát lộ tánh tự nhiên của nó, tức cảm giác nóng, lạnh. 
  Yếu tố gió tức là sự chuyển động. Trong  lúc đi kinh hành, cái mà ta kinh nghiệm được chỉ là một trò chơi của những yếu  tố. Bàn chân và chân chỉ là một ý niệm, một tên gọi mà chúng ta đặt cho nhận thức  về một kinh nghiệm. Thật ra thì chẳng có bàn chân, thân hay là cái tôi, chỉ có  kinh nghiệm về những động tác và cảm giác đụng chạm mà thôi. 
  Yếu tố nước tiêu biểu cho tính chất lưu  loát và kết hợp. Yếu tố này có công năng giữ cho sự vật được gắn bó với nhau.  Cũng như khi bạn cầm đến bột khô, chúng rời rạc, lả tả. Nhưng khi bạn chế vào một  chút nước, chúng sẽ lập tức dính lại với nhau. Yếu tố nước rất quan trọng, bởi  nó gắn bó tất cả những yếu tố vật chất khác lại với nhau. 
  Cùng với tứ đại, chúng ta có thêm  bốn tính chất phụ thuộc nữa là màu sắc, mùi, vị và bổ  dưỡng. Cả thế giới vật chất chung quanh ta có thể được kinh nghiệm qua những  yếu tố vừa kể. Chúng ta có thể nhận thức được chúng mà không cần dùng đến tư tưởng.  Sàn nhà không có thật. Sàn nhà chỉ là một ý niệm, một tên gọi. Cái mà ta kinh  nghiệm được là cảm giác cứng, lạnh hoặc màu sắc khi ta nhìn đến nó. Mắt ta nhìn  thấy màu sắc. Mắt ta không nhìn thấy một tên gọi. Khi chúng ta bước ra ngoài  sân, đa số thấy cây cỏ, nhưng đó chỉ là một ý niệm về những đối tượng mà  ta nhìn thấy. Cái mà ta thật sự thấy là hình dáng và màu sắc. Rồi tâm ta dán  cho nó một nhãn hiệu là cây cỏ. Thân cũng chỉ là một ý niệm. Khi  ta ngồi thiền, thân biến mất. Lúc ấy ta chỉ kinh nghiệm những cảm giác nóng, lạnh, đau nhức... những hoạt động của các yếu tố biến chuyển  không ngừng trong sự vô thường. 
  Sự tu tập thiền quán có khả năng giúp ta  ý thức được sự vật trên một bình diện kinh nghiệm trực tiếp chứ không bằng ý niệm  qua tư tưởng. Cho nên khi ta nhìn một vật gì, ta sẽ ý thức được màu sắc, hình dạng  của chúng. Khi ta đụng chạm một vật gì, ta sẽ trực tiếp cảm giác về nó mà không  bị dính mắc vào ý niệm, hay là để những thành kiến của mình xen vào sự nhận  xét. 
  Ý niệm lúc nào cũng được giữ nguyên mà thực  tại thì luôn thay đổi. Ý nghĩa của chữ thân thì bao giờ cũng vậy, nhưng  chính thân ta thì mỗi phút một đổi khác. Những khái niệm luôn cứng nhắc  không thay đổi. Nhưng khi ta kinh nghiệm sự việc xảy ra chung quanh, ta sẽ nhận  thấy được sự biến chuyển cùng tính chất vô thưòng của mọi vật, sự sinh diệt của  mọi cảm giác. Kinh nghiệm được mọi sự trong chánh niệm sẽ làm lộ ra chân tướng  vô thường của chúng. Còn khi chúng ta còn mê mờ trong vòng ý niệm, ta sẽ bị  dính mắc trong ảo tưởng, cho rằng mọi vật là lâu bền, thường hằng. Chính sự  dính mắc này đang trói buộc ta trong vòng sinh tử luân hồi. 
  Bước đầu của sự tu tập thiền quán, phát  triển trí tuệ là kinh nghiệm được hiện thực chứ không phải chỉ là bóng dáng của  nó. Được như vậy, tự thể của mọi vật sẽ tự nhiên hiện rõ ra trước mắt. 
  2. Tâm:
  Thực tại tuyệt đối thứ hai là tâm.  Tâm là khả năng hiểu biết, ý thức về một đối tượng nào đó. Có người cho rằng  trong ta có một tâm thức duy nhất, hiện diện từ lúc sinh ra cho đến khi chết.  Tâm thức này được ví như là một quan sát viên, biết hết mọi chuyện xảy ra trong  cuộc đời chúng ta. Và rồi ý niệm này dẫn tới kiến chấp về một cái ngã, cái  tôi bất biến, thường hằng trong mỗi người. Đó cũng bởi vì tâm ta không tĩnh  lặng đủ để quan sát tiến trình của sự hiểu biết. Tâm thức sinh ra rồi diệt đi  trong mỗi giây phút. Không có một tâm thức duy nhất nào hiện diện từ đầu cho đến  cuối, mỗi giây phút đều có những tâm thức sinh ra rồi diệt đi. 
  Cái thức dùng để nghe (nhĩ thức)  khác với cái thức dùng để thấy (nhãn thức), hay để ngửi (tỷ thức),  hay để nếm (thiệt thức), hay để suy nghĩ (ý thức). Mỗi giây phút  đều có những tâm thức khác nhau thống trị. Sau một thời gian tu tập, khi tâm ta  tĩnh lặng, ta sẽ có thể kinh nghiệm được tiến trình này của tâm. Dùng trí tuệ  soi sáng dòng biến chuyển vô thường của tâm thức, ta sẽ thấy được trong ta  không có một cá nhân hay một quan sát viên nào cả, chỉ là một diễn biến liên tục  thay đổi trong từng giây phút. Đến giai đoạn này, ta sẽ phá vỡ được ảo vọng về  một cái tôi thường hằng có thật. 
  3. Tâm sở:
  Thực tại tuyệt đối thứ ba là tâm hành hay tâm sở. Tâm hành là tính chất của tâm quyết định một phương  thức để đối phó với các đối tượng. Mỗi khi trong ta có một tâm thức nào khởi  lên, là có nhiều tâm hành khác nhau cùng sinh khởi theo trong lúc ấy, và chúng  cũng diệt theo khi tâm thức ấy chấm dứt. Tham, sân, si là ba tâm hành căn bản, là gốc rễ những khổ đau của chúng ta. Mọi hành động xấu đều được xúi dục  bởi một trong ba tâm hành này. Lấy một thí dụ, tâm tham có đặc  tính là bám víu vào đối tượng. Khi tâm tham nổi lên trong ta, nó có khả  năng khiến cho ta muốn chiếm hữu, gom góp, bám víu, đeo đuổi vào bất cứ chuyện  gì ta đang làm. Đó chỉ là tính cách tự nhiên của tâm tham. Không có người  tham, không có cái ngã, cái tôi nào đứng phía sau đó cả, mà  chỉ là kết quả của một tâm hành đang hoạt động. 
  Tâm sân cũng là một tâm hành có đặc tính  tự nhiên là thù ghét, chối bỏ đối tượng. Lòng ghen tức, bực mình, giận dữ, bất  an, chối bỏ đều là những trạng thái của tâm sân. Lòng sân cũng không phải  thật là ta hay của ta, nó chỉ là một tâm hành sinh ra rồi  diệt đi. 
  Tâm si là một tâm hành có khả năng làm mờ  mịt nhận thức, khiến ta không thể thấy rõ được đối tượng. Ta không ý thức được  những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. 
  Ngược lại ta cũng có ba tâm hành có khả năng đem lại hạnh phúc là tâm xả, tâm từ và trí tuệ. Tâm xả có tính chất tự nhiên là rộng lượng, không hối tiếc, không thu giữ. Tâm từ là lòng thương yêu, thân thiện với người khác. Trí tuệ là tâm tỉnh  thức có khả năng nhìn rõ mọi sự vật. Nó được ví như một ngọn đèn sáng trong  tâm. Khi bạn đi vào một căn phòng tối, bạn không nhìn thấy được những vật chung  quanh, nên thường bị vấp ngã. Khi bật đèn lên, mọi vật sẽ trở nên sáng tỏ và được  phân biệt rõ ràng. Đấy là công năng soi sáng tâm của trí tuệ, để ta có thể nhận  diện rõ ràng cả nội dung lẫn tiến trình của thân và tâm. 
  Tất cả những tâm hành vừa kể đều  có chung hai đặc tính là vô ngã và vô thường. Không có một cá  nhân nào tham lam, không có một người nào sân hận, cũng không có một ai là trí  tuệ hay từ bi. Chỉ có một hiện tượng tâm thức sinh khởi, kéo theo nó một số tâm  hành và hoạt động theo công năng của nó. Như vậy thì ý niệm về một cái  tôi phát xuất từ đâu? Tại sao chúng ta lại bị chi phối bởi cái tôi này nhiều đến thế? 
  Trong số những tâm hành có một tâm  hành gọi là tà kiến. Công năng của tà kiến là nhận những yếu tố thay  đổi không ngừng của thân và tâm này là mình. Bởi thế cho nên, khi  có một tâm thức nào khởi lên và kéo theo tâm hành tà kiến này, ý niệm về một cái  tôi sẽ phát sinh. Nhưng cũng giống như mọi tâm hành khác, nó vô ngã và vô thường, sinh khởi rồi diệt đi. Một khi ta có chánh niệm trong giây  phút hiện tại, tà kiến sẽ không thể sinh khởi và ta có khả năng thoát ra  khỏi sự trói buộc của những khái niệm về cái tôi và vật của tôi.  Mỗi giây phút chánh niệm là một giây phút vô ngã và chân thật. 
  Một câu hỏi thường được đặt ra trong những  khóa tu là: “Như vậy, ai là người đang giữ chánh niệm?” Thật ra thì  chánh niệm cũng là một tâm hành. Công năng của nó là nhận diện đối tượng  và ý thức được giây phút hiện tại. Gurdjieff gọi tính chất này là tự  niệm. Không có một cá nhân nào giữ chánh niệm hết, chỉ có sự hoạt động của  một tâm hành có công năng nhận diện đối tượng mà không dính mắc, ghét bỏ hay ưa  thích. Một khi chánh niệm được phát triển, ta sẽ thấy rằng mọi hiện tượng  đều chuyển tiếp và không có một cái tôi nào trong đó hết. 
  Sự hiện hữu của chúng ta giống như là một  trò chơi ráp hình vĩ đại, gồm những miếng hình nhỏ rời rạc mà ta phải sắp xếp lại  cho thứ tự, thành một tấm hình lớn có ý nghĩa. Những miếng hình nhỏ rời rạc ấy  là tứ đại, tâm và tâm hành. Khi sắp xếp những yếu tố ấy lại  với nhau theo một thứ tự nào đó, ta sẽ có được đàn ông, đàn bà, cây  cối, nhà cửa... Nhưng đó chỉ là những tấm hình lớn làm thành bởi những  miếng nhỏ hơn, một khái niệm mà thôi. Chính những nguyên tố căn bản của thân và tâm, những năng lượng đứng phía sau biến đổi, chuyển hóa, mới chính  là hiện thật kinh nghiệm của ta. 
  4. Niết-bàn:
  Thực tại tuyệt đối thứ tư là Niết-bàn. Niết-bàn là kinh nghiệm của một người đã hoàn toàn giải thoát khỏi mọi  xiềng xích, bước ra khỏi hang tối và sống tự tại dưới ánh mặt trời. Một người  đã giải thoát ra khỏi mọi sự trói buộc của thân và tâm. 
  Tất cả những thực tại tuyệt đối vừa kể đều  có thể kinh nghiệm được. Những văn tự mà ta dùng để diễn tả chúng chỉ là ngón  tay dùng để chỉ mặt trăng. Kinh nghiệm của thiền quán sẽ giúp ta kinh nghiệm được  những hiện thực này, điều ấy hoàn toàn thoát ra ngoài văn tự. Chúng ta ai cũng  đang ở trên một tiến trình phá tung những xiềng xích, kìm giữ ta trong một hang  tối si mê. 
  Trong sự tu tập sẽ có những lúc bạn cảm  thấy hình như không có một việc gì xảy ra hết, có chăng chỉ là những đau đớn,  khó chịu, bực dọc và nghi ngờ. Nhưng thật ra mỗi giây phút chánh niệm, mỗi giây  phút tỉnh thức của bạn đang làm yếu đi sợi dây xích trói buộc. Chúng ta đang dần  dần tích tụ một năng lực tỉnh thức, đến khi chánh niệm và định lực phát triển,  tâm ta sẽ trở nên vô cùng vững mạnh và sáng suốt. Chỉ cần kiên nhẫn, thật kiên  nhẫn, rồi chúng ta sẽ kinh nghiệm được thế nào là tiến trình của thân tâm, kinh  nghiệm thoát ra ngoài mọi khái niệm, không còn bị vướng mắc vào một cái tôi nào hết, bước ra khỏi hang tối, tự tại dưới ánh mặt trời của tự do và an lạc.
  Hỏi: Xin cho biết ta đã đi từ thực tại  tuyệt đối đến sự suy nghĩ bằng những khái niệm qua cách nào? Làm sao mà ta lại  có thể đi xa một sự thực giản dị như vậy? 
  Đáp: Bạn đừng nghĩ sự việc xảy ra giản dị  như là chúng ta đã rơi từ một trạng thái sáng suốt vào một trạng thái mê mờ.  Không phải như vậy. Tâm tham đắm và si mê là hai nguyên nhân chính giữ chúng ta  trong vòng sinh tử từ vô thủy đến giờ, chúng là động lực kéo ta xoay vòng theo  bánh xe luân hồi. Tìm hiểu lý do không ích lợi gì cho bản thân ta cả. Chúng ta  phải chấp nhận rằng, hiện trạng bây giờ của mình mới chính là vấn đề quan trọng  trước mắt cần phải được giải quyết. Có một con đường để giải thoát là diệt các  tâm tham, sân và si. Con đường ấy là con đường chánh niệm,  tỉnh thức, biết chú ý đến mọi việc đang xảy ra trên một bình diện kinh nghiệm  thuần túy. 
  Hỏi: Làm sao ta có thể sống trong cuộc đời  mà không cần đến khái niệm được? 
  Đáp: Xin bạn đừng hiểu lầm điều này.  Chúng ta phải dùng đến khái niệm, nhưng điều tôi muốn nói là một khi ta kinh  nghiệm điều gì vượt ra ngoài khái niệm của mình, ta thường không thể chấp nhận  được. Chúng ta phải biết sử dụng những tiến trình trong tâm thức của mình để đối  phó với thế giới bên ngoài, với cuộc đời mình sao cho hữu hiệu. Chân lý hay sự  thật có hai bình diện. Một là sự thật quy ước, có nghĩa là những sự thật  được diễn tả bằng khái niệm như là nam nữ, thời gian, không  gian, ta và người khác... Bình diện thứ hai là sự thật tuyệt đối bao gồm bốn thực tại mà ta đã nói đến ở trên. Chúng ta dùng khái niệm, nhưng đừng  nô lệ chúng. Chúng ta phải nhớ rằng chúng chỉ là những sự thật quy ước, và đứng  sau chúng mới thật là chân lý. Ở Bồ-đề Đạo Tràng, nơi chúng tôi tu học  có một con voi. Những khi chúng tôi đi xuống chợ, chúng tôi thường gặp con voi  này thong thả đi ngược về phía mình. Chúng tôi thiền hành trong chánh niệm, chậm  chạp, chú ý đến từng bước chân. Khi thấy con voi đi ngược lại, chúng tôi không  thể chỉ đứng im đấy mà niệm “thấy, thấy”, chúng tôi phải tránh sang chỗ  khác. Sử dụng tiến trình tư tưởng của mình phải đúng chỗ. 
  Hỏi: Cảm xúc là gì? 
  Đáp: Cảm xúc là những tâm hành khác nhau. Ghen, giận, thương yêu, vui, buồn... đều là những tâm hành.  Tất cả mọi cảm xúc đều có tính cách vô ngã. Không có ai đứng sau chúng cả.  Không có người nào giận, không có ai đang thương yêu... chỉ là sự chuyển vận của  những tâm hành, theo những cách khác nhau. 
  Hỏi: Những điều kiện nào làm phát sinh  chánh niệm? 
  Đáp: Trí tuệ, hay là nhận thức được sự thật  về hiện trạng của mình và thấy được con đường giải thoát. Sự tinh tấn, cố gắng  là điều kiện phát sinh chánh niệm. Niềm tin và sự tự tin cũng là điều kiện phát  sinh ra sự cố gắng, tinh tấn tu tập chánh niệm. 
  Hỏi: Xin nói thêm về tình thương yêu? 
  Đáp: Cái “không” diễn tả được tình  yêu, bởi vì trống không có nghĩa là vô ngã. Khi không có cái tôi thì sẽ không có sự phân biệt người khác. Sự phân biệt nhị nguyên này được  tạo nên bởi ý niệm về cái tôi. Khi không còn cái tôi thì tất cả  trở thành một, đồng nhất. Và khi ta không còn nghĩ rằng: “Tôi đang thương  yêu một người khác”, tình thương sẽ trở thành một diễn tả tự nhiên cho sự đồng  nhất đó. 
  Hỏi: Khi tôi có chánh niệm về chính tâm  thức của mình, cái gì có chánh niệm? 
  Đáp: Chánh niệm là một tâm hành có  công năng ghi nhớ đối tượng, không để cho tâm rơi vào sự quên lãng. Chánh niệm  có thể được dùng để nhận diện một đối tượng hay là quay lại nhận diện chính nó,  chủ thể của đối tượng, hay nói cách khác chính sự nhận biết đó. Nói chung thì  quan sát một đối tượng vẫn dễ dàng cho ta hơn, bởi vì ít nhất ta còn có thể đụng  chạm nó được. Đến khi tâm ta thật tĩnh lặng, ta sẽ có khả năng quan sát được  chính sự sinh diệt của tâm thức mình. Lúc này, mọi kinh nghiệm sẽ trở nên rất  là ngộ nghĩnh, bởi vì ta đã phá vỡ được sự đồng hóa mình với nhận thức, với sự  hiểu biết, với cái tôi, một cái ngã chấp rất là sâu kín. Nếu  chúng ta ngồi lại quan sát tiến trình của một hiện tượng, nhưng vẫn nghĩ rằng  trong ta có một chủ thể quan sát đang làm chuyện đó, thì điều ấy không khó khăn  gì. Nhưng thật ra không có ai làm việc quan sát cả. Chỉ có nhận thức phát sinh  lên, rồi diệt đi trong mỗi giây phút. Sự nhận thức hay tâm thức ấy cũng chỉ là  một tiến trình. Nó vô thường, vô ngã, không có cái tôi nào  hết.
 
  Hỏi: Trí nhớ là gì? Nó hoạt động ra sao? 
  Đáp: Trí nhớ là một hoạt động rất phức tạp  của một số tâm hành, trong đó chủ yếu là sự nhận thức. Nhận thức là một tâm  hành có công năng nhận biết, phân biệt được những đặc tính riêng biệt của đối  tượng. Nhờ nhận thức mà ta có khả năng nhận biết được một đối tượng bằng những  kinh nghiệm trong quá khứ. Trí nhớ là một nhóm tư tưởng nhận thức về đối tượng  đã xảy ra trong quá khứ. 
  Hỏi: Vì đâu mà mỗi người có một khuynh hướng  hành động khác nhau? 
  Đáp: Nếu ta tiếp tục hành động theo một ý  chí nào đó, sau thời gian dài điều này sẽ tạo nên một khuynh hướng. Ngay bây giờ  chúng ta đang củng cố chánh niệm, định lực và trí tuệ, tức là chúng ta đang tạo  một khuynh hướng tiến về sự hiểu biết và trí tuệ. Cũng vậy, trong quá khứ ta đã  lặp đi lặp lại một số hành động, ý muốn nào đó, chúng dần dần tạo nên những  tánh tình khác nhau trong mỗi chúng ta. Từ đó, chúng ta mỗi người có một khuynh  hướng làm một số việc khác nhau. Tánh tình của ta là di sản của những khuynh hướng  này. Nhưng tánh tình không phải là một khuynh hướng duy nhất, mặc dù có thể là  một tâm hành nào đó đang chi phối mạnh hơn trong lúc ấy. Một người nào  tham muốn, có nghĩa là tiếp tục đeo đuổi, bám víu, dính mắc vào đối tượng trong  thất niệm, sẽ bị tâm hành tham lam chi phối. Rồi dần dần sự tham lam ấy sẽ hiển  lộ ra trong hành động của anh ta. Ngược lại, khi ta thực tập xả bỏ và từ bi, dần  dần những tâm hành này sẽ trở nên vững mạnh và chúng sẽ biểu lộ ra trong tánh  tình của ta. 
  Hỏi: Còn ý chí thì ở đâu? 
  Đáp: Sự chọn lựa là một tâm hành khác nữa.  Những tâm hành đều có liên hệ với nhau một cách vô cừng phức tạp. Trong đó có sự  lựa chọn, tiến trình quyết định, sự cố gắng. Mỗi tâm hành đều có một công năng  và tính chất đặc biệt. Một trong những nguyên nhân gần nhất cho việc thiết lập  chánh niệm là được nghe giáo pháp của đức Phật. Nó trở thành một nguyên nhân  khơi dậy tâm hành tinh tấn. Đức Phật thường nhắc nhở về những lợi ích lớn lao  cho những ai được nghe giáo pháp của ngài. Chúng sẽ khơi dậy trong ta sự cố gắng  tu tập, phát triển chánh niệm. Mọi tâm hành, kể cả “ý chí”, đều có sẵn  tiềm ẩn trong tâm chúng ta. Chúng ta không cần phải làm gì để tạo ra chúng. Vấn  đề là ta muốn trau dồi, đào luyện tâm hành nào. Những quyết định chánh đáng có  được là nhờ học hỏi nơi giáo lý, hiểu được sự thật. Điều này là động lực thúc đẩy  ta tu tập theo con đường chánh niệm và tỉnh thức, phát triển trí tuệ và hiểu biết.  Trong kinh có nói rằng: “Có hành động nhưng không có người hành động, có việc  làm nhưng không có người thực hiện, có khổ đau nhưng không có người chịu khổ,  có giải thoát nhưng không có người giác ngộ.”
  Hỏi: Trí thông minh là gì? 
 Đáp:  Thông minh là một khái niệm về tư tưởng trên bình diện tâm thức. Ta có thể đào  luyện, phát triển và sử dụng nó. Nhưng nó cũng có thể là một trở ngại. Tất cả đều  tùy theo ta có khả năng hiểu được tiến trình của tư tưởng đến mức nào. Nếu  chúng ta hiểu được đặc tính của nó, nó sẽ không là một chướng ngại. Nhưng nếu  chúng ta nhận lầm ý nghĩ về sự vật với chính sự vật, nó sẽ trở thành một chướng  ngại, bởi vì ta đã lầm lẫn giữa khái niệm và thực tại. Nhưng sự  thông minh tự nó cũng chỉ là một phần nhỏ của tiến trình tâm, thân. Tam tổ Tăng  Xán của Thiền Trung Hoa có viết: “Đạo giác ngộ không phải khó đạt, chỉ do  nơi sự phân biệt chọn lựa. Chỉ cần dẹp bỏ hết lòng thương ghét thì tự nhiên được  sáng suốt thấu đáo.