Điều người khác nghĩ về bạn là bất ổn của họ, đừng nhận lấy về mình. (The opinion which other people have of you is their problem, not yours. )Elisabeth Kubler-Ross

Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thành công không phải là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa của thành công. Nếu bạn yêu thích công việc đang làm, bạn sẽ thành công. (Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.)Albert Schweitzer
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Đừng làm cho người khác những gì mà bạn sẽ tức giận nếu họ làm với bạn. (Do not do to others what angers you if done to you by others. )Socrates
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 15. Giải thích phẩm Từ lòng đất phóng lên »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3
»» 15. Giải thích phẩm Từ lòng đất phóng lên

(Lượt xem: 20)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 - 15. Giải thích phẩm Từ lòng đất phóng lên

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Phẩm Từ lòng đất phóng lên, thứ mười lăm

Giải thích tên phẩm

[Đức Như Lai] là bậc thầy tôn nghiêm dạy đạo cao quý [nên chư Bồ Tát] tận tụy hết lòng kính phụng. [Vì vậy,] khi Như Lai ban ra một lời, khắp bốn phương [chư Bồ Tát từ trong lòng đất] đều phóng vọt lên, cho nên gọi tên là phẩm “Từ lòng đất phóng lên”.

[Đức Như Lai] trong ba đời giáo hóa hoằng đạo, ân huệ lớn lao khôn cùng, như một vầng trăng chiếu soi thành muôn bóng,[1] không ai suy lường nổi; nay triệu vời [chư Bồ Tát] quá khứ để chỉ bày [giáo pháp] hiện tại, rộng truyền kinh điển để làm lợi ích [thính chúng] đương thời; cho nên gọi tên là phẩm “Từ lòng đất phóng lên”.

Hư không tịch tĩnh an nhiên, vốn không có [thời điểm] trước sau sớm muộn, do kẻ mê bám chấp hình tích nên khuất lấp bản nguyên; nay quy tụ hình tích xưa để chỉ rõ việc hiện nay, phá chỗ gần để hiển lộ việc xa, cho nên gọi tên là phẩm “Từ lòng đất phóng lên”.

Thị hiện đạo trường tịch diệt, [đức Thế Tôn như] người cha trẻ; an trụ cõi Thường tịch quang, [chư Bồ Tát như] những đứa con già;[2] chỉ ra [ công năng của] liều thuốc [chánh pháp][3] để chúng sanh đều được biết, cho nên gọi tên là phẩm “Từ lòng đất phóng lên”. Đại lược là như thế.

[Phần kệ tụng trong] kinh văn nói:

“Các vị này từ đâu?
Nhân duyên gì quy tụ?”

Nay sẽ dùng những nghĩa như trên để giải thích phẩm này. Hiển lộ nhân duyên của bốn pháp tất đàn để giải thích, cho nên gọi tên là phẩm “Từ lòng đất phóng lên”.

Từ đây trở về cuối là phần thứ hai của đoạn lớn [trong toàn bộ kinh], mở bày chỗ hình tích gần đây (cận tích) của quan hệ thầy trò, hiển lộ chỗ bản nguyên xa xưa (viễn bản) của quả vị Phật. Kinh văn phần này lại chia làm 3 phần. Thứ nhất là từ trên cho đến câu “các ông nhân đó sẽ tự mình được nghe”. Đây là thuộc về phần mở đầu. Thứ hai là từ câu “Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ Tát Di-lặc” cho đến hết 19 khổ kệ do Bồ Tát Di-lặc nói ra trong phẩm Phân biệt công đức. Đây là thuộc phần chánh thuyết. Thứ ba là từ sau phần kệ tụng nói trên cho đến hết 11 phẩm rưỡi cuối kinh. Đây là thuộc phần lưu thông. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, những Bồ Tát từ các cõi nước phương khác đến, nhiều hơn số cát của tám con sông Hằng, đều đứng lên giữa đại chúng, cùng chắp tay đảnh lễ thưa với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu Thế Tôn cho phép chúng con sau khi Phật diệt độ được ở thế giới Ta-bà siêng năng tinh tấn, bảo vệ giữ gìn, tụng đọc, sao chép, cúng dường kinh điển này, thì chúng con sẽ giảng thuyết rộng kinh này ở đây.”

Khi ấy, đức Phật bảo các vị Đại Bồ Tát: “Thôi đi, các thiện nam tử! Không cần đến các ông hộ trì kinh này. Vì sao vậy? Thế giới Ta-bà của ta đã sẵn có những Bồ Tát nhiều như số cát của sáu mươi ngàn con sông Hằng, mỗi vị Bồ Tát ấy đều có số quyến thuộc cũng nhiều bằng số cát của sáu mươi ngàn con sông Hằng. Sau khi ta diệt độ, tất cả những vị này sẽ bảo vệ giữ gìn, tụng đọc, giảng rộng kinh này.”

Phần thứ nhất chia thành 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nói việc [các Bồ Tát từ trong lòng đất] phóng vọt lên; tổng đoạn thứ hai nêu nghi vấn [của đại chúng].

Tổng đoạn thứ nhất lại chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất nói các vị Bồ Tát phương khác xin được rộng truyền kinh này; đoạn thứ hai nêu việc Như Lai không cho phép; đoạn thứ ba nêu việc các Bồ Tát [từ trong lòng đất] phóng vọt lên.

Các vị Bồ Tát phương khác nghe [dạy rằng] việc rộng truyền kinh điển này được phước đức lớn lao, cho nên đều muốn phát nguyện ở lại cõi này để rộng truyền kinh. Do đó mà thưa thỉnh xin được phép làm.

Đức Như Lai ngăn lại việc này có 3 ý nghĩa. Thứ nhất, các Bồ Tát [đến từ] phương khác mỗi người đều đã có phần trách nhiệm riêng, nếu ở lại cõi này thì phải bỏ đi lợi ích ở cõi kia. Thứ hai, các Bồ Tát từ phương khác đến kết duyên với cõi Ta-bà này hãy còn mới mẻ cạn cợt, tuy có ý muốn rộng truyền kinh điển nhưng lợi ích sẽ không được lớn lao. Thứ ba, nếu cho phép các Bồ Tát phương khác rộng truyền kinh này thì không thể gọi lên các Bồ Tát từ phương dưới, như vậy thì không phá được hình tích [gần], không làm hiển lộ được [bản nguyên] xa xưa. Đó là 3 ý nghĩa của việc Như Lai ngăn lại không cho phép [các Bồ Tát phương khác rộng truyền kinh này].

Đức Như Lai gọi [các Bồ Tát từ] phương dưới lên cũng có 3 ý nghĩa. Thứ nhất là nghĩa chính đệ tử của Phật nên rộng truyền giáo pháp của Phật. Thứ hai là vì có nhân duyên sâu rộng nên có thể làm lợi ích rộng khắp cõi này, cũng làm lợi ích khắp các cõi của phân thân Phật, cũng làm lợi ích cho khắp các cõi nước phương khác. Thứ ba là có thể giúp khai mở phá trừ hình tích gần đây, hiển lộ bản nguyên xa xưa.[4] Do các ý nghĩa ấy nên ngăn cản các Bồ Tát phương khác mà gọi lên các Bồ Tát từ phương dưới.

KINH VĂN

Khi đức Phật vừa nói lời này, mặt đất ở khắp các cõi nước trong thế giới Ta-bà đều chấn động nứt ra, rồi từ trong lòng đất có vô số ngàn muôn ức vị Đại Bồ Tát đồng thời phóng vọt lên. Các vị Bồ Tát này đều có thân màu vàng ròng, đủ ba mươi hai tướng tốt, tỏa hào quang vô lượng, trước đó đều an trụ trong khoảng hư không bên dưới cõi Ta-bà. Các vị nghe âm thanh thuyết pháp của đức Phật Thích-ca Mâu-ni nên từ phương dưới hiện lên.

Mỗi một vị Bồ Tát ấy đều là bậc thượng thủ dẫn dắt đại chúng. Số lượng các vị Bồ Tát dẫn theo quyến thuộc nhiều như số cát của sáu mươi ngàn con sông Hằng [đã là rất nhiều], huống chi những vị dẫn theo quyến thuộc như số cát của năm mươi ngàn con sông Hằng [lại càng nhiều hơn nữa]; huống chi những vị dẫn theo số quyến thuộc như số cát của bốn mươi ngàn, ba mươi ngàn, hai mươi ngàn hoặc mười ngàn con sông Hằng [lại càng nhiều hơn nữa]; cho đến những vị dẫn theo số quyến thuộc như số cát của một sông Hằng, nửa sông Hằng, hoặc chỉ một phần tư, hoặc chỉ một phần trong ngàn muôn ức vô số phần cát sông Hằng [lại càng nhiều hơn nữa]; huống chi là những vị dẫn theo ngàn muôn ức vô số quyến thuộc, hoặc một tỷ, hoặc mười triệu, một triệu cho đến chỉ có mười ngàn, một ngàn, hoặc một trăm cho đến chỉ mười người; hoặc chỉ dẫn theo năm, bốn, ba, hai, một người đệ tử, hoặc những vị chỉ đi một mình, ưa thích hạnh xa lìa [lại càng nhiều hơn nữa. Sự so sánh như trên là vô lượng vô biên, dùng các phép tính toán thí dụ đều không thể biết được.[5]

Đoạn thứ ba từ câu “Khi đức Phật vừa nói ra lời này”, nêu việc các Bồ Tát [từ trong lòng đất] phóng vọt lên, chia làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là mô tả của người chép kinh; thứ hai là nêu việc [các Bồ Tát] thưa hỏi vấn an. Mỗi tiểu đoạn này đều có 5 phân đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất có 5 phân đoạn. Thứ nhất là nêu việc [các Bồ Tát từ trong lòng đất] phóng vọt lên. Thứ hai là mô tả thân tướng của các Bồ Tát ấy. Thứ ba là nêu trụ xứ trước đây của các Bồ Tát. Thứ tư là nêu việc các vị nghe lời [Phật Thích-ca] truyền gọi. Thứ năm là mô tả về quyến thuộc của các vị Bồ Tát này.

Nói về trụ xứ [phương dưới] tức là cõi Thường tịch quang. Thường là nghĩa đức “thường”; tịch là nghĩa đức “lạc”; quang là nghĩa hai đức “ngã” và “tịnh”. Đó là 4 đức của tạng pháp sâu kín. Trụ xứ của các vị Bồ Tát này chính là dùng pháp không trụ mà trụ nơi tạng pháp sâu kín. Nói phương dưới là hàm nghĩa đáy sâu của tánh pháp, là địa vị cùng cực của tông chỉ diệu huyền, cho nên nói là phương dưới. Ở bên dưới thì không thuộc bên này, giữa không trung thì không thuộc bên kia, không thuộc bên này cũng không thuộc bên kia, đó là trung đạo. Ra khỏi lòng đất mà không ở bên trên, cũng không ở mặt đất, không trên không dưới, trụ giữa không trung cũng là trung đạo.

Về nguyên do [các Bồ Tát] hiện đến, đó là nghe lời Phật truyền gọi mà đến, vì rộng truyền chánh pháp mà đến, vì phá sự bám chấp [vào hình tích gần đây] mà đến, vì hiển lộ bản nguyên [xa xưa] mà đến. Những nghĩa ấy đều giống như đã nói ở trước.

Về việc [các Bồ Tát] dẫn theo quyến thuộc, nếu thường tình thế gian thì cho rằng dẫn theo [số quyến thuộc] như số cát của sáu muôn, năm muôn con sông Hằng là nhiều, chỉ ba muôn, hai muôn là ít; những vị đi một mình là lẻ loi đơn độc. Nhưng nếu y theo hàm ý của kinh văn mà xét thì [số Bồ Tát dẫn theo quyến thuộc như số cát của] sáu muôn, năm muôn sông Hằng là ít, số [Bồ Tát] đi một mình là nhiều. Bởi vì kinh văn [có hàm ý nói] “những vị chỉ đi một mình, ưa thích hạnh xa lìa lại càng nhiều hơn nữa”.[6]

Nếu theo ý nghĩa pháp môn mà xét thì hết thảy đều là công đức của bậc đạo sư, có thể dẫn dắt đại chúng đến bảo sở, tức là giải thoát rốt ráo, nên biết rằng một mình không phải riêng lẻ mà [như số cát của] sáu muôn [sông Hằng] cũng không phải là nhiều.

[Ý nghĩa của] một tức là một đạo thanh tịnh, hai tức là định và tuệ, ba tức là giới, định và tuệ, bốn tức bốn đế, năm tức năm loại mắt, sáu tức sáu ba-la-mật. Mỗi một ba-la-mật đều đủ mười pháp giới, mỗi pháp giới đều có mười [pháp giới]. Mười tức có trăm, trăm tức đủ ngàn. Mười điều thiện tức có [đủ muôn điều thiện]. Một ba-la-mật có đủ muôn công hạnh, sáu ba-la-mật tức sáu mươi ngàn pháp môn. Nhiều không phải là nhiều, một không phải là ít. Không phải nhiều, không phải ít nhưng là nhiều, là ít. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Các vị Bồ Tát ấy sau khi từ lòng đất phóng lên rồi, mỗi vị đều đến chỗ tháp bảy báu của đức Như Lai Đa Bảo và đức Phật Thích-ca Mâu-ni trên hư không, cùng hướng về hai vị Thế Tôn, cúi đầu áp mặt đảnh lễ dưới chân các ngài, lại cũng đảnh lễ chư Phật ở các tòa sư tử dưới những cội cây báu. [Sau đó các vị] đi nhiễu quanh về bên phải [hai đức Thế Tôn] ba vòng rồi chắp tay cung kính, dùng những cách xưng tán khen ngợi của hàng Bồ Tát để xưng tán. Rồi các vị cùng đứng sang một bên, hân hoan chiêm ngưỡng hai đức Thế Tôn.

Từ lúc các vị Bồ Tát từ trong lòng đất phóng vọt lên rồi dùng đủ các pháp xưng tán để ngợi khen xưng tán Phật, thời gian trải qua đến năm mươi tiểu kiếp. Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni vẫn ngồi an tịnh, cả bốn chúng trong pháp hội cũng đều lặng yên an tịnh. Do thần lực của Phật nên đại chúng chỉ cảm thấy như trải qua nửa ngày. Bấy giờ, cũng do thần lực của Phật, bốn chúng đều nhìn thấy các vị Bồ Tát này biến hiện đầy khắp hư không trong vô số trăm ngàn muôn ức cõi nước.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Các vị Bồ Tát ấy sau khi từ lòng đất phóng lên…”, nêu việc [các Bồ Tát] thưa hỏi vấn an [đức Phật] , chia làm 5 phân đoạn. Thứ nhất, [các vị Bồ Tát] dùng ba nghiệp [thân, khẩu, ý] cúng dường Phật; thứ hai, trình bày lời thưa hỏi vấn an; thứ ba, Phật đáp lời cho biết Phật an vui; thứ tư, [các Bồ Tát] đọc kệ vui theo; thứ năm, đức Như Lai khen ngợi.

Phân đoạn thứ nhất, [các Bồ Tát dùng] ba nghiệp cúng dường. “Thời gian trải qua đến 50 tiểu kiếp”, lại nói “bốn chúng đều nhìn thấy”, đó là nghĩa che khuất đi thời gian dài mà hiển thị thời gian ngắn. Lại nhờ vào thần lực [của Phật] mà nhìn thấy [không gian] nhỏ hẹp trở thành rộng lớn khắp cùng. Cả hai việc như vậy đều là không thể nghĩ bàn.

[Các vị Bồ Tát] lễ bái, nhiễu quanh Phật là [cúng dường bằng] thân, theo đúng pháp xưng tán là [cúng dường bằng] khẩu, chiêm ngưỡng Phật là [cúng dường bằng] ý.

Năm mươi tiểu kiếp lại khiến cho cảm thấy như nửa ngày, đó là thời gian không thể nghĩ bàn. Chỗ thấy của đức Như Lai vốn không có hai tướng phân biệt, các vị Bồ Tát đến từ phương dưới lúc nào cũng chiêm ngưỡng xưng tán Phật, đức Như Lai lúc nào cũng lặng yên thọ nhận sự xưng tán ấy, người thấu hiểu thì biết thời gian ngắn tức là dài, gọi là 50 tiểu kiếp; người mê hoặc thì đối với thời gian dài mà cho là ngắn, gọi là chỉ như nửa ngày. Đây là vì [phân biệt rõ] bản nguyên với hình tích mà bày ra để dẫn dắt. Khi đức Như Lai chưa nói ra thì mê mờ không thấy bản nguyên, bám chấp hình tích; lúc Phật đã khai mở chỉ bày thì thấu hiểu được [hình tích] gần đây, rõ biết [bản nguyên] xa xưa, cũng là cái biết không thể nghĩ bàn thứ nhất.

Bốn chúng nhìn thấy chư Bồ Tát biến hiện khắp nơi, đó cũng là việc không thể nghĩ bàn. Vì thường thì chỗ thấy của phàm phu (nhục nhãn) cũng như chư thiên (thiên nhãn) đều có giới hạn, không thể nhìn thấy quá xa, nhưng nay lại thấy được “đầy khắp hư không”. Thấy mưa to thì biết là có rồng lớn, thấy hoa sen tươi tốt thì biết là hồ nước sâu, thấy [chư Bồ Tát] ứng hiện đầy khắp hư không thì biết là chân thật đầy khắp pháp giới.

KINH VĂN

Trong số các vị Bồ Tát này có bốn vị Đạo sư, vị thứ nhất tên là Thượng Hạnh, vị thứ hai là Vô Biên Hạnh, vị thứ ba là Tịnh Hạnh và vị thứ tư là An Lập Hạnh. Bốn vị Bồ Tát này là những bậc thầy dẫn dắt, mỗi vị đều đứng ra trước đại chúng, cùng chắp tay chiêm ngưỡng Phật và thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Ngài có được ít bệnh não và thường an vui chăng? Những chúng sinh cần hóa độ có dễ giáo hóa chăng? Có làm cho Thế Tôn phải mệt nhọc chăng?”

Bấy giờ, bốn vị Đại Bồ Tát [muốn lặp lại ý nghĩa thưa hỏi nên] đọc kệ rằng:

Thế Tôn có an vui?
Có ít bệnh não chăng?
Việc giáo hoá chúng sinh,
Có mệt nhọc hay chăng?

Lại nữa, các chúng sinh,
Giáo hóa dễ dàng chăng?
Có khiến đức Thế Tôn,
Phải sinh nhọc nhằn chăng?

Phân đoạn thứ hai nêu việc các Bồ Tát thưa hỏi vấn an lại có 2 tiểu ý.] Thứ nhất, nêu tên 4 vị đạo sư; thứ hai, trình bày lời thưa hỏi vấn an. Phần thưa hỏi vấn an lại chia làm hai, gồm văn trường hàng và kệ tụng. Phần văn trường hàng cũng chia làm hai. Thứ nhất thưa hỏi Như Lai có được an vui, thứ hai thưa hỏi chúng sanh có dễ hóa độ. Đại lược là như vậy.

Chỉ nêu tên 4 vị, là nêu ý [Như Lai] đã dự định sẽ “khai, thị, ngộ, nhập” [đưa thính chúng thể nhập] 40 quả vị, cũng như trong kinh Hoa Nghiêm chỉ nêu 4 vị Pháp Tuệ, Đức Lâm, Kim Tràng, Kim Tạng để thuyết giảng về 40 quả vị. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Bấy giờ đức Thế Tôn ở giữa đại chúng Bồ Tát đáp lại rằng: “Đúng vậy, đúng vậy. Này các thiện nam tử! Như Lai an vui, ít bệnh não, các chúng sanh đều được hóa độ dễ dàng không mệt nhọc. Vì sao vậy? Những chúng sanh này từ nhiều kiếp quá khứ đến nay vẫn thường được ta giáo hóa, lại cũng từng cúng dường tôn kính chư Phật quá khứ, trồng các căn lành. Những chúng sanh như vậy vừa được nhìn thấy thân ta, nghe tiếng thuyết pháp của ta thì đều tin nhận rồi thể nhập trí tuệ Như Lai, chỉ trừ những ai trước đây đã tu học theo Tiểu thừa. Nhưng những người đã học Tiểu thừa thì hôm nay ta cũng khiến cho được nghe kinh [Pháp hoa] này rồi thể nhập trí tuệ Phật.”

Phân đoạn thứ ba, đức Như Lai đáp lời thưa hỏi vấn an [của các Bồ Tát], có 2 ý. w Thứ nhất, Như Lai an vui; thứ hai, chúng sanh dễ hóa độ. Hai việc này thành tựu tương quan, vì được an vui nên chúng sanh dễ hóa độ, vì chúng sanh dễ hóa độ nên được an vui. w Thứ hai, chúng sanh dễ hóa độ, phân thành hai tiểu ý.

Tiểu ý thứ nhất là những chúng sanh căn tánh nhanh nhạy, phước đức sâu dày, từ nhiều kiếp quá khứ đến nay thường được giáo hóa bằng giáo pháp Đại thừa, cho nên vừa nhìn thấy thân Phật liền tiếp thụ giáo pháp Hoa nghiêm, thể nhập trí tuệ Phật, như trái cây đã chín mùi nên dễ rụng. Đó là những chúng sanh dễ hóa độ.

Tiểu ý thứ hai là những chúng sanh căn cơ trì độn, phước đức mỏng manh cạn cợt, từ nhiều kiếp quá khứ đến nay không được thọ nhận sự giáo hóa bằng Đại thừa. [Phật] vì những người này nên khai mở sự trì độn, thuyết dạy giáo pháp tu tập từng bước theo thứ lớp như Tạng giáo, Phương đẳng, Bát-nhã… để điều phục họ. [Hôm nay Phật] cũng khiến cho những chúng sanh này được nghe kinh Pháp hoa, thể nhập trí tuệ Phật. Nếu so với những chúng sanh thuộc hạng trước thì có khó hóa độ hơn, nhưng đối với Phật vẫn là rất dễ, vì Phật rõ biết phương tiện thích hợp để đạt được kết quả giáo hóa, vỗ về tùy bệnh cho thuốc, đến khi đạt ngộ thì trí tuệ tương đồng. Nay lược nêu 10 điều để giải thích về phương tiện thích hợp của Phật.

Thứ nhất, có chỗ thấy ban đầu hoặc chỗ thấy ngày nay.

Thứ hai, [thuyết pháp] có khai có hợp hoặc không khai không hợp.

Thứ ba, có rộng về chiều dọc hoặc lược về chiều ngang.

Thứ tư, có một bản nguyên nhiều hình tích hoặc nhiều hình tích chung cùng một bản nguyên.

Thứ năm, có giảng giải thêm hoặc không giảng giải thêm.

Thứ sáu, có cõi nước biến hiện hoặc cõi nước không biến hiện.

Thứ bảy, có nhiều nơi chốn hoặc không nhiều nơi chốn.

Thứ tám, có bác bỏ hoặc không bác bỏ.

Thứ chín, có chỉ thẳng làm rõ pháp chân thật hoặc khai mở trừ bỏ pháp quyền thừa để hiển bày pháp chân thật.

Thứ mười, có căn cơ nhanh nhạy sớm thuần thục hoặc căn cơ trì độn chậm thuần thục.

Thứ nhất, chỗ thấy lúc Phật mới thành đạo gọi là chỗ thấy ban đầu; trên pháp tòa giữa hội Pháp hoa lâu xa về sau mới chỉ bày chân thật gọi là chỗ thấy ngày nay.

Thứ hai, như mặt trời vừa lên, trước hết soi chiếu trên núi cao, tức là [thuyết kinh Hoa nghiêm dạy thẳng] pháp đốn ngộ, không khai không hợp; vì những người chưa thể nhập được nên khai mở pháp đốn mà nói pháp tu tập dần dần theo thứ lớp. [Dùng năm thời thuyết giáo như] năm vị của sữa để điều phục dần dần khiến quay về thể nhập pháp đốn ngộ.

Thứ ba, bậc đốn ngộ trực nhập pháp giới nên nói là rộng về chiều dọc, không qua thời gian; không trải qua các pháp phương tiện, cho nên nói là lược về chiều ngang, [tức nhất thời chứng ngộ]. Nay trải qua [năm thời thuyết giáo như] năm vị của sữa, tức là rộng về chiều ngang, [trải qua thời gian mới chứng ngộ], khi được thể nhập trí tuệ Phật cũng là rộng về chiều dọc.

Thứ tư, [ví như đóa hoa sen chỉ] một đài hoa là một bản nguyên, nở ra ngàn cánh sen là nhiều hình tích. Những hình tích ấy đều không khác với các kinh điển, nên nói là cùng một bản nguyên; bản nguyên ấy không giống như kinh điển nên gọi là riêng khác.

Thứ năm, [giảng giải thêm là như] thêm vào 4 vị Bồ Tát để thuyết giảng 40 quả vị; như Phật tự thuyết ra các nghĩa “khai, thị, ngộ, nhập” thì không thêm vào người khác.

Thứ sáu, thế giới Hoa Tạng[7] nên cõi nước không biến hiện; hai lần biến đổi mặt đất nên gọi là cõi nước biến đổi.

Thứ bảy, [như Phật thuyết kinh Hoa nghiêm có] tám pháp hội ở bảy nơi là nhiều nơi chốn; [pháp hội Pháp hoa] từ núi Kỳ-xà-quật mở rộng khắp hư không nên không nhiều nơi chốn.

Thứ tám, trừ bỏ hóa thành, đổi khách lạ [thành con trong nhà], cho nên nói là bác bỏ; không có những việc như vậy là không bác bỏ.

Thứ chín, theo đường lớn thẳng tắt [Đại thừa] nên gọi là chỉ thẳng làm rõ pháp chân thật; giảng rõ pháp Thanh văn là khai mở trừ bỏ pháp quyền thừa để hiển bày pháp chân thật.

Thứ mười, căn cơ nhanh nhạy, cơ duyên thuần thục nên ngay ban đầu [sau khi Phật thành đạo] đã thể nhập trí tuệ Phật; căn cơ trì độn đợi sau mới thuần thục nên hôm nay [trong hội Pháp hoa] thể nhập trí tuệ Phật.

Nhân duyên thích hợp [của chúng sanh] không giống nhau nên chỉ lược nói mười trường hợp khác biệt [như trên], nhưng hạt giống trí tuệ trong khắp pháp giới đều bình đẳng không khác biệt. Do vậy, Kinh văn nói: “Vừa được nhìn thấy thân ta, nghe tiếng thuyết pháp của ta thì đều tin nhận rồi thể nhập trí tuệ Như Lai, chỉ trừ những ai trước đây đã tu học theo Tiểu thừa. Nhưng những người đã học Tiểu thừa thì hôm nay ta cũng khiến cho được nghe kinh [Pháp hoa] này rồi thể nhập trí tuệ Phật.” Chỗ này đã nói rất rõ ràng, không nên nghi ngờ.

Các bậc thầy nhìn thấy nhân duyên khác biệt liền theo nhân duyên khác biệt đó mà giảng giải mê mờ, không biết rằng như vậy ngược lại càng thêm xa cách đạo. Nếu rõ biết lẽ thật vốn đồng thì ngàn bánh xe đi chung đường vẫn theo cùng một dấu vết, trí tuệ Phật vốn không có khác biệt.

Các nhà cựu giải cho rằng: “Hoa nghiêm giảng nghĩa rốt ráo, ví như trọn chữ,[8] là pháp thường trụ. Pháp hoa giảng nghĩa không rốt ráo, ví như chưa trọn chữ, là pháp không thường trụ.”

Nay dùng chính kinh văn phần này để giải thích. Nếu như thể nhập [trí tuệ Phật] ngay ban đầu [sau khi Phật thành đạo][9] là nghĩa rốt ráo, còn đến ngày nay [khi nghe kinh Pháp hoa] thể nhập trí tuệ Phật là không rốt ráo, vậy thì sự thể nhập lúc ban đầu đó là trí tuệ Phật, còn ngày nay thể nhập thì không phải trí tuệ Phật hay sao? Còn nếu như trí tuệ Phật vốn đã là như nhau, thì nghĩa rốt ráo cũng giống nhau không khác. Với các nghĩa “trọn chữ” hay “thường trụ” cũng đều như vậy. Đại lược là như thế.

Phái Địa luận cho rằng Hoa nghiêm là tông chỉ viên mãn, còn Pháp hoa không phải tông chỉ chân thật. Nay cũng dùng Kinh văn phần này để giải thích [như trên].

KINH VĂN

Bấy giờ, các vị Đại Bồ Tát liền nói kệ rằng:

“Lành thay, thật lành thay!
Đức Thế Tôn Đại Hùng!
Khi những chúng sanh ấy,
Dễ dàng được hóa độ,
Có thể thưa hỏi Phật,
Về trí tuệ sâu xa,
Rồi tin theo, thực hành,
Chúng con đều vui theo.”

Phân đoạn thứ tư, các Bồ Tát nghe Phật đáp lời sinh lòng vui theo. Về người thưa hỏi thì trong kinh Hoa nghiêm là bốn vị Đại sĩ. Trong kinh Pháp hoa này, ngài Xá-lợi-phất thưa thỉnh 3 lần đều là thưa hỏi. Về việc thưa hỏi thì chính là hỏi về trí tuệ Phật.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Như Lai ngợi khen các vị Đại Bồ Tát thượng thủ rằng: “Lành thay, lành thay, các thiện nam tử! Các ông có thể đối với [việc làm của] đức Như Lai sinh lòng vui theo.”

Phân đoạn thứ năm, đức Như Lai nhắc lại và khen ngợi. [Nội dung nhắc lại] rất khác so với nội dung thưa hỏi. Các Bồ Tát [đọc kệ] vui theo vì những người thưa hỏi đều là hàng Bồ Tát “có thể thưa hỏi Phật, về trí tuệ sâu xa”, và những người được giáo hóa thì sau khi nghe [Phật thuyết giảng] “rồi tin theo thực hành”, do vậy nên nói “chúng con đều vui theo”. Nhưng trong lời đức Như Lai nhắc lại thì nói rằng “với việc làm của đức Như Lai sinh lòng vui theo”, tức là nói về người giáo hóa.

Vậy ý nghĩa [khác biệt] này là thế nào? Vì những người thưa hỏi vốn đều là cổ Phật,[10] nên nói “các ông có thể… sinh lòng vui theo” tức là nói [vui theo] Như Lai. Như vậy, các Bồ Tát [đọc kệ] vui theo là nói theo nghĩa hình tích hiện ra; đức Như Lai nhắc lại và khen ngợi là theo nghĩa bản nguyên xa xưa. Đây cũng là ngầm nêu ý nghĩa thọ lượng [của Như Lai]. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc cùng với đại chúng Bồ Tát nhiều như số cát của tám ngàn con sông Hằng đều khởi lên ý nghĩ rằng: “Từ xưa nay chúng ta chưa từng nhìn thấy, chưa từng nghe biết về những vị Đại Bồ Tát này, [nay lại thấy] từ trong lòng đất phóng vọt lên đứng trước đức Thế Tôn, chắp tay cung kính cúng dường, thưa hỏi Như Lai.”

Từ câu “Khi ấy Bồ Tát Di-lặc cùng với đại chúng Bồ Tát nhiều như số cát của tám ngàn con sông Hằng”[11] trở đi là tổng đoạn thứ hai, mở đầu nghi vấn.

[Bồ Tát Di-lặc tự trình bày đại ý rằng,] đối với hết thảy những vị Đại sĩ từ mười phương không ngừng hiện đến các pháp hội, từ đạo tràng [khi đức Thế Tôn thành đạo] cho đến pháp tòa hôm nay, tuy số nhiều không có giới hạn nhưng con có thể dùng sức trí tuệ của Bồ Tát Bổ xứ[12] nên đều thấy biết tất cả, vậy mà trong chúng [Bồ Tát từ lòng đất phóng lên] đây con không biết được vị nào cả. Hơn nữa con từng đi giáo hóa khắp mười phương, kề cận phụng sự chư Phật, nên đối với đại chúng của chư Phật con cũng đều quen biết rõ, nhưng xét lại trong những nơi đã từng đi qua cũng không nhận ra được vị nào [trong chúng Bồ Tát này]. Suy xét như vậy đều không biết được chuyện đến hay đi [của đại chúng Bồ Tát này].

Vì các bậc Đại sĩ [từ lòng đất phóng lên] kia vốn đã tu tập trước, thành tựu trước, ngài Di-lặc là hàng hậu bối, theo học về sau. Người đến sau không thể biết người đi trước, cho nên không biết ai trong số Bồ Tát này.

Lại nữa, những vị Đại sĩ kia vốn từ nơi tận cùng của bản nguyên thật tướng mà ứng hiện khắp mười phương, mỗi nơi giáo hóa riêng biệt đều ứng hiện chân thật, không phải cùng cảnh giới như ngài Di-lặc, cho nên không thể biết được các ngài.

Lại nữa, đức Phật vì giao phó việc rộng truyền kinh điển nên mới triệu tập các vị Đại sĩ này. Các vị nghe mệnh lệnh của thầy nên đến, cũng là ngấm ngầm để nghe về thọ lượng [Như Lai], không phải việc đại chúng đương thời biết được, cho nên nói là không biết.

Như trên là dựa theo ý nghĩa bốn tất đàn[13] để giải thích phần mở đầu nghi vấn. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di-lặc rõ biết ý nghĩ trong tâm của chúng Bồ Tát nhiều như số cát tám ngàn con sông Hằng, đồng thời cũng muốn giải đáp mối nghi của chính mình, nên liền chắp tay cung kính hướng về đức Phật đọc kệ thưa hỏi rằng:

Tổng đoạn nêu nghi vấn chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất là nghi vấn của Bồ Tát ở cõi này, đoạn thứ hai là nghi vấn của Bồ Tát ở các cõi khác.

Đoạn thứ nhất nêu nghi vấn của Bồ Tát ở cõi này lại có 2 phần, trường hàng và kệ tụng. Phần văn trường hàng chỉ nói việc khởi ý niệm nghi; phần kệ gồm 19 khổ rưỡi kệ là nêu chính thức nội dung thưa hỏi.

KINH VĂN

“Vô số ngàn muôn ức,
Đại chúng chư Bồ Tát,
Xưa nay chưa từng thấy.
Kính xin Phật chỉ dạy:

Các vị này từ đâu?
Nhân duyên gì quy tụ?
Thân lớn, thần thông lớn,
Trí tuệ chẳng nghĩ bàn,
Chí nguyện thật kiên cố,
Có sức nhẫn nhục lớn,
Chúng sanh đều ưa nhìn.
Là từ đâu đến đây?

Mỗi một Bồ Tát ấy,
Đều dẫn theo quyến thuộc,
Thật nhiều không kể xiết,
Như số cát sông Hằng.

Có những vị dẫn theo,
Sáu muôn Hằng sa người.
Những đại chúng như vậy,
Một lòng cầu Phật đạo.

Các đại sư như vậy,
Nhiều sáu muôn Hằng sa,
Cùng đến cúng dường Phật,
Và hộ trì kinh này.

Những vị mang năm muôn,
Số lượng còn nhiều hơn.
Hoặc bốn muôn, ba muôn,
Hai muôn hoặc một muôn,
Hay một ngàn, một trăm…
Cho đến một sông Hằng,
Một nửa, ba, bốn phần,
Một phần trong muôn ức,
Hoặc ngàn muôn vô số,
Có muôn ức đệ tử,
Thậm chí năm mươi ngàn,
Số lượng càng nhiều hơn.

Hoặc một triệu, mười ngàn,
Một ngàn hay một trăm…
Năm mươi cho đến mười…
Thậm chí ba, hai, một,
Đơn độc không quyến thuộc,
Vui sống đời cô độc,
Cũng đều đến chỗ Phật,
Số lượng càng nhiều hơn.

Tổng số các vị này,
Nếu có người tính đếm,
Trải qua Hằng sa kiếp,
Cũng không thể biết hết.

Các bậc oai đức lớn,
Bồ Tát tinh tấn này,
Được nghe ai thuyết pháp,
Giáo hóa cho thành tựu?

Theo ai mà phát tâm?
Xưng dương pháp Phật nào?
Thực hành, trì kinh nào?
Tu pháp nào của Phật?

Phần kệ thưa hỏi lại chia làm 5 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 5 câu kệ, nêu hỏi các Bồ Tát từ đâu đến.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Nhân duyên gì quy tụ” trở đi, gồm 7 câu kệ, thưa hỏi về nhân duyên [các Bồ Tát] đến đây.

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Mỗi một Bồ Tát ấy” trở đi, gồm 9 khổ kệ nói về số lượng các vị Bồ Tát ấy.

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Các bậc oai đức lớn” trở đi gồm 2 khổ kệ, thưa hỏi về bậc thầy của các vị Bồ Tát này là ai.

KINH VĂN

Các Bồ Tát như vậy,
Thần thông, trí lực lớn,
Đất bốn phương động nứt,
Từ dưới phóng vọt lên.

Thế Tôn! Từ xưa nay,
Con chưa từng được thấy.
Xin cho biết: từ đâu,
Cõi nước tên là gì?

Chúng con qua nhiều nước,
Chưa từng thấy các vị.
Thậm chí trong các vị,
Không nhận biết vị nào,
Bỗng phóng lên từ đất.
Nguyện Phật nói nhân duyên,
Nay trong đại hội này,
Có vô số muôn ngàn,
Các vị Đại Bồ Tát,
Đều muốn biết sự việc.

Về nhân duyên nguồn ngọn,
Của chúng Bồ Tát này.
Thế Tôn vô lượng đức,
Nguyện dứt lòng chúng nghi.

Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Các Bồ Tát như vậy, thần thông, trí lực lớn” trở đi gồm 5 khổ rưỡi kệ là phần tóm kết thưa thỉnh. Tiểu đoạn này lại có 5 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm 2 câu đầu, tóm kết và khen ngợi [các Bồ Tát].

Phân đoạn thứ hai từ câu “Đất bốn phương động nứt” trở đi gồm 2 khổ kệ, thưa thỉnh việc các Bồ Tát này từ đâu đến.

Phân đoạn thứ ba từ câu “Thậm chí trong các vị, không nhận biết vị nào” trở đi gồm một khổ kệ, thưa thỉnh về nhân duyên các Bồ Tát đến đây.

Phân đoạn thứ tư từ câu “Nay trong đại hội này” trở đi gồm một khổ rưỡi kệ, nêu ý tất cả chúng hội cùng thỉnh cầu.

Phân đoạn thứ năm gồm hai câu “Thế Tôn vô lượng đức, nguyện dứt lòng chúng nghi”, nêu ý thỉnh cầu đức Phật giải đáp. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, các vị Phật phân thân của đức Phật Thích-ca Mâu-ni đến từ vô số ngàn muôn ức cõi nước phương khác đang ngồi kết già trên tòa sư tử dưới các cội cây báu trong tám phương. Những thị giả của các đức Phật phân thân này, mỗi người đều nhìn thấy các Bồ Tát trong khắp thế giới đại thiên ở bốn phương từ trong lòng đất phóng vọt lên rồi trụ yên trong hư không, liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Đại chúng vô lượng vô biên a-tăng-kỳ Bồ Tát này là từ đâu đến đây?”

Khi ấy, mỗi vị Phật phân thân đều bảo các thị giả của mình: “Các thiện nam tử! Hãy chờ trong giây lát, có vị Đại Bồ Tát hiệu là Di-lặc, là người được đức Phật Thích-ca Mâu-ni thụ ký sẽ thành Phật tiếp theo, đã thưa hỏi việc này rồi. Nay đức Phật Thích-ca Mâu-ni sẽ trả lời và các ông nhân đó sẽ tự mình được nghe.”

Đoạn thứ hai nêu nghi vấn của Bồ Tát ở các cõi khác, nói rõ những vị đi theo [chư Phật] phân thân [của Phật Thích-ca] dàn trải trong khắp mười phương đều cùng một lòng nghi với ngài Di-lặc. [Nêu việc chúng hội ở] cõi này và các cõi khác đều không rõ biết bản nguyên, đó là muốn làm rõ việc [Phật] thành đạo đã rất lâu xa. [Nên đoạn này nói các vị thị giả] mỗi người đều trình bày chỗ nghi và các vị Phật [phân thân] đều dạy rằng hãy chờ đợi vì ngài Di-lặc đã thưa hỏi. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ Tát Di-lặc: “Lành thay, lành thay, A-dật-đa![14] Ông đã có thể thưa hỏi Phật việc quan trọng này. Các ông nên cùng nhau chú tâm, mặc vào áo giáp tinh tấn, phát khởi ý nguyện kiên cố, nay đức Như Lai muốn hiển lộ, giảng thuyết, chỉ bày về trí tuệ của chư Phật, về sức thần thông tự tại của chư Phật, về sức phấn chấn nhanh nhạy như sư tử của chư Phật, về uy thế mạnh mẽ lớn lao của chư Phật.”

Từ câu “Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ Tát Di-lặc” trở đi là phần Chánh thuyết, [bắt đầu phần thứ hai của phẩm này].

[Tổng đoạn thứ nhất] có kinh văn trường hàng và kệ tụng, đều nêu ý răn dạy và hứa khả. Phần kinh văn trường hàng nêu nội dung chính, trước là nhắc lại [ý thưa hỏi] và ngợi khen, sau là răn dạy. Phần răn dạy nêu các ý khuyên đừng bối rối, đừng buông thả và đừng thối lui. Tiếp theo, Phật hứa sẽ thuyết về trí tuệ quả vị Phật. Trí tuệ quả vị Phật đó chính là chỗ thấy biết của Như Lai, chỗ thấy biết của quả vi diệu. Phần tiếp theo mở bày sự giáo hóa là nói rõ cho biết. “Sức thần thông tự tại của chư Phật” là từ trong quá khứ đã làm lợi ích cho chúng sanh; “sức phấn chấn nhanh nhạy như sư tử của chư Phật” là các phân thân hiện tại của Phật trong khắp mười phương; hoặc cũng nói rằng “phấn chấn nhanh nhạy” là nói trước tướng trạng tương lai, nêu sự lợi ích thường tồn cho chúng sanh đời sau; “uy thế mạnh mẽ lớn lao của chư Phật” là nói sự lợi ích cho chúng sanh đời sau; hoặc cũng có thể hiểu là sức mạnh trong hiện tại làm chấn động cả mười phương, tùy ý người [giảng giải] vận dụng, chỉ cần y theo thứ tự trong Kinh văn là tốt.

Lại theo ý riêng tôi cho rằng có thể hiểu theo ý bốn phẩm đức [của Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh]. Sức tự tại của Như Lai là ngã; thần thông là lạc; phấn chấn như sư tử là trừ cấu uế, tức là tịnh; uy thế mạnh mẽ lớn lao, lợi ích chúng sanh tương lai, tức là thường. Như vậy là theo ý bốn phẩm đức. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên thuyết lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Hãy tinh tấn, chú tâm,
Ta muốn dạy việc này.
Chớ sinh tâm nghi hối,
Trí Phật khó nghĩ bàn;
Khởi lòng tin mạnh mẽ,
Trụ pháp lành nhẫn chịu,
Pháp chưa từng được nghe,
Hôm nay sẽ được nghe.

Nay vỗ về các ông,
Chớ sinh lòng nghi sợ,
Lời Phật luôn chân thật,
Trí tuệ khó suy lường,
Phật đắc pháp tối thượng,
Sâu xa khó phân biệt;
Nay thuyết giảng pháp ấy,
Hãy một lòng lắng nghe.”

Phần kệ tụng gồm 4 khổ kệ.

Ba câu đầu tiên tụng 3 ý răn dạy.

Tiếp theo là 3 khổ kệ và một câu, tụng nghĩa Phật hứa khả. Câu đầu tiên “Trí Phật khó nghĩ bàn” nêu quả trí tuệ, ba khổ kệ tiếp theo tụng việc trong 3 đời.[15]

KINH VĂN

Khi ấy, đức Phật thuyết kệ rồi liền bảo Bồ Tát Di-lặc: “Nay giữa đại chúng này ta sẽ nói rõ với các ông. Này A-dật-đa! Vô số vô lượng a-tăng-kỳ Đại Bồ Tát này, từ trong lòng đất phóng vọt lên, trước đây các ông chưa từng nhìn thấy, đều là những Bồ Tát mà sau khi ta thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong cõi Ta-bà đã giáo hóa, chỉ bày, dẫn dắt, giúp điều phục tâm, khiến cho phát khởi tâm đạo.

“Các Bồ Tát này đều an trụ trong khoảng hư không bên dưới cõi Ta-bà, tụng đọc thông suốt Kinh điển, biết suy xét phân biệt, nghĩ nhớ chân chánh.

“Này A-dật-đa! Những vị thiện nam tử này không ưa thích chỗ đông người bàn luận, thường ưa thích nơi yên tĩnh; chuyên cần tu tập tinh tấn chưa từng dừng nghỉ, việc an trụ cũng không nương tựa trong hai cõi trời người; thường ưa thích trí tuệ sâu xa dứt sạch chướng ngại, lại cũng thường vui với pháp của chư Phật, một lòng tinh tấn cầu trí tuệ Vô thượng.”

Từ câu “Khi ấy, đức Phật thuyết kệ rồi” trở đi là đoạn lớn thứ hai thuộc phần Chánh thuyết, [là phần thứ ba của phẩm này]. Kinh văn phần này chia làm ba. Phần đầu tiên từ đây cho đến hết phẩm Thọ lượng của Như Lai, nội dung chính chỉ bày giảng giải [hình tích] gần đây, làm rõ [bản nguyên] xa xưa. Phần thứ hai là phần đầu của phẩm Phân biệt công đức, nêu tổng quát việc thọ nhận [đức Như Lai] thụ ký pháp thân. Phần thứ ba là Ngài Di Lặc trình bày tổng quát những chỗ tự mình nhận hiểu. Phần đầu tiên “giảng giải việc gần, làm rõ việc xa” lại có 2 phần. Trước tiên nói sơ lược ý nghĩa “giảng giải việc gần, làm rõ việc xa”, nêu việc [đại chúng] động vào tình chấp khởi sanh lòng nghi. Tiếp theo nói rộng ý nghĩa “giảng giải việc gần, làm rõ việc xa”, nêu việc dứt trừ nghi hoặc, sinh khởi niềm tin.[16]

Tổng đoạn thứ hai, phần nói sơ lược lại chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất mở ra chỉ bày sơ lược; đoạn thứ hai là nhân có lòng nghi nên mới thưa thỉnh.

Đoạn thứ nhất chỉ bày sơ lược lại chia ra trường hàng và kệ tụng, trong đó chỉ giải đáp 2 câu hỏi, không giải đáp câu hỏi về nhân duyên quy tụ. Do chưa được giải đáp nên có việc thưa thỉnh lần nữa.

Phần kinh văn trường hàng có hai câu giải đáp, hai phần giải thích, y theo kinh văn có thể hiểu được.

Câu “an trụ trong khoảng hư không bên dưới” nêu nghĩa như Thích luận[17] có nói về Hữu để tán tam-muội (有底散三昧), có 4 cách giải thích. Thứ nhất, “hữu” là ba cõi hiện hữu;[18] “để” là cõi phi tưởng phi phi tưởng, vì sâu xa thù thắng nên gọi là “để”. Thứ hai, “hữu” là hình tướng tên gọi; “để” là nghĩa không; vì không là tịch tịnh nên gọi là “để”. Thứ ba, “hữu” là có 2 bên phân biệt nên là thế tục, “để” là bờ bến trí tuệ đã viên mãn trọn đủ, nên gọi là “để”. Thứ tư, nay theo kinh này dùng “khoảng hư không bên dưới” làm “để”, không phải cõi trên, không phải cõi dưới, đó là biểu thị cho trung đạo là “để”. Đây là dựa theo giáo nghĩa để phân biệt. Đại lược là như thế.

Từ câu “tụng đọc thông suốt Kinh điển”[19] trở đi nêu ý nghĩa [đức Phật là] bậc thầy nên rõ biết [các Bồ Tát] đệ tử có đầy đủ trí đức và đoạn đức.[20] Ban đầu là song song tu tập trí đức và đoạn đức, tiếp theo là chứng đạt trí đức và đoạn đức. Đối với kinh điển “biết suy xét phân biệt” là tu tập trí đức; “nghĩ nhớ chân chánh” là tu tập đoạn đức. “Không ưa thích chỗ đông người” là chứng đạt đoạn đức; “chuyên cần tu tập tinh tấn” là chứng đạt trí đức.

Từ câu “không nương tựa trong hai cõi trời người” là nêu nghĩa về nơi chốn. Cõi người và cõi trời là nhị biên phân biệt, không trụ vào đó cũng không bám chấp. “Trí tuệ sâu xa dứt sạch chướng ngại” là nương vào trí tuệ không thể nghĩ bàn. “Thường vui với pháp của chư Phật” là vui với cảnh không thể nghĩ bàn; cảnh giới trí tuệ rất vi tế, không thuộc về cận xứ và hành xứ của hàng Bồ Tát.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên thuyết lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“A-dật-đa nên biết,
Các Đại Bồ Tát này,
Vô số kiếp đến nay,
Tu tập trí tuệ Phật,
Đều do ta giáo hóa,
Khiến phát tâm Bồ-đề.

Họ đều là con ta,
Ở trong thế giới này,
Thường tu pháp đầu đà,
Ưa thích nơi yên tĩnh,
Tránh chỗ đông ồn ào,
Không ưa việc nói nhiều.

Những Phật tử như vậy,
Học tập pháp của Phật,
Ngày đêm thường tinh tấn,
Vì cầu được Phật đạo.

Trụ giữa chốn hư không,
Dưới thế giới Ta-bà,
Tâm chí, niệm lực vững,
Chuyên cần cầu trí tuệ,
Diễn thuyết các pháp mầu,
Trong tâm không sợ sệt.

Ta ở thành Già-da,
Ngồi dưới gốc Bồ-đề,
Thành bậc Chánh đẳng giác,
Chuyển pháp luân Vô thượng,
Giáo hóa các vị này,
Khiến phát tâm Bồ-đề,
Nay không còn thối chuyển,
Chắc chắn sẽ thành Phật.

Ta nay nói lời thật,
Các ông nên tin chắc:
Ta từ xưa đến nay,
Giáo hóa những vị này.”

Phần kệ tụng gồm 8 khổ rưỡi kệ, chia thành 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn đầu tiên có 5 khổ rưỡi kệ, tụng nghĩa giải đáp 2 câu thưa hỏi. Phần sau có 3 khổ kệ, tụng 2 ý giải thích. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Khi ấy, Đại Bồ Tát Di-lặc cùng với vô số các vị Bồ Tát đều sinh lòng nghi hoặc, cho là việc chưa từng có, nên tự nghĩ rằng: “Làm sao đức Thế Tôn trong một thời gian ngắn có thể giáo hóa được vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các vị Đại Bồ Tát như vậy, khiến cho đều trụ yên trong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?”

Đoạn thứ hai từ câu “Khi ấy, Đại Bồ Tát Di-lặc…” trở đi nêu ý nghĩa nhân vì có lòng nghi nên mới thưa thỉnh, gồm có 2 phần, kinh văn trường hàng và kệ tụng.

Phần kinh văn trường hàng có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là nói lên lòng nghi; tiểu đoạn thứ hai là thưa thỉnh [xin Phật giải đáp].

KINH VĂN

Nghĩ rồi liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Như Lai khi còn là thái tử, ra khỏi cung điện của họ Thích đi đến thành Già-da không xa, ngồi nơi Đạo trường mà thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, từ đó đến nay chỉ vừa hơn bốn mươi năm. Bạch Thế Tôn! Làm sao trong khoảng thời gian ngắn ấy có thể làm nên Phật sự lớn lao, dùng oai thế của Phật, dùng công đức của Phật để giáo hóa vô số Đại Bồ Tát như thế, đều sẽ thành tựu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Bạch Thế Tôn! Các vị Đại Bồ Tát này, giả sử như có người tính đếm trong muôn ức kiếp cũng không thể đếm hết đến người cuối cùng. Các vị Bồ Tát này từ lâu xa đến nay đã trồng các căn lành nơi đạo tràng của vô lượng vô biên các đức Phật, thành tựu đạo Bồ Tát, thường tu hạnh thanh tịnh. Bạch Thế Tôn! Việc này trong đời thật rất khó tin. Ví như có người tóc xanh dáng đẹp, tuổi chừng hai mươi lăm, chỉ vào người già trăm tuổi mà nói ‘đó là con tôi’; người già trăm tuổi cũng chỉ người trẻ tuổi mà nói ‘đó là cha tôi, đã sinh ra tôi và nuôi dưỡng’. Chuyện như vậy thật khó tin!

Tiểu đoạn thứ nhất nêu lòng nghi có 2 ý nghĩa. Thứ nhất là vì nghe phần trước [Phật nói sau khi thành đạo] dưới cội Bồ-đề mới giáo hóa [các Bồ Tát này] nên nay các vị đều trụ địa vị bất thối. Thứ hai là nghe [Phật nói] ta từ lâu xa đã giáo hóa chúng Bồ Tát này. Vì nghe hai lần thuyết dạy này không đúng như sự nhận hiểu bám chấp lâu nay nên khởi sinh lòng nghi. Từ câu “Nghĩ rồi liền thưa hỏi Phật” trở đi nêu việc khởi tâm nghi mạnh mẽ để thưa hỏi, chia thành 2 phân đoạn. Thứ nhất nêu pháp để nói chỗ nghi; thứ hai nêu thí dụ để nói chỗ nghi.

Phân đoạn thứ nhất nêu pháp có 3 ý.

Thứ nhất, nghi việc Phật thành đạo chỉ vừa gần đây mà chúng Bồ Tát được giáo hóa quá nhiều. Đây là do bám chấp nơi việc gần đây mà nghi ngờ việc xa xưa.

Thứ hai, từ câu “Bạch Thế Tôn! Các vị Đại Bồ Tát này” trở đi, nêu việc chúng Bồ Tát này đã rất đông mà hành trạng, quả vị đều thâm sâu vi diệu. Đây là do bám chấp việc xa xưa mà nghi ngờ việc gần đây.

Thứ ba, câu “Bạch Thế Tôn! Việc này trong đời thật rất khó tin” là phần kết lại để thưa thỉnh.

Phân đoạn thứ hai nêu thí dụ lại có 2 ý. Thứ nhất là mở ra trình bày các thí dụ; thứ hai là nêu nghĩa tương hợp với các thí dụ.

Ý thứ nhất, trình bày thí dụ lại có 3 tiểu ý.

Thứ nhất nêu thí dụ “tóc xanh dáng đẹp…” để ví như việc Phật thành đạo chỉ mới gần đây.

Thứ hai, “chỉ vào người già trăm tuổi” để ví với những Bồ Tát được Phật giáo hóa rất nhiều. Các bậc thầy ở Hoài Bắc nêu thí dụ để giải thích thí dụ. Thí dụ như người cha già uống thuốc hoàn xuân nên dung mạo trẻ lại trông giống như người mới tuổi 25; người con không dùng thuốc nên hình dạng như trăm tuổi. Nếu rõ biết tác dụng của thuốc thì không có sự nghi ngờ quan hệ cha con, chỉ vì không biết nên mới cho là kỳ lạ. Thật ra thì đức Như Lai dùng thuốc “thùy tích”[21] mà thị hiện vừa mới sinh ra ở thành Già-da; các vị Bồ Tát thì luận thẳng vào bản nguyên ban đầu nên vốn đã từ lâu xa phát tâm Bồ-đề, ngày nay trụ địa vị bất thối. Nếu là giữa Phật với Phật thì rõ biết ngay việc này, hàng Bồ Tát bên dưới không rõ biết nên không thể không có lòng nghi.

Thứ ba, câu “chuyện như vậy thật khó tin” là tiểu ý kết lại phần này.

KINH VĂN

Nay chuyện của Phật cũng giống như vậy, từ ngày thành đạo đến nay quả thật chưa bao lâu, còn đại chúng Bồ Tát này đã từ vô số ngàn muôn ức kiếp vì cầu Phật đạo mà chuyên cần tu tập tinh tấn, giỏi việc nhập, xuất và trụ trong vô số ngàn muôn ức pháp tam-muội, đạt được đại thần thông, từ lâu tu hạnh thanh tịnh, khéo tu tập tuần tự các pháp lành, giỏi việc vấn đáp, thật quý báu trong cõi người, thật rất hiếm có trong khắp thế gian.

Ý thứ hai từ câu “Nay chuyện của Phật cũng giống như vậy”, nêu nghĩa tương hợp với các thí dụ, có 2 tiểu ý.

Thứ nhất là tương hợp với thí dụ về việc gần đây, y theo kinh văn có thể hiểu được.[22]

Thứ hai từ câu “còn đại chúng Bồ Tát này” trở đi là tương hợp với thí dụ về việc xa xưa. Quán xét thấy các vị Bồ Tát này đã từ lâu trồng các căn lành, không phải chỉ mới phát tâm ở [cội Bồ-đề] nơi thành Già-da.

“Giỏi việc nhập, xuất và trụ”, có thể tuần tự nhập 9 bậc thiền định[23] là giỏi việc nhập định; nhanh nhạy phấn chấn như sư tử là giỏi xuất định; siêu việt là giỏi trụ trong định. Đây là giải thích theo Tạng giáo và Thông giáo.

[Bồ Tát] từ Sơ địa đến Thập địa gọi là giỏi việc nhập định. [Bồ Tát] Thập địa nhập trùng huyền môn, quay lại tu tập các pháp [từ lúc còn là] phàm phu,[24] gọi là giỏi việc nhập định. [Bồ Tát] Diệu Giác biến hiện viên mãn gọi là giỏi việc trụ trong định. Đây là giải thích theo Biệt giáo.

[Bồ Tát thành tựu] Tất pháp tánh tam-muội[25] gọi là giỏi việc nhập định; [thành tựu] Thủ-lăng-nghiêm [tam-muội] gọi là giỏi việc xuất định; [thành tựu] Vương tam-muội gọi là giỏi việc trụ trong định. Đây là giải thích theo Viên giáo.

“Khéo tu tập tuần tự các pháp lành”, dựa vào nhân khéo tu tập nên cuối cùng được quả là giỏi nhập định. Đại lược là như vậy.

“Giỏi việc vấn đáp”[26] là đầy đủ hai phẩm đức trang nghiêm,[27] là bậc tôn quý trong bảy hạng phương tiện nên gọi là “thật quý báu”.

KINH VĂN

Hôm nay đức Thế Tôn vừa nói: ‘Lúc ta thành đạo mới bắt đầu khiến họ phát tâm, giáo hóa chỉ bày dẫn dắt, khiến cho hướng về quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Đức Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu mà có thể làm được việc công đức lớn lao như vậy. Chúng con tuy tin rằng lời Phật dạy luôn thích hợp, những gì Phật nói ra chưa từng hư dối, sự hiểu biết của Phật thông suốt bao trùm, nhưng đối với hàng Bồ Tát vừa mới phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu nghe những lời này có thể sẽ không tin nhận mà khởi sinh nhân duyên tội nghiệp phá hoại chánh pháp.

“Kính bạch Thế Tôn! Xin vì chúng con giảng giải thuyết dạy, dứt trừ lòng nghi của chúng con cũng như giúp cho các thiện nam tử đời sau khi nghe chuyện này cũng không sinh lòng nghi.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Hôm nay đức Thế Tôn vừa nói” trở đi là thỉnh cầu [Phật] giải đáp. Tiểu đoạn này lại có 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất, từ câu “Hôm nay đức Thế Tôn…” là nêu lời Phật nói.

Phân đoạn thứ hai, từ câu “Chúng con tuy tin rằng…” trở đi nêu ý thưa thỉnh, chia thành 2 ý.

Ý thứ nhất nói việc hiện tại, “chúng con tuy tin rằng…”.

Ý thứ hai nói việc tương lai, từ câu “đối với hàng Bồ Tát vừa mới phát tâm” trở đi. [Bồ Tát mới phát tâm] do công phu tu hành còn cạn cợt dễ sinh tâm hủy báng. Bồ Tát mới phát tâm nếu hủy báng chánh pháp sẽ phải đọa vào đường ác. Bồ Tát bất thối tuy có thể tin, không hủy báng, nhưng [nếu chưa hiểu rõ sẽ] không tăng trưởng tâm đạo. Nếu như [được Phật] vì họ giảng giải phân biệt rõ thì người hủy báng [nhờ hiểu rõ] sẽ sinh lòng tin, người đã có lòng tin [nhờ hiểu rõ] sẽ tăng trưởng tâm đạo. Đại lược là như vậy.

Phân đoạn thứ ba từ câu “Kính bạch Thế Tôn!” trở đi, thưa thỉnh [đức Phật xin] giải đáp. Phân đoạn này có 2 ý.

Ý thứ nhất là “dứt trừ lòng nghi của chúng con”;

Ý thứ hai là câu “cũng như giúp cho các thiện nam tử đời sau”, xin dứt trừ lòng nghi trong tương lai.

KINH VĂN

Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Phật xưa từ dòng Thích,
Xuất gia gần Già-da,
Ngồi dưới cội Bồ-đề,
Đến nay chưa bao lâu.

Còn những Bồ Tát này,
Nhiều không thể suy lường,
Từ lâu tu Phật đạo,
Trụ nơi sức thần thông;
Khéo học đạo Bồ Tát,
Không nhiễm pháp thế gian,
Như hoa sen trong bùn,
Từ lòng đất phóng lên,
Đều khởi tâm cung kính,
Đứng trước đức Thế Tôn.

Việc này khó nghĩ bàn,
Làm sao có thể tin?
Phật vừa mới thành đạo,
Sao làm được quá nhiều?

Nguyện vì con giải nghi,
Phân biệt thuyết đúng thật.
Ví như người trẻ trung,
Tuổi vừa hai mươi lăm,
Chỉ những người trăm tuổi,
Tóc bạc, da nhăn nheo,
Bảo ‘đó là con tôi’,
Và con cũng nhận cha,
Nhưng cha trẻ, con già,
Người đời chẳng ai tin.

Phần kệ tụng có 14 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa hai phần nêu pháp và nêu thí dụ ở trước, có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất có 5 khổ kệ, tụng lại phần nêu pháp; tiểu đoạn thứ hai có 9 khổ kệ, tụng lại phần nêu thí dụ.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu pháp có 3 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất có một khổ kệ, tụng lại nghĩa bám chấp việc gần đây. Phân đoạn thứ hai từ câu “Còn những Bồ Tát này” trở đi gồm 2 khổ và 3 câu kệ, tụng lại nghĩa nghi ngờ việc xa xưa. Phân đoạn thứ ba từ câu “Làm sao có thể tin” trở đi gồm một khổ và một câu kệ, tụng lại ý nghĩa tóm kết phần thưa thỉnh.

Tiểu đoạn thứ hai tụng lại ý nghĩa nêu thí dụ có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, tụng lại nghĩa trình bày thí dụ.

KINH VĂN

Nay Thế Tôn cũng vậy,
Chỉ mới thành đạo thôi;
Còn những Bồ Tát ấy,
Tâm kiên cố, không sợ,
Từ vô số kiếp rồi;
Đã hành đạo Bồ Tát,
Khéo chất vấn, giải đáp,
Lòng không chút sợ sệt,
Tâm nhẫn nhục, quyết định,
Đoan chánh, nhiều oai đức,
Mười phương Phật ngợi khen;
Khéo thuyết giảng phân biệt,
Không ưa thích đông người,
Thường chuộng việc nhập định,
Vì cầu đạo Bồ-đề,
Trụ hư không phương dưới.

Chúng con nghe từ Phật,
Nên việc này không nghi;
Nguyện Phật vì đời sau,
Giảng rộng, giúp hiểu rõ.

Vì đối với Kinh này,
Ai nghi ngờ, không tin,
Đều sẽ đọa đường ác.
Nay xin Phật giảng giải:
Vô số Bồ Tát này,
Làm sao thời gian ngắn,
Giáo hóa cho phát tâm,
Đến trụ Bất thối địa?

Phân đoạn thứ hai từ câu “Nay Thế Tôn cũng vậy” trở đi gồm 7 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với thí dụ trên, có 3 ý.

Ý thứ nhất gồm 2 câu, tụng lại nghĩa tương hợp với thí dụ nêu việc gần đây.

Ý thứ hai từ câu “Còn những Bồ Tát ấy” trở đi gồm 3 khổ rưỡi kệ, tụng lại nghĩa tương hợp với thí dụ nêu việc xa xưa.

Ý thứ ba từ câu “Chúng con nghe từ Phật” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với phần thưa thỉnh xin Phật giải đáp. Đại lược là như vậy.

____________________________________


CHÚ THÍCH

[1] Nguyên tác là “一月萬影 - nhất nguyệt vạn ảnh”, ảnh hay bóng ở đây chỉ hình chiếu của mặt trăng dưới nước, cho nên ở khắp mọi nơi, nếu có nước là có bóng trăng phản chiếu bên dưới, không thể suy lường tính đếm được số lượng.

[2] Nguyên tác là “寂場少父寂光 老兒 - Tịch trường thiểu phụ, tịch quang lão nhi”. “Tịch trường” là nói tắt của “tịch diệt đạo trường”, chỉ đạo trường nơi đức Thế Tôn thành đạo. Tuy đức Phật đã thành đạo từ vô lượng kiếp trước nhưng thị hiện chỉ mới vừa thành đạo nơi cội Bồ-đề rồi thuyết giảng giáo pháp, nên so sánh như người cha còn ít tuổi, trẻ trung. “Tịch quang” là nói tắt của Thường tịch quang, chỉ cõi Thường tịch quang là Tịnh độ nơi pháp thân Như Lai thường an trụ, chư Bồ Tát thực hành công hạnh lâu dài mới an trụ cõi này, nên so sánh như những đứa con nhiều tuổi, già dặn.

[3] Nguyên tác dùng “藥力 - dược lực”, nghĩa đen là công năng của thuốc, ở đây ví chánh pháp như ;iều thuốc trị bệnh cho chúng sanh.

[4] Văn Cú ký giải thích rằng điều thứ nhất là lợi ích thuộc thế giới tất đàn, điều thứ hai là lợi ích thuộc vị nhân tất đàn, điều thứ ba là đối trị tất đàn, lại thêm nghĩa “phá cận hiển viễn” là đệ nhất nghĩa tất đàn. Cho nên nói rằng 3 nghĩa này hàm chứa đủ 4 lợi ích tất đàn.

[5] Hàm ý diễn đạt của đoạn văn này là các vị Bồ Tát dẫn theo càng nhiều quyến thuộc thì số lượng càng ít hơn so với số lượng các vị dẫn theo ít quyến thuộc. Như vậy số Bồ Tát dẫn theo quyến thuộc nhiều như số cát của sáu mươi ngàn con sông Hằng là ít nhất và số Bồ Tát chỉ dẫn theo hai người, một người đệ tử cho đến chỉ đi một mình có số lượng nhiều nhất.

[6] Trong đoạn này kinh văn chỉ thể hiện hàm ý qua chữ “況復 - huống phục” (huống chi là…) nhưng Văn Cú trong đoạn giảng giải đã dẫn thành “其數轉過上 - kỳ số chuyển quá thượng” (số lượng ấy còn lớn hơn nữa), nhưng câu này vốn không có trong kinh văn.

[7] Nguyên tác dùng Hoa vương thế giới (花王世界), là tên gọi khác của Hoa tạng thế giới, chỉ thế giới trang nghiêm thanh tịnh được mô tả trong kinh Hoa nghiêm.

[8] Nguyên tác dùng “滿字 - mãn tự”, nghĩa đen là trọn chữ, đủ chữ, ví như giáo pháp rốt ráo, đủ nghĩa chân thật, thường dùng phân biệt với “半字 - bán tự” (nửa chữ) để chỉ giáo pháp chưa rốt ráo, pháp quyền thừa, dùng để dẫn dắt.

[9] Nguyên tác dùng “始入 - thủy nhập” để chỉ việc thể nhập trí tuệ Phật ngay giai đoạn ban đầu, sau khi đức Phật vừa thành đạo, tức là lúc thuyết giảng kinh Hoa nghiêm.

[10] Ý nghĩa này dựa theo cách giải thích phân biệt bốn chúng đã nói ở trước, gốm chúng phát khởi, chúng ảnh hưởng, chúng đương cơ và chúng kết duyên. Ở đây muốn nói các vị Bồ Tát thưa hỏi Phật thật ra đều là cổ Phật hóa thân để trợ giúp sự giáo hóa.

[11] Văn cú trích dẫn trong câu này là “八萬大士 - bát vạn Đại sĩ” (tám mươi ngàn vị Đại sĩ), có thể đã nhầm lẫn, vì trong Kinh văn ghi đúng là “八千恒沙 - bát thiên Hằng sa”.

[12] Nguyên tác dùng “補處智力 - bổ xứ trí lực”, chỉ sức trí tuệ của hàng Bồ Tát Nhất sanh bổ xứ, nghĩa là chỉ còn một đời duy nhất nữa sẽ thành Phật. Đây là ngài Di-lặc tự nói về mình.

[13] Văn Cú ký giải thích rằng trong đoạn văn trên phần nói việc đi khắp mười phương là thuộc thế giới tất đàn, nói về người đến sau không biết người đi trước là vị nhân tất đàn, phần nói về giáo hóa chúng sanh là đối trị tất đàn, phần nói về ngấm ngầm chờ nghe thọ lượng của Như Lai là đệ nhất nghĩa tất đàn.

[14] A-dật-đa (阿逸多): danh hiệu khác của Bồ Tát Di-lặc, phiên âm từ Phạn ngữ là Ajita.

[15] Tức là nói quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhắc về “pháp chưa từng được nghe” tức là quá khứ; nói “nay vỗ về các ông” tức là hiện tại; “hôm nay sẽ được nghe”, “hãy một lòng lắng nghe” tức là tương lai.

[16] Đoạn văn này đề cập đến cấu trúc chung của các phẩm từ đây về sau.

[17] Văn cú dùng Thích luận để chỉ Đại Trí độ luận, cũng gọi là Đại Trí độ luận thích (大智度論釋), phần trích dẫn này nằm ở quyển 43. (ĐCT, T25, số 1509, tr.373a, d.25)

[18] Tức là tam hữu, bao gồm cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc.

[19] Văn cú trích dẫn từ Kinh văn là “於諸經典 - ư chư kinh điển”, câu này trích đầy đủ là “於諸經典讀誦通利 - ư chư kinh điển độc tụng thông lợi”, nghĩa là “tụng đọc thông suốt kinh điển”.

[20] Văn cú dùng “智斷兩德 - trí đoạn lưỡng đức”, tức là chỉ trí đức và đoạn đức. Trí đức là năng lực trí tuệ, thấu hiểu chân lý; đoạn đức là năng lực dứt trừ được hết thảy phiền não.

[21] Thùy tích: vì xót thương chúng sanh mà thị hiện hình tích để chúng sanh có thể nhìn thấy, nhận hiểu.

[22] Tức là câu kinh văn nói việc Phật chỉ mới vừa thành đạo.

[23] Tức chỉ tứ thiền bát định (四禅八定) cùng với Diệt tận định, gọi chung là cửu định (九定).

[24] Nguyên tác dùng “入重玄門 - nhập trùng huyền môn”, là thuật ngữ để chỉ việc Bồ Tát trước khi thành Phật cần quay lại cõi đời để tu tập một lần nữa tất cả các pháp trước đây đã tu khi còn là phàm phu, nhưng lần này là để cho mọi việc đều khế hợp với chân lý.

[25] Tất pháp tánh tam-muội (H. 畢法性三昧 – S. dharma-dhātu-niyata-samādhi), cũng gọi là Pháp giới quyết định tam-muội (法界決定三昧). Thể tánh của các pháp là vô lượng nhưng cũng không khác biệt nhau, rất khó nắm bắt. Bồ Tát nhập pháp định này có năng lực rõ biết thể tánh của tất cả các pháp, giống như con người không thể trụ giữa hư không nhưng khi đạt được sức thần túc thì có thể trụ được.

[26] Văn cú trích dẫn kinh văn là “善答難問 - thiện đáp nan vấn” (khéo đáp những câu hỏi khó), nhưng đúng ra kinh văn chỗ này là “巧於問答 - xảo ư vấn đáp” (giỏi việc vấn đáp), tuy ý nghĩa có phần tương đồng nhưng cách diễn đạt hoàn toàn khác nhau.

[27] Nguyên tác là “具二莊嚴 - cụ nhị trang nghiêm”, chỉ 2 phẩm đức là phước đức và trí tuệ, cũng giải thích là định và tuệ. Phần trước đã nói về phước đức (khéo tu tập các pháp lành), cũng nói “được quả là giỏi nhập định”, phần này nêu “giỏi việc vấn đáp” tức là có trí tuệ, nên nói là đầy đủ 2 phẩm đức trang nghiêm.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 20 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.105 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...