Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV

Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill
Sự giúp đỡ tốt nhất bạn có thể mang đến cho người khác là nâng đỡ tinh thần của họ. (The best kind of help you can give another person is to uplift their spirit.)Rubyanne
Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 28. Giải thích phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3
»» 28. Giải thích phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm

(Lượt xem: 2)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 - 28. Giải thích phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm, thứ hai mươi tám

Giải thích tên phẩm

Trong Đại luận và Quán kinh đều gọi [tên vị Bồ Tát này] là Biến Cát, trong kinh này gọi là Phổ Hiền. Những tên như vậy đều là dịch sang Hán ngữ. Âm tiếng Phạn là Bí-du-bạt-đà,[1] dịch nghĩa là Phổ Hiền.

Kinh Bi Hoa nói: “Con nguyện đến đời uế nhiễm xấu ác của thế giới sẽ thực hành Bồ Tát đạo khiến được thanh tịnh, việc tu tập thực hành việc trọng yếu sẽ hơn hẳn các vị Bồ Tát.”[2] Đức Phật Bảo Tạng [khi ấy] dạy rằng: “Do nhân duyên ấy, nay ta đổi tên cho ông là Phổ Hiền.”[3] Đây tức là hàm ý của ba tất đàn.[4]

Lại nếu giải thích [tên này] theo nhân duyên thì đây là do thực hành hạnh nguyện nên được gọi tên [như vậy], nguyên do [tu tập] từ bốn niệm xứ cho đến bốn căn lành nên gọi chung là Phổ Hiền. Nếu riêng dựa theo Thế đệ nhất pháp thì đã đến gần pháp chân thật, cận kề quả thánh nên gọi là “hiền”.

Như trên là nói theo Tạng giáo. Nay nói về chỗ cao tột của giai đoạn tu đạo chế phục [phiền não] thì nhân này biến hiện khắp nơi nên gọi là “phổ”; từ sau giai đoạn tu đạo dứt trừ [phiền não] thì gần gũi quả thánh cao tột nên gọi là “hiền”.

Nếu là hàng Thập tín thì chỉ mới khởi đầu giai đoạn tu tập điều phục [phiền não], chưa phải chỗ cao tột, chẳng biến hiện khắp nơi, chỉ mới gần được quả ban sơ của những quả thánh ban sơ; chẳng phải sau [giai đoạn dứt trừ phiền não], chẳng phải [gần quả thánh] cao tột. Cho đến hàng Thập địa cũng chưa phải biến hiện khắp nơi, chưa phải [gần quả thánh] cao tột, huống chi là các giai vị trước đó.

Nay bàn về quả vị Đẳng giác, ở cao tột trên các [giai vị thuộc giai đoạn] điều phục, sự tu tập điều phục [phiền não] biến hiện khắp nơi nên gọi là “phổ”; giai đoạn tu tập đoạn trừ phiền não vừa chấm dứt, không mấy ai sánh bằng, đã gần đạt đến chỗ rốt ráo cuối cùng nên gọi là “hiền”. Luận Đại Trí độ[5] dẫn ví dụ rằng “trăng đêm mười bốn cũng giống như trăng đêm rằm” là nêu rõ ý nghĩa [gần đạt đến] này. Đây là dựa theo các giai vị của Viên giáo để giải thích giai vị về sau là Phổ Hiền.

“Khuyến khích phát tâm” là cách nói để nêu sự mến mộ chánh pháp. [Các vị Bồ Tát] từ cõi nước xa xôi được nghe kinh này đầy đủ từ đầu đến cuối, vì muốn cho pháp tự thực hành và giáo hóa chúng sanh được lưu truyền mãi mãi không dứt cho nên mới từ các phương đông, tây[6] tìm đến [cõi Ta-bà] để khuyến khích phát tâm. Phần này có đủ ý nghĩa bốn tất đàn. Đại lược là như thế.

Kinh văn nói: “Con vì cúng dường kinh Pháp hoa nên sẽ tự hiện thân… …[người trì kinh] nếu được thấy thân con sẽ hết sức vui mừng…”, đây là nghĩa thế giới tất đàn.[7] “Được thấy thân con rồi lại càng thêm tinh tấn... liền đạt được các pháp tam-muội cùng đà-la-ni…”, đây là nghĩa vị nhân tất đàn. “Được thần chú đà-la-ni này thì không loài phi nhân nào có thể phá hoại, cũng không bị nữ sắc làm cho mê hoặc tán loạn…”, đây là nghĩa đối trị tất đàn. “Các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ trong thế giới đại thiên được trọn đủ đạo Phổ Hiền”, đây là đệ nhất nghĩa tất đàn. Kinh văn như vậy tức là dùng nghĩa bốn tất đàn để khuyến khích phát tâm.

Trước đây có nêu việc phân chia phần lưu thông [trong kinh này] thành ba phần. Từ sau 19 khổ kệ [do Bồ Tát Di-lặc nói ra trong phẩm Phân biệt công đức] trở đi gồm ba phẩm rưỡi là nêu rõ năng lực lớn lao của kinh này để khuyến khích lưu thông. Từ phẩm Bồ Tát Dược Vương trở đi gồm năm phẩm là nêu năng lực truyền đạo, giáo hóa lớn lao của các vị Bồ Tát để khuyến khích lưu thông. Chỉ riêng một phẩm này là nêu nguyện lực lớn lao của Bồ Tát Phổ Hiền để khuyến khích lưu thông.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền[8] dùng sức thần thông tự tại với oai đức danh tiếng,[9] cùng các vị Bồ Tát nhiều vô lượng vô biên không thể tính đếm,[10] từ phương đông hiện đến. Các cõi nước đi qua đều chấn động, trời mưa xuống hoa sen báu, vang lên vô số trăm ngàn muôn ức đủ loại âm nhạc.

Lại có vô số chư thiên, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, loài người, loài phi nhân, đại chúng vây quanh, mỗi vị đều hiện sức thần thông oai đức, cùng đến núi Kỳ-xà-quật nơi thế giới Ta-bà, cúi đầu áp mặt đảnh lễ đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đi nhiễu quanh bên phải bảy vòng rồi thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Con ở cõi nước của đức Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, xa nghe ở thế giới Ta-bà này có thuyết kinh Pháp hoa nên cùng với vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức chúng Bồ Tát đến đây để nghe và thọ nhận. Kính nguyện đức Thế Tôn vì chúng con mà thuyết dạy. Lại sau khi Như Lai đã diệt độ rồi, các thiện nam hoặc thiện nữ[11] làm thế nào để được kinh Pháp hoa này?”

Kinh văn phẩm này chia làm 4 tổng đoạn. Thứ nhất là nêu việc [Bồ Tát Phổ Hiền từ phương đông] xuất phát đi đến; thứ hai là nêu việc khuyến khích phát tâm; thứ ba là thuật rõ sự phát tâm; thứ tư là nêu lợi ích của sự phát tâm.

Tổng đoạn thứ nhất là lời người chép kinh, nêu việc [Bồ Tát Phổ Hiền] xuất phát đi đến, chia làm 3 đoạn. Thứ nhất là dâng lên cúng dường [chư Phật], thứ hai là giáo hóa [chúng sanh] cõi dưới, thứ ba nói việc tu tập cung kính.

[Đoạn thứ nhất,] nói tự tại là nghĩa lý nhất, nói thần thông là nghĩa hành nhất, nói oai đức là nghĩa nhân nhất, nói danh tiếng là nghĩa giáo nhất.

Lại nữa, tự tại là nghĩa thường, thần thông là nghĩa lạc, oai đức là nghĩa ngã, danh tiếng là nghĩa tịnh. Nói như vậy là ngay nơi một pháp đã trọn đủ bốn đức, không gì không đầy đủ, tức là nghĩa tự tại.

Do sức thanh tịnh nên “trời mưa xuống hoa sen báu”, do sức an vui nên “vang lên vô số trăm ngàn muôn ức đủ loại âm nhạc”, do thần thông nên “các cõi nước đi qua đều chấn động”.

Do sức tự tại nên tùy ý mà có mưa hoa, tùy chỗ đi qua mà có mưa hoa, tùy chỗ đi qua mà cõi nước chấn động, tùy chỗ đi qua mà âm nhạc tấu lên. Cũng giống như con rồng lớn bay đi không dừng mà quanh thân rồng có mây mưa lưu chuyển không cùng tận. Bồ Tát Phổ Hiền cùng các vị quyến thuộc lấy thân Bồ Tát vận dụng năng lực của bốn đức, đến để khuyến khích phát khởi bốn nghĩa nhất [như trên], sự việc là như vậy.

Đoạn thứ hai từ câu “Lại có vô số chư thiên, rồng, dạ-xoa…” trở đi, trải qua các nơi đều giáo hóa [khiến chúng sanh] được lợi ích. Tùy chỗ thích hợp với chúng sanh mà hóa hiện ra hình dạng tám bộ chúng. Ở đây chỉ lược nói vận dụng hai năng lực,[12] tùy chỗ có thể nhận lãnh [của chúng sanh], sự việc là như vậy.

Đoạn thứ ba nói việc tu tập cung kính, kinh văn nói “cúi đầu áp mặt”, “nhiễu quanh bên phải bảy vòng”, y theo đó có thể hiểu được.

Tổng đoạn thứ hai nói việc khuyến khích phát tâm, chia làm 2 đoạn. Thứ nhất là thưa hỏi, [thỉnh Phật nói ra] để khuyến khích phát tâm. Thứ hai là nêu thệ nguyện khuyến khích phát tâm.

[Đoạn thứ nhất có 2 tiểu đoạn,] thưa hỏi và giải đáp.

Tiểu đoạn thứ nhất là thưa hỏi, nêu việc từ xa được nghe hết kinh này, lòng luyến mộ không dứt đối với chánh pháp, nên từ xa tìm đến với ý nguyện khuyến khích phát tâm. Do vậy nên thưa thỉnh Phật thuyết lại phần chánh thuyết [của kinh] là để khuyến khích phát tâm tự hành trì; lại thưa thỉnh ý nghĩa lưu thông kinh điển để khuyến khích phát tâm giáo hóa chúng sanh. Đức Như Lai nếu chấp thuận cả hai điều thưa thỉnh đó thì sẽ diễn thuyết [kinh này] một lần nữa, quang minh tiếp nối quang minh, tỏa chiếu không cùng tận. Cho nên [ngài Phổ Hiền] mới thưa thỉnh cả hai điều.

KINH VĂN

Đức Phật bảo Bồ Tát Phổ Hiền: “Sau khi Như Lai diệt độ rồi, nếu thiện nam hoặc thiện nữ nào thành tựu bốn pháp thì sẽ được kinh Pháp hoa này. Thứ nhất là được chư Phật hộ niệm; thứ hai là gieo trồng các gốc công đức; thứ ba là nhập vào chánh định; thứ tư là phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh. Sau khi Như Lai diệt độ rồi, thiện nam hoặc thiện nữ nào thành tựu bốn pháp như vậy, chắc chắn sẽ được kinh này.”

Tiểu đoạn thứ hai nêu việc đức Phật giải đáp, chia làm 3 phân đoạn. Trước tiên là giải đáp tổng quát, tiếp theo giải đáp chi tiết và cuối cùng tổng kết lại.

[Phân đoạn thứ nhất, giải đáp tổng quát là nêu chung 4 pháp.]

[Phân đoạn thứ hai] giải đáp chi tiết là kể ra đủ 4 pháp, y theo kinh văn có thể hiểu được. [Ngài Phổ Hiền] đã thưa thỉnh hai việc, đức Như Lai khéo léo giải đáp, chỉ lược nêu 4 pháp để bao trùm những pháp khác. Vì sao vậy? Vì 4 pháp này là cốt yếu, bao quát cả hai phần chánh thuyết và lưu thông [của kinh này].

Vì sao? Vì chư Phật tuy không có sự thiên lệch, nhưng nếu chúng sanh nào thường xa lìa việc xấu ác, làm theo việc hiền thiện, ngược đường mê quay về nẻo chánh, khai thông tri kiến quyền thừa, hiển lộ tri kiến Phật, ắt có thể xứng hợp với tâm bậc thánh, nên “được chư Phật hộ niệm”. Nếu tri kiến Phật đã khai mở, tức là trí tuệ Bát-nhã soi chiếu sáng suốt, đó là “gieo trồng các gốc công đức”. Đó cũng là “nhập vào chánh định”, không loạn, không [đắm nhiễm] mùi vị, không nắm bắt, không buông bỏ. Đó cũng là “phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh”.

Nên biết, bốn điều này cùng với việc “khai quyền hiển thật” tuy tên gọi khác nhau nhưng bản thể tương đồng, không phân hai, không khác biệt.

Lại nữa, “được chư Phật hộ niệm” tức là khai mở tri kiến Phật; “gieo trồng các gốc công đức” là chỉ bày tri kiến Phật; “phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh” là tỏ ngộ tri kiến Phật; “nhập vào chánh định” là thể nhập tri kiến Phật. Bốn pháp này đã thâu nhiếp hết những điểm cốt yếu của tích môn.

Lại nữa, hình tích ắt phải có bản nguyên. Từ bản nguyên khai mở, chỉ bày, tỏ ngộ, thể nhập cho nên trong hình tích mới có khai mở, chỉ bày, tỏ ngộ, thể nhập. Nay khai mở hình tích tức là hiển lộ bản nguyên. Bản nguyên với hình tích thật không phân hai, không khác biệt.

Dùng 4 pháp này để giải đáp việc thưa thỉnh [thuyết giảng lại] phần chánh thuyết [kinh này], ý nghĩa như vậy đã sáng tỏ. Lại cũng dùng 4 pháp này để giải đáp việc thưa hỏi về lưu thông [kinh Pháp hoa].

Phương thức lưu thông [như phần trước kinh văn đã giảng], dù là ba pháp hay bốn hạnh[13] [cũng đều tương hợp].

“Phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh” là vào nhà Như Lai; “nhập vào chánh định”, “được chư Phật hộ niệm”, đó chính là đắp y Như Lai; “gieo trồng các gốc công đức” là ngồi tòa Như Lai. Đây là yếu chỉ trong việc truyền rộng kinh này, tức bốn pháp mà cũng là ba. “Phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh” là hạnh thệ nguyện an vui; “nhập vào chánh định” là hạnh ý an vui, “gieo trồng các gốc công đức” là hạnh khẩu an vui, “được chư Phật hộ niệm” là hạnh thân an vui. Nên biết rằng bốn pháp nêu sau cũng tức là bốn điều đã giảng trước. Một phần giải đáp thỏa đáng cho cả hai điều thưa thỉnh, nêu ra bốn pháp cốt yếu nhất để bao trùm trọn vẹn bộ kinh. Đây chính là Pháp hoa được diễn giải lại, kinh này được tuyên thuyết lại. [Ngài Phổ Hiền] từ xa đến để khuyến khích phát tâm, ý nghĩa là như vậy.

[Phân đoạn thứ ba] tổng kết lại. “Sau khi Như Lai diệt độ… …chắc chắn sẽ được kinh này.” Các nhà cựu giải nói rằng: “Có thể thực hành bốn pháp này thì trong đời tương lai thường có được kinh này trong tay.” Nay tôi cho rằng không phải như vậy.

Kinh văn phần trước nói: “Nghĩa thật tướng các pháp, đã vì chúng giảng thuyết.”[14] Lại nói muốn làm cho tất cả chúng sanh đều được khai mở, chỉ bày, tỏ ngộ, thể nhập tri kiến Phật. Đó là bản thể chính của Pháp hoa. Có thể thực hành được bốn pháp [như Phật dạy] ắt đạt được sự sự thấu hiểu [bản thể] này, nên gọi sự thấu hiểu đó là kinh. Đây là tổng kết [trả lời cho] phần thưa thỉnh về chánh thuyết.

Nếu có thể vận dụng sự thấu hiểu này vào thực hành, truyền dạy cho người khác, người tin nhận sự thấu hiểu này sẽ thành người nương tựa [giáo pháp] ở bậc đầu tiên. Có thể đạt được thấu hiểu chân thật thì thành người nương tựa bậc thứ hai, thứ ba, thứ tư.[15] Đây là tổng kết [trả lời cho] phần thưa hỏi về việc lưu thông [kinh này].

Phải chăng vì không thấy được những ý nghĩa này nên [có người] mới tùy tiện đặt ra cách giải thích khác?

KINH VĂN

Khi ấy, Bồ Tát Phổ Hiền thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Sau năm trăm năm nữa, vào đời xấu ác, như có người thọ trì kinh điển này, con sẽ bảo vệ, giúp đỡ, trừ bỏ những điều suy kém, hoạn nạn để người ấy được an ổn, khiến cho không ai có thể dễ dàng rình rập ám hại, cho dù đó là ma, con trai con gái của ma, hoặc dân ma, hoặc kẻ bị ma ám, hoặc dạ-xoa, la-sát, cưu-bàn-trà, tỳ-xá-xà, cát-già, phú-đan-na, vi-đà-la[16]… những loài quỷ hại người đều không thể dễ dàng gây hại.

“Trong khi người ấy đi, đứng, tụng đọc kinh này, con sẽ cưỡi voi chúa trắng sáu ngà cùng với chúng Đại Bồ Tát hiện đến nơi ấy rồi tự hiện thân để cúng dường, bảo vệ, giúp đỡ, trấn an khích lệ người ấy, cũng để cúng dường kinh Pháp hoa.

“Trong khi người ấy ngồi yên suy ngẫm kinh này, con cũng sẽ cưỡi voi chúa trắng sáu ngà hiện ra trước mặt, nếu người ấy có quên mất một câu kinh, một bài kệ trong kinh Pháp hoa này, con sẽ dạy cho, rồi cùng họ tụng đọc, khiến cho lại thông suốt.

“Khi ấy người thọ trì, tụng đọc kinh Pháp hoa, được thấy thân con, hết sức vui mừng, lại càng thêm tinh tấn. Nhờ gặp con rồi nên liền đạt được các pháp tam-muội cùng đà-la-ni có tên là Toàn đà-la-ni, Bá thiên vạn ức toàn đà-la-ni, Pháp âm phương tiện đà-la-ni,[17] đạt được những pháp đà-la-ni như vậy.”

Đoạn thứ hai nêu thệ nguyện khuyến khích phát tâm, từ câu “Khi ấy, Bồ Tát Phổ Hiền thưa với Phật…” trở đi. Kinh văn lại chia làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là bảo vệ, giúp đỡ người [thọ trì giáo pháp]; thứ hai là bảo vệ hộ trì giáo pháp.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc bảo vệ, giúp đỡ người [thọ trì giáo pháp] lại có 6 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất là bên ngoài thì xua đuổi tai nạn. Trước tiên là xua đuổi chung tất cả mọi tai nạn của người ấy, cho nên nói “khiến cho không ai có thể dễ dàng rình rập ám hại”, chính là ý này. Tiếp theo nói việc xua đuổi cụ thể các loại tai nạn gây hại người ấy, nêu ra 12 loài không thể làm hại.

Phân đoạn thứ hai là bên trong thì chỉ dạy giáo pháp. Nói chung có ba lần chỉ dạy.

- Thứ nhất là “khi người ấy đi, đứng, tụng đọc kinh này”, Bồ Tát sẽ “sẽ cưỡi voi chúa trắng sáu ngà” đến để “trấn an khích lệ người ấy”.

- Thứ hai là “khi người ấy ngồi yên suy ngẫm kinh này”, Bồ Tát “cũng sẽ cưỡi voi chúa trắng sáu ngà hiện ra trước mặt” để chỉ dạy kinh này, khiến cho “đạt được các pháp tam-muội cùng đà-la-ni”. “Toàn đà-la-ni” là từ [quán] giả thể nhập [quán] không. “Bá thiên vạn ức toàn đà-la-ni” là chuyển từ [quán] không ra khỏi [quán] giả. “Pháp âm phương tiện đà-la-ni” là nói cả hai [giả và không] đều là đạo phương tiện, theo đó để thể nhập trung đạo mới là Đệ nhất nghĩa đế.

KINH VĂN

“Bạch Thế Tôn! Đời sau này, sau năm trăm năm,[18] trong đời xấu ác nếu trong hàng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di có người nào tìm cầu, hoặc thọ trì, hoặc tụng đọc, hoặc sao chép, rồi muốn tu tập theo kinh Pháp hoa này, thì nên một lòng tinh tấn trong suốt hai mươi mốt ngày. Sau hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cưỡi voi chúa trắng sáu ngà cùng với vô số Bồ Tát vây quanh, hiện ra trước mặt người ấy với thân hình mà hết thảy chúng sanh đều ưa thích muốn nhìn, vì người ấy thuyết pháp, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích lợi ích, khiến cho đạt được niềm vui chân thật, lại cũng trao cho người ấy chú đà-la-ni. Có được chú đà-la-ni này thì không loài phi nhân nào có thể phá hoại, cũng không bị nữ sắc làm cho mê hoặc tán loạn. Đích thân con cũng sẽ thường bảo vệ người ấy. Nguyện đức Thế Tôn nghe con nói ra chú đà-la-ni này.”

Liền đó, Bồ Tát Phổ Hiền ở trước Phật nói ra thần chú:

“A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chiên nễ, tát bà đà la ni a bà đa ni, tát bà bà sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết dà đà ni, a tăng kỳ, tăng già ba già địa, đế lệ a nọa tăng già đâu lược a la đế bà la đế, tát bà tăng già tam ma địa già lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược a nâu già địa, tân a tỳ cát lợi địa đế.”

“Bạch Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát nào được nghe đà-la-ni này, nên biết đó là sức thần thông của Bồ Tát Phổ Hiền; nếu kinh Pháp hoa lưu hành trong cõi Diêm-phù-đề, có người thọ trì thì nên nghĩ rằng: ‘Đều là do sức oai thần của Bồ Tát Phổ Hiền.’”

- Thứ ba, sau khi người ấy “một lòng tinh tấn trong suốt hai mươi mốt ngày” thì Bồ Tát lại cũng sẽ “cưỡi voi chúa trắng sáu ngà… vì người ấy thuyết pháp, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích lợi ích, khiến cho đạt được niềm vui chân thật, lại cũng trao cho người ấy chú đà-la-ni.” Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.

Phân đoạn thứ ba là dùng thần lực che chở. Nếu có người được nghe kinh, hoặc thọ trì kinh, không một trường hợp nào không phải do thần lực [của Bồ Tát Phổ Hiền]. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.

KINH VĂN

“Nếu có người thọ trì, tụng đọc, chân chánh nghĩ nhớ, hiểu rõ nghĩa lý, y theo kinh tu hành, nên biết là người ấy đang thực hành hạnh Phổ Hiền, ở nơi vô lượng vô biên chư Phật trồng sâu căn lành, được các đức Như Lai đưa tay xoa đầu khích lệ.”

Phân đoạn thứ tư là chỉ ra nhân duyên thù thắng. Nếu có thể làm [một trong] năm hạng pháp sư, tức là ở chỗ của ba đời chư Phật mà gieo trồng [căn lành], được thuần thục, được giải thoát. Người này cũng đồng như chư Phật trong đời tương lai được giải thoát, cho nên nói là giống như “đang thực hành hạnh Phổ Hiền”. Người này đã từng ở chỗ chư Phật trước đây gieo trồng việc lành, cho nên nói là “trồng sâu căn lành”. Người này ở chỗ đức Phật hiện nay đã được thuần thục, cho nên nói là “được các đức Như Lai đưa tay xoa đầu”.

KINH VĂN

“Nếu người nào chỉ sao chép kinh này, sau khi mạng chung sẽ sinh về cõi trời Đao-lợi, có tám mươi bốn ngàn thiên nữ tấu nhạc nghênh đón, đội mũ bảy báu, ở giữa các thiên nữ hầu hạ vui chơi thích thú, huống chi những người thọ trì, tụng đọc, chân chánh nghĩ nhớ, hiểu rõ nghĩa lý, y theo kinh tu hành.

“Nếu người nào thọ trì, tụng đọc, hiểu rõ nghĩa kinh, thì khi mạng chung được ngàn đức Phật đưa tay nâng đỡ, khiến cho không bị hoảng sợ, không đọa vào các đường ác, liền được vãng sinh đến chỗ của Bồ Tát Di-lặc ở cõi trời Đâu-suất. Bồ Tát Di-lặc có ba mươi hai tướng tốt,[19] có chúng Đại Bồ Tát cùng nhau vây quanh, có trăm nghìn muôn ức thiên nữ làm quyến thuộc, được sinh về đó có những công đức lợi ích như vậy.

Phân đoạn thứ năm là chỉ ra quả lành [sẽ được] gần đây. Chỉ có thể sao chép [kinh này] thì gần đây được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Trọn đủ [công hạnh của] năm hạng pháp sư thì tiếp đến được sinh về cõi trời Đâu-suất, y theo kinh văn có thể hiểu được.

KINH VĂN

“Cho nên, những người có trí nên một lòng tự mình sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, thọ trì, tụng đọc, chân chánh nghĩ nhớ, y theo kinh này tu hành.”

Phân đoạn thứ sáu là tổng kết, từ câu “Cho nên, những người có trí…” trở đi, y theo kinh văn có thể hiểu được.

KINH VĂN

“Bạch Thế Tôn! Nay con dùng sức thần thông để giữ gìn, bảo vệ kinh này, sau khi Như Lai đã diệt độ, ở trong cõi Diêm-phù-đề lưu hành rộng khắp, không để dứt mất.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Bạch Thế Tôn! Nay con dùng sức thần thông…” trở đi, nêu thệ nguyện bảo vệ hộ trì giáo pháp. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.

KINH VĂN

“Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni khen ngợi: “Lành thay, lành thay, Phổ Hiền! Ông có thể giúp sức giữ gìn kinh này, khiến cho nhiều chúng sanh được an vui lợi ích. Ông đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, lòng từ bi sâu xa rộng lớn, từ xưa đến nay đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mới có thể phát nguyện thần thông như vậy, giữ gìn bảo vệ kinh này. Nay ta sẽ dùng sức thần thông để bảo vệ và giúp đỡ những người thường thọ trì danh hiệu Bồ Tát Phổ Hiền.”

Tổng đoạn thứ ba thuật lại việc phát nguyện, tức là đức Như Lai nêu những điều thù thắng để thành tựu những điểm kém hơn [trong phát nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền], giúp người tu hành thêm tăng tiến, dũng mãnh hăng hái trong việc rộng truyền [giáo pháp]. Tổng đoạn này chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất [đức Phật] nhắc lại việc hộ trì bảo vệ giáo pháp, nói rằng: “Ông có thể… …khiến cho nhiều chúng sanh được an vui lợi ích… lòng từ bi sâu xa rộng lớn… từ xưa đến nay đã… giữ gìn bảo vệ kinh này. Nay ta sẽ dùng sức thần thông để bảo vệ và giúp đỡ…” Đức Phật còn hộ trì giáo pháp, huống chi là Bồ Tát Phổ Hiền? Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.

KINH VĂN

“Này Phổ Hiền! Nếu ai thọ trì, tụng đọc, chân chánh nghĩ nhớ, tu tập, sao chép kinh Pháp hoa này, nên biết là người ấy gặp Phật Thích-ca Mâu-ni, như được nghe kinh điển này từ miệng Phật nói ra; nên biết là người ấy cúng dường Phật Thích-ca Mâu-ni; nên biết là người ấy được Phật khen ngợi: ‘Lành thay’; nên biết là người ấy được Phật Thích-ca Mâu-ni đưa tay xoa đầu; nên biết là người ấy được Phật Thích-ca Mâu-ni dùng y của Phật che chở cho.”

Đoạn thứ hai từ câu “Này Phổ Hiền! Nếu ai thọ trì, tụng đọc…” trở đi, nhắc lại việc bảo vệ giúp đỡ người thọ trì giáo pháp. Tuy không nhắc lại theo đúng thứ tự nhưng vẫn đầy đủ các ý nghĩa,[20] [nên cũng chia làm 6 tiểu đoạn].

[Tiểu đoạn thứ nhất nhắc lại việc chỉ dạy giáo pháp, kinh văn nói] “Nên biết là người ấy gặp Phật Thích-ca Mâu-ni” là nhắc lại việc [ngài Phổ Hiền] hiện thân để chỉ bày giáo pháp. [Đây là hàm ý nói người thọ trì kinh] còn thấy được thân Phật là quả của muôn đức, huống chi thân cưỡi voi trắng sáu ngà còn trong vòng nhân [quả] của Bồ Tát Phổ Hiền? Người thọ trì kinh còn “được nghe kinh điển này từ miệng Phật nói ra”, huống chi là những lời dạy của Bồ Tát về những chỗ quên sót câu chữ trong kinh?

[Tiểu đoạn thứ hai nhắc lại việc dùng thần lực che chở.] Người thọ trì kinh còn “được Phật khen ngợi”, “dùng tay xoa đầu”, “dùng y của Phật che chở cho”, huống chi chỉ được Bồ Tát Phổ Hiền dùng đà-la-ni che chở thôi sao?

KINH VĂN

“Người như vậy không còn tham muốn bám chấp niềm vui thế tục, không ưa thích kinh sách hoặc kẻ sao chép kinh sách ngoại đạo,[21] cũng không thích gần gũi những kẻ ấy cùng những kẻ xấu ác, như người giết mổ gia súc, người nuôi gia súc như heo, dê, gà, chó… hoặc người săn bắt thú, người môi giới và mua bán nhan sắc phụ nữ…[22]

“Người như vậy tâm ý chân chất thẳng thắn, có sự nghĩ nhớ chân chánh, có sức phúc đức.

“Người như vậy không có phiền não do ba độc tham, sân, si; không có phiền não vì tật đố, ngã mạn, tà mạn,[23] tăng thượng mạn.[24]

“Người như vậy ít ham muốn, biết đủ, thường tu tập các hạnh Phổ Hiền.[25]

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Người như vậy không còn tham muốn…” trở đi, nhắc lại về việc gieo nhân. Rộng nêu trong các nhân không có những điều lầm lỗi xấu ác. Người như vậy “ít ham muốn, biết đủ, thường tu tập các hạnh Phổ Hiền”, đây là nhắc lại các nhân thù thắng.

KINH VĂN

“Này Phổ Hiền! Năm trăm năm sau khi Như Lai diệt độ, nếu ai nhìn thấy người khác thọ trì, tụng đọc kinh Pháp hoa thì nên tự nghĩ rằng: ‘Người này không bao lâu sẽ đến Đạo trường, phá trừ chúng ma, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển bánh xe Pháp, đánh trống Pháp, đổ cơn mưa Pháp; sẽ ngồi trên Pháp tòa sư tử ở giữa đại chúng trời, người.’

“Phổ Hiền! Nếu người đời sau thọ trì, tụng đọc kinh Pháp hoa này, người ấy sẽ không còn tham muốn, bám chấp nơi y phục, tòa ngồi, thức ăn uống; những vật dụng cần thiết cho đời sống, chỗ mong cầu đều không thiếu thốn, ngay trong đời này cũng được phước báo [của việc thọ trì kinh này].”

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Này Phổ Hiền! Năm trăm năm sau khi Như Lai diệt độ…” trở đi, nhắc lại về những quả lành sẽ được gần đây. “Người này không bao lâu sẽ đến Đạo trường”, sẽ thành tựu quả Phật [là quả] rất lâu xa, đâu chỉ là những quả lành gần đây thôi sao? Lại “ngay trong đời này cũng được phước báo”, được nhiều quả lành, không chỉ là được sinh lên cõi trời.

KINH VĂN

“Nếu có kẻ khinh chê [người thọ trì kinh này], nói rằng: ‘Ông thật điên rồ, uổng công làm việc như vậy, rốt lại chẳng được gì.’ Người như vậy phải chịu tội báo, đời đời không có mắt.

“Nếu có người cúng dường, ngợi khen xưng tán [người thọ trì kinh này], ngay trong đời này sẽ được phước báo.

“Nếu có kẻ thấy người thọ trì kinh này mà nói ra những chỗ lỗi lầm sai trái của người ấy, dù đúng thật hoặc không đúng thật, thì trong đời này sẽ mắc bệnh bạch lại.[26] Nếu có người cười nhạo, đời đời sẽ bị răng thưa, răng sứt mẻ, môi xấu, mũi tẹt, chân tay cong vẹo, mắt lé, thân thể hôi hám, ung nhọt, ghẻ chốc chảy ra máu mủ, bụng trướng, khó thở, đủ các thứ bệnh nghiêm trọng.”

Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Nếu có kẻ khinh chê…” trở đi, nhắc lại việc có thể xua đuổi tai nạn bên ngoài. Đức Phật mở rộng chỉ bày tội lỗi của người hủy báng, khiến cho rõ biết lỗi lầm để sửa đổi, không còn quấy nhiễu gây rối loạn [cho người thọ trì kinh]. Đây không chỉ là để người thọ trì kinh được dứt trừ tai nạn, mà cũng vì muốn cho kẻ hủy báng [hối cải lỗi lầm để] được sinh phước báu. Không có hủy báng, không có chướng nạn thì cả hai bên đều được an vui. Đó là lòng từ cứu độ rộng lớn không thiên lệch.

KINH VĂN

“Do vậy, này Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ trì kinh điển này, nên đứng dậy nghênh đón từ xa, như cung kính Phật.”

Tiểu đoạn thứ sáu từ câu “Do vậy, này Phổ Hiền!...” trở đi, “nên đứng dậy nghênh đón từ xa, như cung kính Phật” là nhắc lại tổng kết về công đức của người phát khởi niềm tin.

KINH VĂN

Khi Phật thuyết phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm này, có vô lượng vô biên Bồ Tát nhiều như cát sông Hằng đạt được Bá thiên vạn ức toàn đà-la-ni;[27] các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ trong thế giới đại thiên được trọn đủ đạo Phổ Hiền.

Đức Phật thuyết xong kinh này, các vị Bồ Tát như Bồ Tát Phổ Hiền…, các vị Thanh văn như Xá-lợi-phất… cùng chư thiên, rồng, người và phi nhân, hết thảy trong đại hội đều hết sức vui mừng, thọ trì lời Phật dạy, cùng đảnh lễ lui ra.

Tổng đoạn thứ 4 từ câu “Khi Phật thuyết phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm này…” trở đi là nêu lợi ích của sự phát tâm, chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất nêu việc nghe phẩm kinh này được lợi ích. Đạt được “toàn đà-la-ni” tức là giai vị Sơ địa; “được trọn đủ đạo Phổ Hiền” tức là giai vị Thập địa.

Đoạn thứ hai nêu việc nghe kinh [Pháp hoa] này được lợi ích. “Hết thảy trong đại hội đều hết sức vui mừng” chính là ý nghĩa [lợi ích] này. Vui mừng hoan hỷ thì như trước đã nói. Ở đây vì sao vẫn còn nhắc đến Thanh văn? Đó chỉ là do người chép kinh vẫn ghi lại theo giai vị trước đây của các vị này mà thôi. Lại nữa, người chép kinh gọi các vị này là Thanh văn Đại thừa: [Thanh nghĩa là] dùng âm thanh Phật đạo; [văn nghĩa là] khiến cho hết thảy chúng sanh đều được nghe. Ý nghĩa [Thanh văn] như vậy càng thêm sáng rõ.

__________________________________


CHÚ THÍCH

[1] Tên Phạn ngữ của Bồ Tát Phổ Hiền thường được biết là Samanatabhadra. Từ điển Phật Quang có ghi nhận một tên khác nữa là Viśvabhadra. Ở đây nói phiên âm là Bí-du-bạt-đà (邲輸颰陀) có vẻ gần với Viśvabhadra, vì Samanatabhadra thường được phiên âm là Tam-mạn-đa-bạt-đà-la (三曼多跋陀羅).

[2] Phần này lược trích từ kinh Bi Hoa, quyển 4, phần nói về các Bồ Tát được thụ ký. Đây là phát nguyện của Vương tử Mẫn-đồ (泯圖): “Thế Tôn! Sở nguyện của con là ở ngay nơi thế giới bất tịnh này để tu hành đạo Bồ Tát, lại còn tu sửa trang nghiêm cho mười ngàn thế giới bất tịnh, khiến cho đều được trang nghiêm thanh tịnh giống như thế giới Thanh Hương Quang Minh Vô Cấu. Con cũng sẽ giáo hóa vô số các vị Bồ Tát khiến cho đều được tâm thanh tịnh, không có mọi sự cấu uế, thảy đều hướng theo Đại thừa. Những Bồ Tát như thế đầy khắp trong cõi thế giới của con, sau đó con mới thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Thế Tôn! Nguyện khi con tu hành đạo Bồ Tát phải vượt trội hơn so với các vị Bồ Tát khác.” (Bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến – ĐCT, T3, 157, tr.191c, d.3 - d.11)

[3] Kinh Bi Hoa, đã dẫn trên, tr.192b, d.13-14.

[4] Ba tất đàn ở đây chỉ đến thế giới tất đàn, vị nhân tất đàn và đối trị tất đàn.

[5] Văn Cú dùng tên gọi Thích luận để chỉ Đại trí độ luận, nói đủ là Đại trí độ luận thích (大智度論釋). Văn cú ký giải thích rằng luận này đã dẫn lại từ kinh Đại Bát Niết-bàn.

[6] Trong phẩm trước là Bồ Tát Diệu Âm từ phương tây, trong phẩm này là Bồ Tát Phổ Hiền từ phương tây.

[7] Trong đoạn này, Văn Cú theo lệ trước mà dùng “kỳ nhất, kỳ nhị…” để chỉ các ý nghĩa của bốn tất đàn. Chúng tôi chuyển dịch rõ theo các nghĩa đó.

[8] Bồ Tát Phổ Hiền (H. 普賢菩薩, S. Samantabhadra), nhân duyên tiền thân khi còn tu tập ở giai đoạn mới phát tâm được đề cập đến trong kinh Bi Hoa, là vị vương tử thứ tám của vua Bảo Hải, tên là Mẫn-đồ.

[9] Nguyên tác dùng “威德名聞 - oai đức danh văn” có phần khó hiểu khi đưa vào ngữ cảnh này. Kinh Chánh Pháp hoa và bản dịch Anh ngữ của H. Kern đều không có ý nghĩa tương đương.

[10] Nguyên tác dùng “不可稱數 - bất khả xưng số” (không thể dùng số đếm để nói lên), bản Anh ngữ dịch là “surpassing all calculation” (vượt khỏi mọi sự tính toán), đều để diễn đạt một số nhiều đến mức không thể tính đếm.

[11] Kinh Chánh Pháp hoa và bản dịch Anh ngữ của H. Kern đều chỉ đề cập đến người nữ, không nói đủ cả nam và nữ; cho đến phần trả lời của đức Phật cũng vậy. Điều này có vẻ không hợp lý.

[12] Phần trước nêu 4 năng lực là thần thông, tự tại, oai đức và danh tiếng. Ở đây chỉ nói 2 năng lực tức là thần thông và tự tại.

[13] Phẩm Pháp sư nêu 3 pháp người thuyết giảng kinh phải thực hiện là vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai. Phẩm Hạnh an vui nêu 4 hạnh là thân nghiệp an vui, khẩu nghiệp an vui, ý nghiệp an vui và thệ nguyện an vui. Ba pháp và bốn hạnh này đều tương quan chặt chẽ với nhau.

[14] Tức là phần kệ tụng trong phẩm Tựa.

[15] Văn Cú nói “sơ y nhân” (初依人) là người nương tựa đầu tiên, cho đến đệ nhị, đệ tam, đệ tứ y nhân. “Nương tựa” đây là nương tựa vào giáo pháp, tức là đã phát khởi lòng tin nương theo giáo pháp, trong phần giải thích phẩm Phân biệt công đức gọi là Tứ tín đệ tử, bao gồm 4 hạng: Thứ nhất là hạng nghe hiểu, có niềm tin nhưng không thể vì người khác giảng nói; thứ hai là hạng tin nhận và có thể vì người khác giảng giải sơ lược; thứ ba là hạng có niềm tin và nghe nhiều hiểu rộng, có thể vì người khác giảng rộng; thứ tư là hạng tin sâu, hiểu rõ, có khả năng thuyết pháp rộng rãi, đầy đủ cả năng lực quán chiếu và thực hành.

[16] Vi-đà-la (H. 韋陀羅, S. vetāla), Hán dịch là khởi thi quỷ (起屍鬼), tức loài quỷ có chú thuật làm cho xác chết đứng dậy để sai khiến.

[17] Ba pháp đà-la-ni này được tông Thiên thai xem như tương ứng với 3 pháp quán Không, Giả, Trung. Thứ nhất là Toàn đà-la-ni (旋陀羅尼). Toàn nghĩa là xoay chuyển, đạt được đà-la-ni này là xoay chuyển giả tướng sai biệt, thể nhập vào lý Không bình đẳng, tương đương với quán Không. Thứ hai là Bá thiên vạn ức đà-la-ni (百千萬億旋陀羅尼). Hành giả xoay chuyển cái Không bình đẳng mà thể nhập giả tướng của trăm nghìn muôn ức pháp sai biệt, tương đương với quán Giả, tức từ không vào giả. Thứ ba là Pháp âm phương tiện đà-la-ni (法音方便陀羅尼). Hành giả vận dụng Không và Giả làm phương tiện thể nhập Trung đạo tuyệt đối, tương đương với quán Trung, tức Trung đạo đệ nhất nghĩa đế.

[18] Nguyên tác dùng “後世後五百歲 - hậu thế hậu ngũ bá tuế” (đời sau này, sau năm trăm năm), vẫn là chỉ năm trăm năm sau khi Phật diệt độ. Kinh Chánh Pháp hoa diễn đạt chỗ này là “最後餘殘末俗五濁之世 - tối hậu dư tàn mạt tục ngũ trược chi thế”, tức là chỉ giai đoạn cuối cùng của đời ngũ trược sau khi Phật nhập diệt. Bản Anh dịch của H. Kern diễn đạt là “in the second half of the millennium” (nửa sau của thiên niên kỷ), cũng tức là 500 năm sau. Những con số này chỉ mang ý nghĩa tượng trưng để chỉ đến giai đoạn chánh pháp suy tàn về sau.

[19] Nguyên tác Hán văn là: “即往兜率天上彌勒菩薩所。彌勒菩薩有三十二相大菩薩眾所共圍繞 - …tức vãng Đâu-suất thiện thượng Di-lặc Bồ Tát sở. Di-lặc Bồ Tát hữu tam thập nhị tướng, Đại Bồ Tát sở cộng vi nhiễu…” Như vậy là nói “Bồ Tát Di-lặc có 32 tướng tốt”. Theo kinh Chánh Pháp hoa và bản Anh dịch của H. Kern thì đều nói là tự thân người này khi sinh về cõi trời Đâu-suất sẽ có đủ 32 tướng tốt. Kinh Chánh Pháp hoa: “生兜術天, 在彌勒佛所成菩薩身, 三十二相莊嚴其體 - sinh Đâu-thuật thiên, tại Di-lặc Phật sở, thành Bồ Tát thân, tam thập nhị tướng trang nghiêm kỳ thể” (… sinh về cõi trời Đâu-suất, chỗ đức Phật Di-lặc, thành tựu thân Bồ Tát có 32 tướng trang nghiêm thân thể) (ĐCT, T9, 263, tr.133c, d.3-4) Bản Anh dịch của H. Kern: “after disappearing from this world he shall enter the company of the Tushita-gods, where the Bodhisattva Mahâsattva Maitreya is residing, and where, marked by the thirty-two sublime characteristics…” (sau khi rời khỏi thế giới này người ấy sẽ sinh về cõi trời Đâu-suất, nơi Bồ Tát Di-lặc đang cư trú, và ở nơi đó, nổi bật với 32 tướng tốt…) Theo ngữ cảnh kinh văn thì có vẻ như ý nghĩa này thích hợp hơn, vì đang nói về công đức của người thọ trì kinh Pháp hoa, việc xen vào nói 32 tướng tốt của Bồ Tát Di-lặc dường như không phù hợp. Và do vậy, câu tiếp theo nói có “trăm ngàn muôn ức thiên nữ làm quyến thuộc” cũng không thích hợp khi dùng mô tả Bồ Tát Di-lặc. Nếu như đây là sự nhầm lẫn thì có thể do 4 chữ “彌勒菩薩 - Bồ Tát Di-lặc” lần thứ hai là bị thừa, dẫn đến đổi nghĩa toàn đoạn kinh.

[20] Phần này tuy nhắc lại đủ 6 ý nhưng thứ tự khác với phần trước, nên tiểu đoạn thứ nhất tương ứng với phân đoạn thứ hai, tiểu đoạn thứ hai tương ứng với phân đoạn thứ ba, tiểu đoạn thứ ba tương ứng với phân đoạn thứ tư, tiểu đoạn thứ tư tương ứng với phân đoạn thứ năm, tiểu đoạn thứ năm tương ứng với phân đoạn thứ nhất, tiểu đoạn thứ sáu tương ứng với phân đoạn thứ sáu.

[21] Nguyên tác dùng “手筆 - thủ bút” để chỉ việc dùng tay sao chép, ở đây là sao chép kinh sách ngoại đạo. Do đó câu tiếp theo dùng “其人 - kỳ nhân” là để chỉ người làm công việc sao chép này.

[22] Nguyên tác dùng “衒賣女色 - huyễn mại nữ sắc”. Chữ “huyễn” nghĩa là khoe khoang, phô bày… ở đây chỉ việc phô bày nhan sắc phụ nữ để dùng như một món hàng rao bán, trục lợi; ngày nay chính là nghề môi giới mại dâm.

[23] Tà mạn (H. 邪慢, S. mithyā-māna): trở nên kiêu căng ngạo mạn vì tự nghĩ mình là người có đức độ cao, trong khi thực sự không có, do hiểu biết tà vạy nên nhận thức sai lầm như vậy. Người tà mạn làm những việc xấu ác, sai trái nhưng tưởng rằng đó là việc cao quý nên sinh tâm kiêu mạn.

[24] Tăng thượng mạn (H. 增上慢, S. abhi-māna): tự cao, ngạo mạn vì tự cho rằng mình đã chứng thánh quả, có thành tựu tu tập, nhưng sự thật không đúng như vậy.

[25] Các hạnh Phổ Hiền: có 10 hạnh được nói trong kinh Hoa nghiêm (大方廣佛華嚴經 - Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh), quyển 40, bao gồm: 1. Lễ kính chư Phật; 2. Xưng tán Như lai; 3. Quảng tu cúng dường; 4. Sám hối nghiệp chướng; 5. Tùy hỉ công đức; 6. Thỉnh Phật chuyển pháp luân; 7. Thỉnh Phật trụ thế; 8. Thường tùy Phật học; 9. Hằng thuận chúng sinh; 10. Phổ giai hồi hướng. (ĐCT, T10, 293, tr.844b, d.24-28)

[26] Bệnh bạch lại (H. 白癩病, E. vitiligo): bệnh ngoài da do rối loạn sắc tố da, dẫn đến tạo ra nhiều vùng da có màu trắng bệch, cũng thường gọi là bạch biến hay lang ben.

[27] Đây là pháp đà-la-ni thứ hai vừa nói ở đầu phẩm này.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 20 chương »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Tổng quan về các pháp môn trong Phật giáo Tây Tạng


Quy nguyên trực chỉ


Bhutan có gì lạ


Pháp bảo Đàn kinh

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...