Trên căn bản thanh tịnh hóa, không có khác biệt gì giữa hai giai đoạn tu
tập Tự Khởi và Hoàn Tất [trong Mật tông Trì chú Tối Thượng Du Già].
Trong giai đoạn Tự Khởi, hành giả lấy sự chết, trung ấm và tái sinh căn
bản làm căn cứ tu tập thanh tịnh hóa. Về tác nhân thanh tịnh hóa, hành
giả chuyên tâm tu ba pháp môn ‘nhập vào con đường đạo’, và các chi nhánh
của ba pháp môn tu tập này.
Điều đó nghĩa là, tương ưng với các khía cạnh của các giai đoạn chết,
trung ấm và tái sinh, hành giả nương sự chết để nhập vào đạo bằng Pháp
thân, nương thân trung ấm để vào đạo bằng Báo thân, nương tái sinh để
vào đạo bằng Hóa thân.
Trong tiến trình tu tập du già quán Phật, hành giả bắt đầu thiền quán
tánh Không theo quán tưởng mô hình tám dấu hiệu sự chết, nhờ đó, nương
sự chết để vào đạo bằng Pháp thân Phật. Từ sự thực chứng tánh Không bất
nhị, hành giả du già khởi hiện thành hình dạng của một chủng tự (từ
chủng tự đó xuất hiện toàn thân dạng của vị Phật quán tưởng) hoặc hành
giả hóa thành một biểu tượng của tay v.v... – trí tuệ tâm thức tự nó làm
căn cứ của sự biến hóa này. Đó là cách làm thế nào để chuyển thân trung
ấm vào con đường đạo bằng Báo thân. Sau đó trí tuệ tâm thức khởi hiện
thành thân dạng của vị Hộ Phật quán tưởng là nương tái sinh để vào đạo
bằng Hóa thân. Sử dụng tu tập Tánh Không và Du già quán Hộ Phật làm mô
hình trên tiến trình của sự chết, trung ấm và tái sinh chỉ có trong pháp
môn Trì chú Tối thượng Du Già, không có trong truyền thống hành trì của
ba pháp môn Mật tông thấp hơn là: Hành động, Tư duy và Du già.
Nhờ thế, bằng cách gián tiếp, ba trạng thái – chết bình thường, trung ấm
và tái sinh – được rửa sạch, thanh tịnh hóa, và hành giả thực chứng Tam
thân Phật và hòa hợp với bản thể của ba thân. Giai đoạn Hoàn Tất là giai
đoạn thanh lọc thực sự của ba trạng thái chết, trung ấm và tái sinh căn
bản, nhờ tu tập con đường đạo hòa hợp bản thể của ba thân.
Giai đoạn hoàn tất chia làm 6 phần hành trì:
1. Cô lập thân
2. Cô lập khẩu
3. Cô lập ý
4. Huyễn thân
5. Tịnh quang
6. Hợp nhất
Sự cô lập ra khỏi thân là một pháp môn Du Già, trong đó các uẩn, phần tử
và căn cứ v.v... đều bị cô lập ra khỏi thân và các tâm hành phàm phu
bằng cách nhập định miên mật, đóng một dấu ấn, niêm kín với trạng thái
hỷ lạc và Tánh Không, như thế qua sự cô lập, thành tựu hai trạng thái
trên trong giai đoạn Hoàn Tất và hòa hợp hóa thành vị Hộ Phật đã chọn.
[67]
Cô lập khẩu là pháp môn du già hành giả cô lập khí cực vi căn gốc của
lời nói ra khỏi sự chuyển động bình thường của khí, do đó khí và câu chú
được trì hợp nhất không còn phân biệt được.
[68]
Cô lập ý là pháp môn du già hành giả cô lập ý thức, là gốc rễ của luân
hồi sinh tử và của Niết Bàn, ra khỏi mọi khái niệm tâm hành cũng như ra
khỏi các khí làm căn cứ của ý; chuyển hóa tâm ý thức này thành một thực
thể của trạng thái hỷ lạc và tánh Không vô phân biệt.
[69]
Qua ba pháp môn du già này, bốn trạng thái Không được phát sinh trong
tâm thức, dù là chỉ vào lúc cuối cùng của phần cô lập ý – phần thứ ba –
bốn trạng thái Không mới xuất hiện hoàn toàn.
Các phần [yếu tố trong giai đoạn Hoàn Tất] có dạng thức tương ưng với
bản thể của ánh tịnh quang của sự chết là màn trắng xuất hiện, đỏ tăng
dần, đen cận mãn và tịnh quang [hiện ra khi] một bậc hữu học hành trì
các phần cô lập thân, cô lập khẩu, cô lập ý, huyễn thân và hợp nhất.
Trạng thái hợp nhất ánh tịnh quang và huyễn thân của một bậc vô học
chính là Phật quả giác ngộ; giai đoạn hành trì trước đó là của các bậc
Bồ Đề Tát Đỏa hữu học.
Các phần [yếu tố trong giai đoạn Hoàn Tất] có dạng thức tương ưng với
bản thể của thân trung ấm là huyễn thân ô trược của phần hành trì 3
[đúng ra là phần 4, vì ở đây, phần hành trì 1 và 2 được kết hợp chung,
tóm gọn 6 phần hành trì trên còn thành 5] và huyễn thân thanh tịnh của
phần hành trì hợp nhất của một bậc hữu học. Các phần [yếu tố trong giai
đoạn Hoàn Tất] có dạng thức tương ưng với bản thể của tái sinh sự nương
trụ trong huyễn thân ô trược và huyễn thân thanh tịnh của thân ngũ uẩn
cũ [là thân phàm] và trở thành đối tượng mà mắt phàm có thể thấy được.
Về vấn đề làm sao con đường tu tập giai đoạn Hoàn Tất rửa sạch, thanh
tịnh trực tiếp sinh, tử và thân trung ấm: đó là do ý thức cực vi tế –
vốn là một phần của thực thể bất phân ly của khí cực vi và ý thức cực vi
–, duy trì [thông thường] một thần thức liên tục cùng thể loại từ trạng
thái này sang trạng thái khác, [để sau cùng] trở thành ánh tịnh quang
của sự chết bình thường. Hành giả du già, qua thực tập giai đoạn Hoàn
Tất, chấm dứt [tiến trình] này qua năng lực thiền định an trụ và chuyển
hóa nó thành trạng thái tịnh quang tương tợ [của phần cô lập ý] và thành
trạng thái tịnh quang thực chứng. Đạt đến kết quả này là nhờ hành trì
con đường đạo có dạng thức tương ưng với sự chết. Hành giả du già cũng
chuyển hóa sự chết thành ‘ánh tịnh quang kết quả’ – là nhập vào Pháp
thân Phật. Đó là cách rửa sạch, thanh tịnh hóa sự chết.
Còn về phương thức thanh tịnh thân trung ấm, khí cực vi tế của thực thể
bất phân ly đã nói trên [phàm phu] duy trì một thần thức liên tục cùng
thể loại từ trạng thái này sang trạng thái khác, và tác động làm căn cứ
của ánh tịnh quang sự chết bình thường, khí này phát sinh làm một thân
trung ấm. Hành giả du già, qua thực tập giai đoạn Hoàn Tất, chấm dứt
[tiến trình] này qua năng lực thiền định an trụ và chuyển hóa nó thành
trạng thái huyễn thân ô trược và huyễn thân thanh tịnh của bậc hữu học
và của bậc vô học, dạng thức tương ưng với thân trung ấm. Đó là cách rửa
sạch, thanh tịnh hóa thân trung ấm.
Về phương thức thanh tịnh tái sinh, sau khi đạt được huyễn thân này,
trạng thái trung ấm chấm dứt vĩnh viễn, và, qua năng lực của nó, sự tái
sinh trong dạ con vì các hành nghiệp ô trược và vì các phiền não cũng
chấm dứt. Thay vì đó, một huyễn thân nhập vào các uẩn cũ tương tợ như
khi thân trung ấm tái sinh trong dạ con của người mẹ, rồi từ đó, huyễn
thân nỗ lực hoằng pháp [cho các chúng sinh khác] và chứng đạt quả vị cao
hơn. Đó là cách rửa sạch, thanh tịnh hóa tái sinh.
Như vậy, căn nguyên của thực hiện chấm dứt sinh, tử và trung ấm chỉ là
ánh tịnh quang tương tợ [khi nó xuất hiện] khi phần hành trì cô lập ý đã
thành tựu. Ánh tịnh quang tương tợ được sử dụng để trực tiếp tạo ra
huyễn thân và, qua năng lực của nó, thực sự sự chết, trung ấm cũng như
tái sinh chấm dứt một cách tự nhiên. Khi đạt được huyễn thân từ ánh tịnh
quang tương tợ như thế, trạng thái trung ấm chấm dứt vĩnh viễn vì khí
cực vi lẽ ra phải chuyển khởi thành thân của trạng thái trung ấm, bây
giờ đã trở thành huyễn thân.
Một khi thân trung ấm hoàn toàn chấm dứt, sẽ không còn thọ nhận tái sinh
qua năng lực của hành nghiệp ô trược và của phiền não. Như thế, bất kỳ
ai đạt đến huyễn thân đương nhiên trở nên giác ngộ hoàn toàn ngay trong
cùng một kiếp sống.
Vì ngại rằng các thư mục dẫn chứng, nếu kể hết ra sẽ làm cuốn sách quá
dài, tôi không kể ra ở đây. Các tài liệu thư mục này có thể tìm thấy
trong các quyển luận của Tổ Tông Khách Ba lỗi lạc, bậc cha lành, và của
các đệ tử ngài [là các đại sư Gyel-tsap và Kay-drup] cũng như của các
học giả Phật giáo lỗi lạc và các cao tăng đi cùng.
Dù vậy, cũng nên biết là tôi đã viết quyển này phù hợp theo các lời
giảng:
Của đấng Chiến thắng đệ nhị – bậc cha lành – các đệ tử của ngài, và các
học giả đi cùng,
Đệ tử xin sám hối với tất cả các lạt ma, chư thiên, và các học giả vì
bất cứ điều gì sai lầm do bởi không hiểu thấu giáo lý của đấng tối
thượng.
Qua công đức có được này, xin nguyện cho tất cả mọi chúng sinh vô
thường, đệ tử và mọi người khác – mau chóng đạt đến con đường đạo chuyển
hóa tái sinh ô trược, chết và trung ấm thành Tam Thân qua pháp môn du
già hai giai đoạn của đạo thâm sâu mầu nhiệm.
Đó là ghi lại những lời giảng của đấng tối thượng bởi tỳ kheo giải đãi
Yang-jen-ga-way-lo-drư và chép xuống thành cuốn sổ tay ghi nhớ cho chính
mình.
CHÚ THÍCH
[1] Xem quyển Mật tông Tây Tạng của Tổ
Tông Khách Ba (Tsong-ka-pa’s Tantra in Tibet), Đức Đạt Lai lạt Ma viết
lời nói đầu, Jeffrey Hopkins dịch sang Anh ngữ (London: Allen and Unwin,
1978), các trang 151– 64.
[2] Xem tác giả Na-wang-bel-den: Illumination of
the Texts of Tantra, Presentation of the Grounds and Paths of the Four
Great Secret Tantra Sets (gSang chen rgyud sde bzhi’i sa lam gyi rnam
bzhag rgyud gzhung gsal byed) (rGyud sniad par khang, không có tài liệu
nào khác), 12a.4ff.
[3] Xem tác giả Dr Yeshi Donden: The Ambrosia
Heart Tantra, bản dịch của Ven. Jhampa Kelsang (Dharmsala: Library of
Tibetan Works and Archives, 1977), trang 33–35.
[4] Đây là định nghĩa tiêu chuẩn, không thuộc
riêng về y học.
[5] Diễn giải theo các lời giảng của Dr Yeshi
Donden tại trường đại học Virginia, năm 1974.
[6] Xem tác giả Na-wang-bel-den: Illumination of
the Texts of Tantra, 24a. 5.
[7] Xem quyển Mật tông Tây Tạng của Tổ Tông
Khách Ba (Tsong-ka-pa’s Tantra in Tibet), sách đã dẫn, trang 60-6.
[8] Có ba văn bản tham khảo: văn bản thứ nhất có
27 chương (Delhi Dalama, Iron Dog year), văn bản thứ hai có phần thiếu
sót, cũng có 27 chương (Nang bstan shes rig ‘dzin skyong slob gnyer
khang, không có tài liệu nào khác), và văn bản thứ ba có 17 chương được
tìm thấy trong The Collected Works of A-kya Yongs-dzin, Vol. 1 (New
Delhi: Lama Guru Deva, 1971).
[9] Xem các lời giảng trong quyển Mật tông Tây
Tạng của Tổ Tông Khách Ba (Tantra in Tibet), trang 24.
[10] Để hiểu thêm các Giảng giải về Ba Thân,
xem tác giả Hopkins: Meditation on Emptiness (New York: Potala, 1980),
Phần 1, chương 11.
[11] Để hiểu thêm các giảng giải về Tứ đại, xem
quyển Meditation on Emptiness, Phần 3, chương 1, (sách đã dẫn) cũng như
các lời trích dẫn từ quyển Meeting of Father and Son Sutra
(Pitiputrasamigaina), trong Phần 6, đoạn VI.A.I.a.
[12] Xem quyển Mật tông Tây Tạng của Tổ Tông
Khách Ba (Tantra in Tibet), 142-43.
[13] Xem tác giả Na-watig-bel-den: Illumination
of the Texts of Tantra, 7a.3ff.
[14] Câu này và hai câu kế tiếp được trích dẫn
từ tác giả Lo-sang-gyel-tsen-seng-gay (bLo-bzang-rgyal-mtshan-seng-ge,
sinh năm 1757/8) : quyển Presentation of the Stage of Completion of the
Lone Hero, the Glorious Vajrabhairava, Cloud of Offerings Pleasing
Manjushri (dPal rdo rje ‘jigs byed dpa’ bo gcig pa’i rdzogs rini gyi
rnam bzhag ‘jam dpal dgyes pa’i mchod sprin) (Delhi: 1972), 2b.6-3a.2.
[15] Câu này và câu kế tiếp được trích dẫn từ
tác giả Na-wang-kay-drup (Ngagdbatig-mkhasgrub, 1779-1838): Presentation
of Birth, Death and Intermediate State (sKye shi bar do’i rnam bzhag),
Collected Works, Vol. i (Leh: S. W. Tashigangpa, 1972), 469.4.
[16] Xem tác giả Lo-sang-gyel-tsen-seng-gay’s
trong quyển Presenfation of the Stage of Completion, 3b.3.
[17] Đoạn này được trích dẫn từ tác giả
Lo-sang-gyel-tsen-seng-gays trong quyển Presentation of the Stage of
Completion, 3 a. 5ff.
[18] Sách đã dẫn trên, 3a.2.
[19] Để hiểu thêm các luận giải về các hiện
tượng trên, xem quyển Meditation on Emptiness, Phần 3, Chương I. (Sách
đã dẫn)
[20]
Để hiểu thêm các luận giải về các hiện tượng trên, xem quyển
Meditation on Emptiness, Phần 3, Chương I. (Sách đã dẫn)
[21] Xem tác giả Na-wang-kay-drup và quyển
Presentation of Birth, Death and Intermediate State, 46I.3.
[22] Sách đã dẫn trên, 46I.4.
[23] Xem tác giả Lo-sang-hlun-drup và quyển
Instructions on the Stages of Generation and Completion of Bhairava,
III.1.
[24] Sách đã dẫn trên, III.5.
[25] Sách đã dẫn trên, III.2
[26] Sách đã dẫn trên, III.2.
[27] Sách đã dẫn, Mật tông Tây Tạng của Tổ Tông
Khách Ba, tr. 86-8.
[28] Đoạn này nói về 80 tâm sở, được trích dẫn
từ tác giả Lo-sang-gyel tsen-seng-gay trong quyển Presentation of the
Stages of Completion, 7b.5-10b.3, và Tổ Tông Khách Ba trong quyển Lamp
Thoroughly Illuminating (Nagarjuna’s) ‘The Five Stages’, 230b.4-235b.2.
[29] Câu này và câu kế tiếp được trích dẫn từ
tổ Tông Khách Ba trong quyển Lamp Thoroughly llluniinating (Nagarjuna’s)
‘The Fire Stages’, 225b.1.
[30] Sách đã dẫn trước, 225b.2.
[31] Sách đã dẫn trước, 225b.3.
[32] Các định nghĩa này trích từ kiểu mẫu của
Tổ Tông Khách Ba trong quyển Lamp Thoroughly Illuminating (Nagarjuna’s)
‘The Five Stages’, 226b.4-230b.4. Tổ Tông Khách Ba trích dẫn từ tác giả
Aryadeva (Thánh Thiên) trong quyển Lamp Compendium of Practice
(Charyamelakapradipa) (226b.4-2271).I).
[33] Xem tác giả Na-waiig-kay-drup và quyển
Presentation of Birth, Death and Intermediate State, 464.6.
[34] Xem tác giả Lo-sang-hlun-drup và quyển
Instructions on the Stages of Generation and Completion of Bhairava,
112.3.
[35] Sách đã dẫn trên, 112.4.
[36] Xem tác giả Na-wang-kay-drup và quyển
Presentation of Birth, Death and Intermediate State, 466.2.
[37] Luận Đại thừa và Tiểu thừa (A tỳ đàm vi
diệu pháp) luôn trích dẫn theo thứ tự các trước tác của Tổ Vô Trước
Asanga’s Compendium of Knowledge (Abhidharmasamuchchaya) và Tổ Thế Thân
Vasubandhu’s Treasury of Knowledge (Abhidharmakosha). Về luận của Tổ Vô
Trước: Asanga’s Five Treatises on the Levels, xem tác giả Hopkins và
quyển Meditation on Emptiness, trong phần Thư Mục Tham Khảo.
[38] Phần giảng về năm đặc tính này dựa theo
lời dạy của tổ Thế Thân Vasubandhu’s Treasury of Knowledge (III.I4),
trang 5590, quyển 115, 119.2.4, và các chú giải của tổ, trang 5591,
quyển 115, 171-5.4.
[39] Sách đã dẫn, Ill.I4 (trang 5590, quyển
115, 119.2.4 và trang 5591, quyển 115, 171.6.7).
[40] Sách đã dẫn, III.40C-4Ia (trang 5590,
quyển 115, 119-4.5 và trang 5591, quyển 115, 172.I.2 and 180. 5.8).
[41] Gọi như vậy là vì gần đi tái sinh (trang
559i, quyển 115, 181.1.2).
[42] Đại sư Den-ma Lo-chij Rinbochay cho rằng
ba cõi đó chính thuộc về cảnh trời dục giới. Dạ xoa chính thuộc về các
tùy tùng của Vaishravana.
[43] Sách đã dẫn, III.43d-44a (trang 5590,
quyển 115, 119.4.7 và trang 5591, quyển 115, 182.1.5). Tác giả diễn giải
các phần trên.
[44] Sách đã dẫn, III-14a (trang 5590, quyển
115, 119-2.4 và trang 5591, quyển 115, 171.5-1).
[45] Sách đã dẫn, trang 5591, quyển 115,
171.3-4.
[46] Sách đã dẫn, trang 5591, quyển 115,
171.3-4.
[47] Sách đã dẫn, III.I3b (trang 5590, quyển
115, 119.2-4).
[48] Để hiểu thêm các luận giải về vấn đề này,
xem Tổ Tông Khách Ba trong quyển Tsong-ka-pa’s Stages of Instruction
from the Approach of the Profound Path of Naropa’s Six Practices (Zab
lam nà ro’i chos drug gi sgo nas ‘khridpa’i rimpa) (Gangtok: 1972),
41b-Iff.
[49] Như trên, 41b.2. Tổ Tông Khách Ba nhận
phần này trích từ tổ Vô Trước trong quyển Asanga’s Compendium of
Knowledge.
[50] Xem tổ Tông Khách Ba Thứ Đệ Đạo Đại Luận
(Tsong-ka-pa’s Great Exposition of the Stages of the Path),
159a.4-159b.3.
[51] Sách đã dẫn, III.13b (trang 5590, quyển
115, 119.2.4 và trang 5591, quyển 115, 171.2.7).
[52] (Dharmsala, Shes rig par khang, 1964),
160a.2.
[53] Sách đã dẫn, trang 5591, quyển 115,
171.3.4 và trang 2674, quyển 62, 8.1.4, 8.3.2, 8.3.7.
[54] Phần này trích theo tổ Thế Thân
Vasubandhu’s Commentary on the ‘Treasury of Knowledge’, trang 5591,
quyển 115, 171.3.8-171.4.3, luận giải về III.13ab. Các điều trong ngoặc
ở câu kế tiếp cũng dẫn từ quyển này.
[55] Tsong-ka-pa’s Great Exposition of the
Stages of the Path, 1612.3-4.
[56] Sách đã dẫn, trang 5591, quyển 115,
172.3.2.
[57] Theo tác giả Na-wang-kay-drup trong quyển
Presentation of Birth, Death and Intermediate State (468-3) điều đó gọi
là ‘gió-gió’, và các thứ còn lại là, ‘lửa-gió’, ‘nước-gió’ và ‘đất-gió’.
[58] Sách đã dẫn, trang 5591, quyển 115,
172.3-4.
[59] Sách đã dẫn, trang 5591, quyển 115,
171.6-7.
[60] Sách đã dẫn, trang 5591, quyển 115,
173.3.7-173.4.1. Tổ Thế Thân gọi hai thứ đầu là nur nur po và mer mer
po.
[61] Theo dẫn giải của đại sư Den-ma Lo-chư
Rinbochay, tên của 24 vòng kinh mạch này lấy từ tên của 24 thành phố,
phần lớn của Ấn Độ.
[62] Lời giảng này trích từ tác giả
Na-wang-kay-drup, trong quyển Presentation of Birth, Death and
Intermediate State, trang 469.
[63] Diễn giảng này được trích từ quyển Lamp
Thoroughly Illuminating (Nagarjuna’s) ‘The Five Stages’, của Tổ Tông
Khách Ba (Tsong-ka-pa), trang 157a.6-158b.2.
[64] Câu đầu được trích từ tác giả
Na-wang-kay-drup, trong quyển Presentation of Birth, Death and
Intermediate State, trang 471.2, và câu sau được trích từ quyển Lamp
Thoroughly Illuminating (Nagarjuna’s) ‘The Five Stages’, của tổ Tông
Khách Ba (Tsong-ka-pa), trang 158b.2.
[65] Sách đã dẫn, trang 144a.5.
[66] Cả ba quyển đều viết là ‘chủng tự HI’ chứ
không phải là chủng tự HAM ; tuy nhiên các phần trước của cả ba quyển
đều viết là chủng tự HAM khi giảng về lý do màn đen cận mãn xuất hiện
(xem Giai đoạn tan rã thứ bảy, trang 53). Hơn nữa, tác giả
Na-wang-kay-drup gọi nó là ‘chủng tự hang’, âm ng trong chủng tự này do
cách phát âm khác theo anusvara.
[67] Các diễn giảng về ba phần cô lập này rút
từ lời giảng về ngôn ngữ học của cùng tác giả ở trên, theo quyển
Presentation of the Grounds and Paths of Mantra According to the
Superior Nagarjuna’s Interpretation of the Glorious Guhyasamaja, A Good
Explanation Serving as a Port for the Fortunate (dPalgsang ba ‘dus pa’
phags lugs dang mthun pa’i sngags kyi sa lam rnam gzhag legs bshad skal
bzang ‘jug ngogs,) (không có tài liệu ấn hành), trang 7a.4.
[68] Sách đã dẫn trên, trang 7b.2.
[69] Sách đã dẫn trên, trang 8b.3.