Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú

Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 18. Giải thích phẩm Công đức tùy hỷ »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3
»» 18. Giải thích phẩm Công đức tùy hỷ

(Lượt xem: 4)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 - 18. Giải thích phẩm Công đức tùy hỷ

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Phẩm Công đức tùy hỷ, thứ mười tám

Giải thích tên phẩm

Tùy là tùy thuận theo sự tướng và lý tánh, không phân hai, không khác biệt. Hỷ là vui cho mình, vui cho người khác. Khi được nghe giáo pháp sâu xa uyên áo, tùy thuận theo lý tánh thì được công đức chân thật, tùy thuận theo sự tướng thì được công đức quyền thừa. Vui cho chính mình là có trí tuệ, vui cho người khác là có từ bi. Hợp cả quyền thừa và chân thật, trí đức và đoạn đức mà thuyết giảng, cho nên gọi là phẩm Công đức tùy hỷ.

Lại nữa, thuận theo lý tánh nghe nói về bản địa sâu xa của Phật liền tin nhận sâu xa, thuận theo không trái nghịch, không mảy may nghi ngại. Thuận theo sự tướng là nghe nói về việc Phật ba đời làm lợi ích chúng sanh, xuyên suốt cả thời gian, bao quát mọi nơi trong không gian, cũng không mảy may nghi ngại. Ngay nơi sự tướng rộng khắp mà đạt được lý tánh sâu xa; ngay nơi lý tánh sâu xa mà đạt được sự tướng rộng khắp. Không phân hai mà là hai; không khác biệt mà khác biệt; tuy là hai, là khác biệt mà không phân hai, không khác biệt. Tin tưởng nhận hiểu như vậy gọi là tùy thuận.

Đức Như Lai ra đời hơn bốn mươi năm vẫn chưa hiển bày pháp chân thật. [Đối với] bảy hạng phương tiện,[1] [Phật] đều chưa nói ra lời chân thật rốt ráo. Nay mừng cho chính mình và người khác có thể dùng tâm phàm phu để rõ biết ngang bằng với Phật, có thể dùng nhục nhãn cha mẹ sinh ra mà nhìn thấy được đồng với Như Lai. Chỗ thấy biết như thế rốt ráo tận cùng pháp giới, rộng không bờ mé, không gì bằng được, không gì so sánh được, càng không có gì vượt hơn. Nay Phật nói ra điều này, ta được nghe điều này, cho nên gọi là phẩm Công đức tùy hỷ.

“Người thứ năm mươi” [trong ví dụ của Phật] là hàng ban sơ của hạng người thứ nhất.[2] Vì ban sơ nên [khi nghe kinh này] chỉ có một niệm nhận hiểu lý tánh, chỉ có một niệm mừng vui cho mình và cho người khác, chưa thực hành được gì, chưa tạo được ân đức gì cho người khác. Nhưng công đức mà người này đạt được, đức Như Lai đã khéo léo ví dụ so sánh còn hơn cả bậc vô học, “huống chi là người đầu tiên ở trong Pháp hội được nghe”, huống chi là những hạng người thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm; huống chi là những người được vào các giai vị Thập trụ, Thập hạnh cho đến tâm cuối cùng [trước khi thành Phật].[3] Ai được nghe công đức sâu xa vi diệu như thế mà không ngưỡng mộ? Đức Như Lai nói ra điều này để khiến cho chúng sanh sinh lòng ưa chuộng, cho nên gọi là phẩm Công đức tùy hỷ. Từ trước đến nay, đức Phật ngợi khen xưng tán công đức trì kinh, đại chúng đương thời đều cho rằng phải thể nhập giai vị Chân nhân[4] mới đạt được công đức như thế, cho nên đối với kẻ ban sơ vừa mới phát tâm liền khởi sinh ý tưởng xem nhẹ, cho là yếu kém. Bỗng dưng nghe rằng hạt mầm còn nằm sâu trong đất cứng có thể thành đại thụ đường kính trăm ôm, chim tần-già còn trong trứng đã sẵn có tiếng hót hay hơn hết thảy các loài chim; thật là một sự diệu kỳ hiếm có, mối nghi ngờ xem nhẹ [người sơ tâm trước đây] liền tự nhiên tan biến. Cho nên gọi là phẩm Công đức tùy hỷ.

Hàng ngoại đạo dù đạt được năm thần thông, có thể dời núi lấp biển nhưng không thể điều phục được các phiền não kiến ái,[5] không bằng người vừa được noãn pháp.[6] Bậc vô học trong hàng Nhị thừa đều đã dứt được nhân quả tương lai[7] nhưng vẫn bị trói buộc bởi Niết-bàn, không biết rằng cả nhân và quả [Nhị thừa] đều chỉ là quyền biến. Hàng Thông giáo tuy khéo tu nhân nhưng phát tâm không biết đến quả Phật rốt ráo,[8] nên chứng quả cũng chỉ trừ được bốn trụ địa phiền não.[9] Hàng Biệt giáo tuy có vượt hơn Nhị thừa, nhưng tu nhân có thiên lệch, lại còn vụng về, không được Phật khen ngợi.

Tất cả [những hạng như trên] đều không sánh bằng người vừa [nghe kinh này] mới phát tâm tùy hỷ. Nay đức Phật nêu ra chữ A đầu tiên để so sánh đến chữ Trà sau cùng,1 vượt trội hơn tất cả các giáo pháp khác. Cho nên gọi là phẩm Công đức tùy hỷ.

Hỏi: Như vậy so với phẩm Tùy hỷ trong Đại phẩm Bát-nhã2 thì thế nào?

Đáp: Ở đây nói về pháp, phẩm kia [trong Đại Bát-nhã] là nói về người; người và pháp cùng hỗ tương cho nhau.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Di-lặc thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu như có thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh Pháp hoa này sinh tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức?”

Rồi Bồ Tát Di-lặc đọc kệ lặp lại rằng:

“Sau khi Phật diệt độ,
Có người nghe kinh này,
Nếu khởi tâm tùy hỷ,
Được phước đức bao nhiêu?”

Kinh văn phẩm này có phần hỏi và đáp, mỗi phần đều chia ra có kinh văn trường hàng và kệ tụng.

Phẩm trước suy lường về [công đức của] bốn hạng đệ tử, không nói đến hạng đầu tiên. Ngài Di-lặc nương theo cơ duyên ấy thưa hỏi ý nghĩa này, y theo kinh văn có thể hiểu được.

KINH VĂN

Khi ấy, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Di-lặc: “Này A-dật-đa! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di hoặc người có trí khác, dù lớn hay nhỏ tuổi, nghe được kinh này rồi sinh tâm tùy hỷ, sau khi ra khỏi Pháp hội liền đi đến nơi khác, hoặc tăng phòng, hoặc chỗ thanh vắng, hoặc nơi thành ấp, đường sá, xóm làng, vườn ruộng, y theo những điều đã nghe mà tùy khả năng giảng nói lại cho cha mẹ, người thân thuộc, bạn hữu, tri thức… Những người được nghe sinh tâm tùy hỷ, tiếp tục nói lại với người khác; người khác nghe rồi cũng sinh tâm tùy hỷ, nói lại với người khác nữa… Cứ tiếp tục truyền đi như vậy cho đến người được nghe thứ năm mươi.”

Nội dung đức Phật giải đáp có hai phần. Phần đầu nói về người trong tâm tùy hỷ, phần thứ hai nêu thẳng về người bên ngoài nghe pháp.

Phần đầu nói về người tùy hỷ trong tâm lại chia làm 5 đoạn. Thứ nhất nói việc tuần tự dạy lại; thứ hai suy lường công đức căn bản; thứ ba thưa hỏi; thứ tư hồi đáp; thứ năm suy lường công đức đầy đủ.

Các bậc thầy phương Nam giảng rằng, 50 người [trong ví dụ] được chia làm 3 nhóm. Thứ nhất là tuần tự [dạy lại] dần lên cao, [người sau hơn người trước]; thứ hai là tuần tự [dạy lại] vẫn ngang bằng [như nhau]; thứ ba là tuần tự [dạy lại] dần xuống thấp, [người sau kém hơn người trước]. [Tuần tự dạy lại] dần lên cao thì rất khó, vẫn ngang bằng cũng ít gặp, đa phần là dần xuống thấp, ngày càng kém hơn. Suy lường [công đức của] người kém nhất để hình dung biết được các trường hợp ngang bằng hoặc cao hơn.[10]

Các bậc thầy phương Bắc giảng rằng, đầu tiên là bậc Diệu giác vì hàng Thập địa thuyết dạy; hàng Thập địa lại vì hàng Cửu địa mà thuyết… Cứ như thế dần dần thuyết dạy xuống cho đến hàng Thập tín. [Cho nên kinh văn] suy lường công đức của người sau cùng để hình dung [công đức] của bậc đầu tiên.

Nay cho rằng không phải như vậy. Đức Phật đã nói rất rõ ràng về người đầu tiên ở trong pháp hội được nghe, sau đó mới tiếp nối dần dần truyền dạy lại. Dần dần truyền dạy qua 50 người, mới suy lường công đức người sau cùng để so sánh hình dung công đức của người đầu tiên. [Cho nên,] nói về sau thì không phải hàng Thập tín là khởi đầu; nói về ban đầu thì không phải bậc Diệu giác là kết thúc; làm sao có thể vận dụng cách giảng giải ấy được? Cách giảng giải ấy rất sâu xa nhưng không tương hợp ý chỉ kinh này.

Nay xét theo hai cách. Thứ nhất, xét theo [50 người] đồng thời tu tập thì dựa vào bốn chúng trong các giáo pháp. Thứ hai, xét theo [50 người] tuần tự tăng tiến thì dựa vào cách đếm số trong Viên giáo.

[Theo cách thứ nhất,] Tạng giáo có bốn cửa vào,[11] mỗi một cửa vào đều có bốn chúng, lại mở rộng thêm hai chúng sa-di và sa-di-ni, hợp thành [sáu chúng biểu trưng cho] 6 người; [nhân với] bốn cửa vào là 24 người; [nhân cho hai nhóm] tín hành và pháp hành, thành 48 người, cộng thêm người đầu tiên và người cuối cùng là thành 50 người. Thông giáo, Biệt giáo cũng có bốn cửa vào nên cũng đều tính như vậy.

[Theo cách thứ hai,] dựa vào số đếm trong Viên giáo thì có số 7 nhỏ và số 7 lớn; số 7 lớn có 7 số 7 nhỏ, thành tổng số 49,[12] trong đó cả người dạy và người học đều có đủ hai phẩm đức tự thực hành và giáo hóa người khác. Riêng đến người sau cùng [thứ 50] chỉ là tự thân nhận hiểu, không có phẩm đức giáo hóa người khác. Cho nên [kinh văn] suy lường công đức người sau cùng này để hiển bày [công đức của những người] trước đó.

KINH VĂN

“Này A-dật-đa! Nay ta sẽ nói về công đức tùy hỷ của người thiện nam hoặc thiện nữ thứ năm mươi được nghe lại đó, ông nên lắng nghe thật kỹ.

“Nếu như trong bốn trăm muôn ức a-tăng-kỳ thế giới có sáu đường[13] chúng sinh, thuộc bốn cách sinh ra như noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh,[14] là những chúng sinh có hình sắc hay không có hình sắc, có tư tưởng hay không có tư tưởng, hoặc không phải có tư tưởng cũng không phải không có tư tưởng, hoặc những loài không chân, hoặc có hai chân, hoặc bốn chân, hoặc nhiều chân; trong số những chúng sinh như vậy, giả sử như có người vì cầu phước đức nên tùy theo chỗ mong muốn, những thứ tiện nghi đều chu cấp đầy đủ, mỗi một chúng sanh đều được tặng cho vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, các loại trân bảo quý báu cùng voi, ngựa, xe cộ, cung điện, lầu gác bằng bảy món báu, [nhiều đến mức] tràn ngập trong cõi Diêm-phù-đề.

“Người thí chủ lớn ấy, sau khi bố thí như vậy qua tám mươi năm rồi nghĩ rằng: ‘Ta đã bố thí cho những chúng sanh này đầy đủ mọi thứ tiện nghi, tùy theo sự mong muốn của họ, nhưng nay họ đều già yếu, tuổi quá tám mươi, da nhăn tóc bạc, không bao lâu sẽ chết, ta nên đem pháp Phật giảng dạy cho họ.’ Liền tập hợp những chúng sanh ấy lại, đem chánh pháp rộng truyền giáo hóa, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu,[15] giúp cho họ cùng lúc đều chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, được tự tại trong thiền định thâm sâu, đầy đủ tám pháp giải thoát.[16]

“Ý ông nghĩ sao, công đức người thí chủ lớn ấy đạt được có nhiều chăng?”

Bồ Tát Di-lặc thưa: “Bạch Thế Tôn! Người ấy được công đức rất nhiều, thật vô lượng vô biên. Nếu người thí chủ đó chỉ bố thí cho chúng sanh hết thảy mọi thứ tiện nghi thì công đức cũng đã là vô lượng, huống chi còn giúp cho họ chứng quả A-la-hán.”

Đức Phật bảo Bồ Tát Di-lặc: “Nay ta nói thật rõ ràng với ông, người ấy đem hết thảy mọi thứ tiện nghi bố thí cho chúng sanh sáu đường trong bốn trăm muôn ức a-tăng-kỳ thế giới, lại giúp họ đạt được quả A-la-hán như vậy, nhưng đạt được công đức không bằng người thứ năm mươi được nghe một bài kệ trong kinh Pháp hoa sinh tâm tùy hỷ, thậm chí không bằng một phần trăm, một phần ngàn hay một phần trăm ngàn muôn ức, cho đến tính toán, thí dụ cũng không thể biết được.

“Này A-dật-đa! Như công đức của người thứ năm mươi được nghe kinh Pháp hoa thông qua người khác rồi sinh tâm tùy hỷ mà còn được a-tăng-kỳ vô lượng vô biên, huống chi là người đầu tiên ở trong Pháp hội được nghe rồi sanh tâm tùy hỷ? Phước đức của người này còn nhiều hơn a-tăng-kỳ vô lượng vô biên, không thể so sánh được.

“Lại nữa, A-dật-đa! Nếu người vì kinh này mà tìm đến tăng phòng, hoặc ngồi hoặc đứng trong thoáng chốc để nghe rồi thọ nhận, nhờ công đức ấy nên khi tái sinh vào đời khác sẽ có được những thứ voi, ngựa, xe cộ tốt nhất, đi kiệu bằng trân bảo, đi xe thiên cung.[17]

“Nếu như có người đang ngồi ở nơi giảng pháp lại có người khác đến, liền khuyến khích ngồi lại nghe, hoặc chia sẻ chỗ ngồi nghe, nhờ công đức ấy khi tái sinh đời khác liền được chỗ ngồi của Đế thích hoặc Phạm vương, hoặc được chỗ ngồi của Chuyển luân Thánh vương.”

Trong phần suy lường phân biệt công đức, trước tiên nêu việc ban cho niềm vui thế gian để dứt trừ nỗi khổ vì quả báo, sau đó ban cho niềm vui Niết-bàn để dứt trừ nỗi khổ sinh tử. Phần này chính là lược nêu phước đức cõi Phạm thiên, nay sẽ giảng rộng.

Phước của người trong khắp cõi Diêm-phù-đề cũng không bằng phước của một người ở cõi Tây Cù-da-ni; phước của người trong khắp cõi Tây Cù-da-ni cũng không bằng phước của một người ở cõi Đông Phất-bà-đề; phước của người trong khắp ba cõi thiên hạ này cũng không bằng phước của một người ở cõi Bắc Uất-đan-việt; phước của người trong khắp bốn cõi thiên hạ cũng không bằng phước của một trong bốn vị Tứ thiên vương; phước của [bốn vị] Tứ thiên vương cũng không bằng phước của một vị Đế-thích, thậm chí lên đến cõi trời Tha hóa tự tại[18] cũng không bằng phước của một vị Phạm thiên.[19] Phước của Phạm thiên có định phúc và tán phúc.[20] Tán phúc là [nhờ làm những việc như] nơi không có tháp [thờ Phật] thì xây dựng tháp, tháp hư hoại thì tu sửa, giúp tăng chúng hòa hợp và thỉnh chuyển pháp luân, tăng chúng tan rã thì khiến cho hòa hợp. Đó là bốn việc tạo phước, sánh bằng [phước của] Phạm thiên, cho nên gọi là phước Phạm thiên.

Về phước bậc thánh, tức là nói vị A-la-hán trụ nơi thân sau cùng đạt được Niết-bàn hữu dư.

Lại có những người trong Ba thừa đã thể pháp,[21] cùng học pháp vô sinh, đoạn trừ hết phiền não, như đốt gỗ cháy thành than.

Lại có phước bậc thánh của hàng Bồ Tát[22] tự mình tu hành, giáo hóa chúng sanh, đều dùng những cách siêu việt ngôn ngữ để chỉ bày đạo, đoạn trừ phiền não, nhập Niết-bàn vô dư.

Lại có phước bậc thánh của hàng Bồ Tát từ khi mới phát tâm tuần tự giáo hóa chúng sanh cho đến nhập Đại Niết-bàn.

Dựa theo như trên để suy lường phân biệt thì phước Phạm thiên không bằng bậc thánh; phước bậc thánh không bằng bậc thánh thể pháp; phước bậc thánh thể pháp không bằng Tiểu Bồ Tát, phước của tiểu Bồ Tát không bằng Đại Bồ Tát; phước của Đại Bồ Tát không bằng phước của người ban sơ được nghe kinh Pháp hoa sinh tâm tùy hỷ.

Vì sao vậy? Vì [phước của những] vị kia không phải pháp Phật,[23] do vậy nên không chân thật, do vậy nên không viên mãn. Tuy [các vị ấy] trụ ở quả tột cùng cũng không bằng người sơ tâm với pháp Phật.

Ý nghĩa như vậy, theo tôi cho rằng đó là khuyên người nghe pháp.

KINH VĂN

“Này A-dật-đa! Nếu như có người nói với người khác: ‘Có kinh tên là Pháp hoa, chúng ta cùng đến nghe.’ Người kia nghe lời, thậm chí chỉ đến nghe trong thoáng chốc, người khuyến khích kia nhờ công đức ấy về sau được sinh ra cùng nơi với Bồ Tát đắc pháp đà-la-ni, được căn tánh nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt, trăm ngàn muôn đời không bị câm ngọng, không bị hôi miệng, lưỡi thường không bệnh, miệng cũng không bệnh; răng mọc thẳng, trắng đều không thưa, không ố vàng, không dính cáu bẩn cũng không rụng hoặc khuyết mích; môi không trề xệ, không co rút, không thô ráp, không mụn nhọt lở loét, không khuyết sứt, không méo lệch, không quá dày, quá lớn, cũng không đen sạm, không có những hình dạng xấu; mũi không thấp tẹt, không gãy khúc; sắc mặt không đen, khuôn mặt không hẹp dài, không hóm gãy, không có bất kỳ tướng trạng khó coi nào; môi, lưỡi, răng đều tốt đẹp, mũi cao, thẳng; khuôn mặt tròn đầy; chân mày cao, dài; trán rộng, ngay phẳng; hình tướng nhân dạng đầy đủ,[24] đời đời sinh ra được thấy Phật nghe pháp, tin nhận sự giáo hóa răn dạy.

“A-dật-đa! Ông hãy xem đó, chỉ khuyến khích một người đến nghe pháp mà được công đức như vậy, huống chi người một lòng lắng nghe thuyết giảng, tụng đọc, ở trong đại chúng vì người khác phân biệt giảng giải và tu tập y theo lời dạy trong kinh?”

Từ câu “về sau được sinh ra cùng nơi với Bồ Tát đắc pháp đà-la-ni” cho đến câu “hình tướng nhân dạng đầy đủ”, kể chung có 50 công đức. Lấy số công đức xem như số người cũng thành 50 người. Chỉ có điều kinh văn phần trước nêu số 50 là bàn về sự nhận hiểu bên trong, sinh tâm tùy hỷ; ở đây chỉ bàn về việc bên ngoài nên có sự khác nhau.

Lại nữa, kinh văn phần này cũng nói đến công đức của sáu căn. “Căn tánh nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt” là công đức của ý căn; “không bị câm ngọng” là công đức của lưỡi; “mũi không thấp tẹt, không gãy khúc” là công đức của mũi, “được thấy Phật” là công đức của mắt; “nghe pháp” là công đức của tai; những điều còn lại là công đức của thân.

Phần trước là công đức của giai vị Tương tự, phần này là công đức trước giai vị Tương tự.

Phần nói về việc nghe kinh, kinh văn có 4 ý. Thứ nhất nói về người tự đến nghe. Thứ hai nói về người chia sẻ chỗ ngồi [cho người khác nghe kinh]. Thứ ba nói về người khuyến khích người khác đến nghe kinh. Thứ tư nói về người có đủ việc nghe và tu hành theo kinh văn. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Nếu người trong Pháp hội,
Được nghe kinh điển này,
Dù chỉ một bài kệ,
Tùy hỷ, vì người nói.

Rồi nói lại người khác,
Đến người thứ năm mươi,
Phước đức người cuối này,
Ta sẽ phân biệt nói.

Như có thí chủ lớn,
Giúp vô số chúng sanh,
Đến năm tám mươi tuổi,
Thỏa mãn mọi ý muốn.

Khi thấy họ già yếu,
Tóc bạc, mặt nhăn nheo,
Răng rụng, thân khô gầy,
Nghĩ rằng họ sắp chết,
Nay ta nên giáo hóa,
Giúp họ chứng đạo quả.

Liền phương tiện thuyết dạy,
Pháp chân thật Niết-bàn.
‘Thế gian không bền chắc,
Như bọt nước, bóng nắng,
Các người thảy đều nên,
Gấp sinh tâm chán lìa.’

Những người kia nghe pháp,
Đều chứng A-la-hán,
Đầy đủ sáu thần thông,
Ba minh, tám giải thoát.

Người cuối thứ năm mươi,
Nghe kệ rồi tùy hỷ,
Phước hơn người bố thí,
Thật không thể thí dụ.

Người nghe qua nhiều người,
Còn được phước vô lượng,
Huống chi trong Pháp hội,
Ban đầu nghe, tùy hỷ.

Phần kệ tụng có 18 khổ kệ, chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất 9 khổ kệ tụng nghĩa tùy hỷ. Đoạn thứ hai từ câu “Nếu khuyến khích một người” trở đi, gồm 9 khổ kệ, tụng về việc nghe kinh tùy hỷ.

Trong đoạn thứ nhất chia làm 3 tiểu đoạn. v Đầu tiên là một khổ rưỡi kệ, tụng về 50 người [tuần tự được nghe kinh]. v Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Phước đức người cuối này” trở đi gồm 5 khổ rưỡi kệ, tụng nghĩa suy lường công đức căn bản. v Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Người cuối thứ năm mươi” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng nghĩa suy lường công đức, lược bớt không tụng nghĩa phước đức rất nhiều.

KINH VĂN

Nếu khuyến khích một người,
Mời đến nghe Pháp hoa,
Rằng: ‘Kinh này sâu mầu,
Ngàn muôn kiếp khó gặp.’

Người kia liền đến nghe,
Dù chỉ trong thoáng chốc,
Người khuyên được phước báo,
Nay sẽ phân biệt nói.

Đời đời miệng không bệnh,
Răng không thưa, đen, vàng;
Môi không dày, trề, sứt,
Không có hình dạng xấu;
Lưỡi không khô, đen, ngắn;
Mũi cao, dài và thẳng;
Trán rộng, phẳng, ngay ngắn,
Diện mạo rất đoan nghiêm,
Khiến người khác ưa nhìn.
Miệng không có mùi hôi;
Hương thơm hoa sen xanh,
Thường tỏa ra từ miệng.

Nếu đi đến tăng phòng,
Vì muốn nghe Pháp hoa,
Nghe thoáng chốc, hoan hỷ,
Ta sẽ nói phước ấy.

Tái sinh cõi trời, người,
Được voi, ngựa, xe đẹp,
Đi kiệu bằng trân bảo,
Hoặc đi xe thiên cung.

Nếu ở nơi giảng pháp,
Khuyên người ngồi nghe kinh,
Nhờ phước ấy sẽ được,
Tòa Thích, Phạm, Chuyển luân.

Huống chi một lòng nghe,
Giảng giải rõ ý nghĩa,
Lại tu hành y theo,
Phước ấy không thể lường.

Đoạn thứ hai có 9 khổ kệ tụng về việc nghe kinh, chia làm 4 tiểu đoạn, có đôi chút xáo trộn thứ tự.

Tiểu đoạn thứ nhất có 5 khổ kệ, tụng trước[25] về nghĩa khuyên người nghe kinh.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Nếu đi đến tăng phòng” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng ngược[26] về ý nghĩa tự đi đến nghe kinh.

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Nếu ở nơi giảng pháp” trở đi gồm một khổ kệ, tụng về việc chia sẻ chỗ ngồi [nghe kinh].

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Huống chi một lòng nghe” trở đi gồm một khổ kệ, tụng về nghĩa tu hành theo kinh văn. Đại lược là như vậy.

________________________________


CHÚ THÍCH

[1] Bảy hạng phương tiện: bao quát tất cả các giai vị tu tập chưa đạt được giải thoát rốt ráo, gồm: 1. Thanh văn của Tạng giáo, 2. Duyên giác của Tạng giáo, 3. Thanh văn của Thông giáo, 4. Duyên giác của Thông giáo, 5. Bồ Tát của Thông giáo, 6. Bồ Tát của Biệt giáo, 7. Bồ Tát của Viên giáo.

[2] Ở đây nhắc lại hạng thứ nhất trong năm hạng người ở cuối phẩm trước, tức là hạng chỉ vừa khởi tâm tùy hỷ.

[3] Nguyên tác là “hậu tâm” (後心), tức chỉ Kim cang hậu tâm, là tâm cuối cùng của vị Bồ Tát trước khi thành Phật.

[4] Chân nhân vị (真因位): chỉ 41 giai vị bao gồm Thập trụ, Thập hành, Thập hồi hướng, Thập địa và Đẳng giác, vì tương đối so với Chân quả (真果) là quả vị Diệu giác nên gọi là Chân nhân (真因).

[5] Nguyên tác là “bất phục kiến ái” (不伏見愛), chỉ việc không thể điều phục kiến phiền não và ái phiền não. Kiến phiền não chỉ các phiền não do mê muội không hiểu rõ lý tánh, như ngã kiến, tà kiến… Ái phiền não chỉ các phiền não do mê muội không hiểu đúng sự tướng, dẫn đến tham chấp, như tham dục, sân hận…

[6] Noãn pháp (煖法): địa vị đầu tiên trong bốn thiện căn, tương đương với ngôi vị thứ nhất trong Tứ gia hành là Noãn gia hành, có khả năng trừ diệt các kiến giải mê lầm, giống như lửa bốc cháy bắt đầu có hơi nóng, địa vị này bắt đầu có hơi nóng của Thánh trí nên gọi là noãn pháp.

[7] Nguyên tác dùng “tử quả” (子果), chỉ chủng tử làm khởi sinh quả báo trong tương lai. Bậc vô học đã dứt phiền não trong hiện tại, không còn chịu quả báo trong tương lai nên gọi là “vô quả tử” (無果子).

[8] Nguyên tác nói “phát tâm bất thức ngũ bá do-tuần” (發心不識五百由旬), lấy theo ý kinh Pháp hoa này nói ví dụ vượt qua 500 do-tuần mới đến nơi có châu báu, tức là quả Phật. Do vậy, phát tâm không biết đến 500 do-tuần có nghĩa là không biết đến quả Phật rốt ráo.

[9] Trong ngũ trụ địa hoặc (五住地惑) có Vô minh trụ địa hoặc (無明住地惑). Chỉ trừ được bốn trụ địa hoặc là gồm Nhất thiết kiến trụ địa hoặc (一切見住地惑), Dục ái trụ địa hoặc (欲愛住地惑), Sắc ái trụ địa hoặc (色愛住地惑), Hữu ái trụ địa hoặc (有愛住地惑), tức là chưa trừ được Vô minh trụ địa hoặc.

[10] Ở đây lập luận rằng người được nghe lại, được chỉ dạy lại thứ 50 là người kém nhất, vì theo khuynh hướng dần xuống thấp. Phật nói công đức của người kém nhất này để từ đó có thể hình dung biết được công đức những người khác còn hơn thế nữa.

[11] Nguyên tác dùng “tứ môn” (四門), bốn cửa vào, tức là bốn phương tiện nhập đạo khác nhau, chỉ không môn, hữu môn, diệc hữu diệc không môn và phi hữu phi không môn. Vì người vào đạo căn cơ khác nhau nên mỗi người thích hợp với một cửa vào khác nhau.

[12] Văn cú ký giải thích rằng đây là dựa theo cách tính số từ thời Hoàng Đế lập ra (此方數法黃帝所立). Tuy nhiên, cách tính ấy là thập phân, còn ở đây khác biệt là lấy số 7 làm căn bản.

[13] Nguyên tác dùng “六趣 - lục thú”, chỉ 6 cảnh giới của chúng sinh, bao gồm cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

[14] Tức là chỉ chung tất cả những cách sinh ra của chúng sinh, trong đó thai sinh là sinh từ bào thai, noãn sinh là sinh từ trứng, thấp sinh là sinh từ nơi ẩm ướt và hóa sinh là sinh từ sự biến hóa.

[15] Nguyên tác là “示教利喜 - thị giáo lợi hỷ”, chỉ 4 giai đoạn tuần tự giáo hóa như đã giải thích ở trước.

[16] Tám pháp giải thoát bao gồm: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Ở trong sắc giới, quán nội sắc và ngoại sắc, nhằm trừ bỏ tâm ham thích sắc thể; 2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Không quán nội sắc, quán ngoại sắc, nhận ngoại sắc là ô nhiễm; 3. Tịnh thân tác chứng cụ túc tác giải thoát: Quán tưởng về thanh tịnh nhưng không chấp giữ; 4. Không vô biên xứ giải thoát: Vượt qua sắc thể, quán tưởng rằng hư không là vô biên; 5. Thức vô biên xứ giải thoát: Đạt đến ý niệm thức là vô biên; 6. Vô sở hữu xứ giải thoát: Đạt địa vị trong tâm không còn có vật gì; 7. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát: Đạt đến mức định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; 8. Diệt tận định giải thoát: Đạt mức định Diệt thọ tưởng xứ.

[17] Nguyên tác là “乘天宮 - thừa thiên cung”, bởi vì cung điện của chư thiên do phước báu nên có thể di chuyển khắp nơi, đưa các vị đi giống như một cỗ xe. Trong Phạn ngữ dùng chữ vimāna mang cả hai nghĩa là “cung điện” hoặc “thiên xa” (cỗ xe trời), do vậy nên Hán ngữ nói là “thừa thiên cung”.

[18] Nguyên tác là “đệ lục thiên” (第六天), tức là chỉ cõi trời Tha hóa tự tại, là cõi trời cao nhất thuộc Dục giới.

[19] Nguyên tác dùng “nhất Phạm” (一梵), chỉ một vị thiên chúng ở cõi Phạm thiên, tức là cõi Sơ thiền thuộc Sắc giới, đã vượt trên Dục giới.

[20] Tức là định phúc (定福), phước đức nhờ tu thiền định và tán phúc (散福), phước đức nhờ làm những việc lợi ích thế gian.

[21] Thể pháp (體法), theo giáo lý tông Thiên Thai tức là thấu triệt được “đương thể tức không”, tức thời nhận biết tánh thể của tất cả các pháp vốn đều là không. Người tu tập trong ba thừa không nhất định phải trải qua các bước suy xét, phân tích, chia chẻ… mà vẫn có thể đạt đến sự trực tiếp nhận biết thấu suốt như vậy, gọi là thể pháp.

[22] Văn Cú dùng “薩埵” (tát-đóa) để thay cho Bồ-đề-tát-đóa (菩薩薩埵), tức là Bồ Tát.

[23] Pháp Phật ở đây được dùng với nghĩa là pháp rốt ráo đưa đến thành tựu quả Phật, những pháp khác đều có giới hạn quả vị, không rốt ráo thành Phật.

[24] Nguyên tác là “人相具足 - nhân tướng cụ túc” (tướng người đầy đủ), tức là chỉ việc sinh ra làm người với đầy đủ mọi giác quan bình thường, không có gì khiếm khuyết, bất thường.

[25] Ở đây so sánh với trong kinh văn trường hàng thì ý nghĩa này được trình bày sau.

[26] Nói “tụng ngược” (truy tụng) vì trong kinh văn trường hàng thì ý nghĩa này được trình bày trước.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 20 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Chuyện Vãng Sanh - Tập 3


Nghệ thuật chết


An Sĩ toàn thư - Khuyên người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ


Hương lúa chùa quê - Phần 1: Hồi ký của Hòa thượng Thích Bảo Lạc

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...