Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác.
Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
TỔ THỨ BA MƯƠI BA HUỆ NĂNG ĐẠI SƯ.
43 PHÁP TỰ CỦA TỔ THỨ BA MƯƠI BA
HUỆ NĂNG ĐẠI SƯ.
1. Quật đa Tam tạng, Tây Ấn độ; 2. Thiền sư Pháp Hải Thiều Châu; 3. Thiền sư Chí Thành Kiết Châu; 4. Thiền sư Hiểu Liễu núi Biển Thiềm; 5. Thiền sư Trí Hồng Hà Bắc; 6. Thiền sư Pháp Đạt Hồng Châu; 7. Thiền sư Trí Thông Thọ Châu; 8. Thiền sư Chí Triệt Giang Tây; 9. Thiền sư Trí Thường Tín Châu; 10. Thiền sư Chí Đạo Quảng Châu; 11. Hòa thượng Ấn Tông chùa Pháp Tánh, Quảng Châu; 12. Thiền sư Hành tư núi Thanh Nguyên, Kiết Châu; 13. Thiền sư Hồi Nhượng Nam Nhạc; 14. Thiền sư Huyền Giác Vĩnh Gia, Ôn Châu; 15. Thiền sư Bổn Tịnh núi Tư Không; 16. Thiền sư Huyền Sách Vụ Châu; 17. Thiền sư Linh Thao Tào Khê; 18, Thiền sư Huệ Trung chùa Quang Trạch, Tây Kinh; 19. Thiền sư Thần Hội chùa Hà Trạch, Tây Kinh;
(Mười chín người trên đây được ghi)
20. Thiền sư Kì Đà Thiều Châu; 21. Thiền sư Tịnh An Phủ Châu; 22. Thiền sư Tầm Tung Sơn; 23. Thiền sư Định Chơn núi La Phù; 24. Thiền sư Kiên Cố Nam Nhạc; 25. Thiền sư Đạo Tấn núi Chế Không; 26. Thiền sư Thiện Khối; 27. Thiền sư Duyên Tố Thiều Sơn; 28. Thiền sư Tông Nhất; 29. Thiền sư Thiện Hiện núi Tần Vọng, Cối Kê; 30. Thiền sư Phạm Hạnh Nam Nhạc; 31. Thiền sư Tự Tại Tinh Châu; 32. Thiền sư Hàm Không Tây Kinh; 33. Thiền sư Thái Tường Giáp Sơn; 34. Thiền sư Pháp Tịnh Quang Châu; 35. Thiền sư Biện Tài Thanh Lương; 36. Ngô Đầu đà Quảng Châu; 37. Thiền sư Đạo Anh; 38. Thiền sư Trí Bổn; 39. Thiền sư Pháp Chơn Thanh Uyển, Quảng Châu; 40. Thiền sư Huyền Giai; 41. Thiền sư Đàm Thôi; 42. Thứ sử Vi Cừ Thiều Châu; 43. Bồ tát Tôn Nghĩa Hưng.
(Hăm bốn người trên đây không có cơ duyên ngữ cú, không ghi)
33. TỔ HUỆ NĂNG ĐẠI SƯ
Họ ngồi đời là Lư. Gốc người Phạm Dương (miền Bắc), cha là Hành Thao năm Võ Đức (618 – 626 – Đường Cao Tổ) làm quan bị giáng chức, đày đi Nam Hải, đến Tân Châu rồi làm dân ở đó.
Ba tuổi cha mất, mẹ Ngài thủ tiết nuôi con. Đến lớn gia cảnh càng nghèo khó, Ngài kiếm củi bán nuôi sống qua ngày. Một hôm gánh củi vào chợ, nghe khách tụng kinh Kim Cang, giật mình hỏi khách:
- Đó là pháp gì? Được từ thầy nào?
Khách đáp:
- Pháp đó tên Kinh Kim Cang, được từ Nhẫn Đại sư ở Hồng Mai.
Sư bèn thưa với mẹ, bày tỏ ý tìm thầy để cầu pháp. Thẳng đến Thiều Châu, gặp kẻ sĩ cao hạnh Lưu Chí Lược, kết bạn giao hữu. Ni Vô Tận Tạng là cô của Chí Lược, thường tụng kinh Niết Bàn, Sư nghe qua liền giải nghĩa kinh cho nghe. Ni cầm quyển kinh lên hỏi về chữ, Sư nói:
- Chữ thì không biết, nghĩa thì cứ hỏi.
Ni nói:
- Chữ còn không biết, làm sao hiểu nghĩa được?
Sư đáp:
- Diệu lý chư Phật chẳng quan hệ gì đến văn tự.
Ni nghe hết sức ngạc nhiên, thông báo các cụ lớn tuổi (trên 50 – 60) trong thôn xóm rằng Năng là người hữu đạo, nên thỉnh cúng dường. Từ đó người địa phương đua nhau đến chiêm lễ. Gần đó có nền đất cũ chùa Bảo Lâm, chúng bàn bạc sửa chữa xây cất thêm, mời Sư đến ở. Bốn chúng tụ tập đông đúc, chẳng bao lâu chùa trở thành ngôi bảo phường. Một hôm Sư chợt nghĩ:
- Ta cầu đại pháp đâu được dừng lại giữa đường.
Hôm sau liền đến trong thạch thất, núi Tây Sơn huyện Xương Lạc, gặp thiền sư Trí Viễn. Sư bèn thỉnh ích, Viễn nói:
- Xem ông thần tư sáng sủa hơn hết, có lẽ là người phi thường. Ta nghe Bồ đề Đạt ma từ Tây vực đến đây, truyền tâm ấn ở Hồng Mai, ông nên đến đó tham quyết.
Sư từ giã, đến thẳng chùa Đông Thiền huyện Hồng Mai, nhằm năm Đường Hàm Hanh thứ hai 671. Hoằng Nhẫn Đại sư gặp một lần thầm lặng mà
biết Sư, sau truyền y pháp và dạy Sư ẩn trong vùng Hồi Tập, Tứ Hội.
Đến ngày mùng 8 tháng giêng năm Nghi Phụng nguyên niên, năm bính tý (676 - Đường Cao Tông), Sư tới Nam Hải gặp pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết Bàn ở chùa Pháp Tánh. Sư tạm ngụ dưới chái chùa, chiều tối gió tốc thổi lá phướn chùa, nghe hai ông tăng tranh luận, người thì nói phướn động người thì nói gió động, đối đáp qua lại mãi mà chưa chịu ngã ngũ. Sư nói:
- Cho kẻ dung tục này tham dự cao luận ngay được không ạ? Thật ra gió phướn chẳng động, tâm mình động thôi!
Ấn Tông tình cờ nghe lời nói đó rất ngạc nhiên mà kính sợ, hôm sau mời Sư vào thất hỏi về nghĩa gió phướn. Sư viện lý giảng giải đầy đủ, Ấn Tông bất giác đứng dậy hỏi:
- Nhất định hành giả là người phi thường, thầy của hành giả là ai?
Sư không còn gì để giấu tiếng, rồi tự sự nhân do đắc pháp. Từ đó Ấn Tông giữ lễ làm đệ tử, xin được thọ nhận thiền yếu và báo tứ chúng:
- Ấn Tông thật đáng là phàm phu, nay gặp nhục thân Bồ tát.
Liền chỉ Lư cư sĩ đang dưới tồ, bảo:
- Chính là người đó.
Nhân mời Sư xuất trình tín y được Ngũ Tổ truyền để mọi người chiêm lễ.
Đến ngày rằm tháng giêng, Ấn Tông hội các bậc danh đức xuống tóc Sư. Ngày mùng 8 tháng hai, Sư thọ giới cụ túc ở chùa Pháp Tánh với luật sư Trí Quang. Giới đàn ấy do Ngài Tam tạng Cầu na Bạt đà la dựng nên vào triều Tiền Tống (420 – 479), Ngài Tam tạng huyền ký:
- Sau sẽ có nhục thân Bồ tát thọ giới tại giới đàn này.
Lại cuối triều Lương (502-556), Ngài Tam tạng Chơn Đế tự tay trồng hai cây bồ đề ở gần bên giới đàn, bảo chúng:
- Một trăm hai mươi năm sau, có đại khai sĩ diễn thuyết vô thượng thừa dưới hai cây này, độ vô lượng chúng.
Sư thọ giới cụ túc rồi, khai diễn pháp môn Đông Sơn dưới hai cây đó, đúng như lời huyền ký.
Năm sau 677, ngày mùng 8 tháng hai, bỗng nhiên Sư báo chúng:
- Ta không muốn ở đây, cần trở lại chỗ ẩn trước.
Bấy giờ Ấn Tông cùng tăng chúng và tại gia cư sĩ hơn nghìn người, tiễn Sư về chùa Bảo Lâm.
Thứ sử Thiều Châu là Vi Cừ thỉnh Sư đến chùa Đại Phạm trong thành, chuyển diệu pháp luân và thọ giới vô tướng tâm địa. Môn nhân ghi chép các điều mục thành Đàn Kinh lưu truyền thạnh hành ở thế gian. Nhưng Sư lại trở về Tào Khê, ở chùa Bảo Lâm thuyết đại pháp vũ, học giả không dưới số nghìn.
Năm Thần Long nguyên niên 705, vua Trung Tông ban chiếu:
“Trẫm đã thỉnh hai thầy An và Tú vào trong cung cúng dường, mỗi khi rỗi rảnh trong muôn một mà tham cứu nhất thừa.
Hai thầy đều khiêm tốn từ nhượng: “Phương Nam có thiền sư Huệ Năng mật thọ y pháp từ Nhẫn Đại sư, bệ hạ nên mời người đó đến thưa hỏi”.
Nay sai nội thị Tiết Giản đem chiếu nghênh thỉnh. Mong Sư thương nghĩ mau phó thượng kinh.”
Sư dâng biểu thác bệnh để từ chối, nguyện được hết đời ở chốn núi rừng.
Tiết Giản thưa:
- Các vị thiền đức ở kinh thành đều nói: “Muốn hội được đạo ắt phải tọa thiền tập định, nếu không nhờ thiền định mà được giải thốt thì chưa có chuyện đó”. Chưa biết Sư nói pháp như thế nào?
Sư nói:
- Đạo do ngộ tâm, há do ngồi đâu? Kinh nói: “Nếu thấy Như Lai hoặc ngồi hoặc nằm, người đó hành tà đạo. Tại sao vậy? Như Lai không từ đâu đến cũng không đi đâu”. Thế thì, không sanh diệt là Như Lai thanh tịnh thiền, chư pháp không tịch là Như Lai thanh tịnh tọa, rốt ráo không có chứng đắc, huống chi là ngồi ư?
Giản thưa:
- Đệ tử trở về chúa thượng ắt hỏi, xin hòa thượng từ bi chỉ dạy tâm yếu.
Sư nói:
- Đạo không có sáng tối, sáng tối là nghĩa đắp đổi nhau. Sáng, sáng hồi cũng có lúc hết.
Giản nói:
- Sáng dụ cho trí tuệ, tối dụ cho phiền não. Người tu đạo nếu không đem trí tuệ chiếu phá phiền não thì sanh tử từ vô thủy nhờ đâu mà xuất ly được?
Sư nói:
- Nếu đem trí tuệ chiếu phá phiền não thì đó là căn cơ nhỏ của hàng nhị thừa, xe dê nai … Hàng đại căn thượng trí đều không như thế.
Giản hỏi:
- Thế nào là kiến giải đại thừa?
Sư nói:
- Minh và vô minh tánh chúng không hai, tánh không hai tức là thật tánh. Tánh thật đó nơi phàm ngu mà không giảm, ở thánh hiền mà không tăng, ở phiền não mà không loạn, trong thiền định mà không lặng. Không đoạn không thường, không đến không đi, không ở trung gian cùng với trong ngồi, chẳng sanh chẳng diệt tánh tướng như như, thường trụ không đổi đời. Đó gọi là đạo.
Giản nói:
- Sư nói chẳng sanh chẳng diệt có khác gì ngoại đạo?
Sư dạy:
- Cái mà ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, là đem cái diệt ngăn cái sanh, lấy cái sanh làm rõ cái diệt; diệt cũng như chẳng diệt, (cũng như) sanh nói là không sanh*. Cái mà ta nói chẳng sanh chẳng diệt, là xưa vốn không sanh nay cũng không diệt, vì thế chẳng đồng ngoại đạo.
Ông muốn biết tâm yếu, chỉ cần tất cả việc thiện ác đều chớ nghĩ suy, tự nhiên được vào tâm thể thanh tịnh, trạm nhiên (trong trẻo) thường tịch mà diệu dụng như hằng sa.
Giản nhờ chỉ dạy hốt nhiên (thông suốt) đại ngộ. Lễ từ trở về cửa khuyết, dâng biểu tâu lên lời Sư nói. Vua ban chiếu cảm tạ Sư và ban tặng ca sa ma nạp, 500 xấp lụa và một bảo bát. Ngày 19 tháng chạp ban sắc đổi tên Bảo Lâm cổ tự thành chùa Trung Hưng.
Ngày 18 tháng 11 năm Thần Long thứ ba 707, vua lệnh thứ sử Thiều Châu (Vi Cừ) sửa sang xây cất và trang trí thêm chùa Trung Hưng, ban biển ngạch là Pháp Tuyền Tự. Và chùa tại quê nhà Sư ở Tân Châu là Quốc Ân Tự.
Một hôm Sư dạy chúng:
- Này các thiện tri thức, mỗi người các ông hãy tịnh tâm lắng nghe ta thuyết pháp. Tự tâm mỗi người các ông là Phật, chớ nên hồ nghi, ngồi tự tâm không một vật nào có thể kiến lập, muôn thứ pháp đều do bổn tâm sanh. Thế nên Kinh nói: “Tâm sanh các thứ pháp sanh, tâm diệt các thứ pháp diệt”.
Nếu muốn thành tựu chủng trí, phải đạt nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam muội. Nếu đối với tất cả chỗ mà không trụ tướng, nơi tướng ấy chẳng sanh ưa ghét cũng không lấy bỏ, không nghĩ đến các việc lợi ích thành hoại … mà an nhàn điềm tĩnh hư dung đạm bạc, đó gọi là nhất tướng tam muội. Nếu ở mọi nơi đi đứng nằm ngồi, hành trực tâm thuần nhất thì chỗ nào cũng là đạo tràng bất động, mới thành chơn tịnh độ, đó gọi là nhất hạnh tam muội.
Nếu người gồm đủ hai thứ tam muội này, tợ như đất có sẵn hạt giống, chỉ hay gìn giữ trưởng dưỡng sẽ thành tựu cái thật kia, nhất tướng và nhất hạnh cũng giống như vậy. Nay ta thuyết pháp như trời mưa thấm nhuần khắp cả đại địa, Phật tánh các ông dụ như những hạt giống, gặp mưa thấm ướt đều được phát sanh.
Ai theo ý chỉ ta quyết định được bồ đề, y theo ta dạy mà hành nhất định chứng diệu quả.
Năm Tiên Thiên nguyên niên (cuối năm 712 – Đường Huyền Tông), Sư báo đồ chúng:
- Ta luống thẹn thọ y pháp Nhẫn Đại sư, nay thuyết pháp cho các ông mà không truyền y. Bởi vì tín căn các ông đã thuần thục, nhất định không nghi, kham nhận đại sự. Hãy nghe ta nói kệ:
Tâm địa hàm chư chủng,
Phổ vũ tất giai sanh.
Đốn ngộ hoa tình dĩ,
Bồ đề quả tự thành.
Dịch:
Tâm địa chứa các giống,
Gặp mưa ắt nảy mầm.
Đốn ngộ hoa tình rồi(73),
Quả bồ đề tự thành.
Sư thuyết kệ xong, lại nói:
- Pháp ấy không hai, tâm ấy cũng vậy. Đạo ấy thanh tịnh cũng không có các tướng, các ông cẩn thận đừng quán tâm ấy là tịnh và không ngơ. Tâm vốn tịnh đó không thể lấy hay bỏ được.
Mỗi người hãy tự nỗ lực tùy duyên đi nhé.
*
* *
Sư thuyết pháp lợi sanh trải qua bốn mươi năm. Ngày mùng 6 tháng bảy năm đó 712, Sư bảo các đệ tử đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu, lo xây tháp Báo Ân và lại sai gia công đôn đốc.
Lại có vị tăng xứ Thục tên Phương Biện, đến yết kiến Sư, thưa:
- Chuyên đắp tượng.
Sư nghiêm sắc mặt, bảo:
- Đắp thử xem!
Phương Biện không lãnh hội yếu chỉ. Rồi đắp chơn tướng Sư, cao khoảng 7 tấc, đường nét rất tinh xảo. Sư nhìn Biện, nói:
- Ông khéo đắp tính chất, không khéo đắp tính Phật.
Sư lấy y vật đền đáp cho, tăng lễ tạ rồi đi.
Năm Tiên Thiên thứ hai 713, ngày mùng một tháng bảy, Sư báo môn nhân:
- Ta muốn về Tân Châu, các ông mau chuẩn bị thuyền chèo phương tiện.
Lúc đó, đại chúng thương mến xin Sư tạm ở lại. Sư nói:
- Chư Phật ra đời còn thị hiện niết bàn, có đến tất phải đi, lý ấy cũng thường nhiên. Hình hài ta đây về tất phải có chỗ.
Chúng thưa:
- Từ đây thầy đi, sớm muộn gì xin thầy cũng trở về.
Sư nói:
- Lá rụng về cội, không hẹn ngày về.
(Diệp lạc quy căn, lai thời vô nhật)
Lại hỏi:
- Chánh pháp nhãn tạng thầy truyền trao cho ai?
Sư đáp:
- Người có đạo thì được, người vô tâm thì thông.
Lại hỏi:
- Ngày sau có tai nạn gì chăng?
Sư đáp:
- Năm sáu năm sau khi ta nhập diệt, sẽ có một người đến lấy đầu ta. Hãy nghe ta nói sấm ký:
Đầu thượng dưỡng thân,
Khẩu lý tu xan.
Ngộ Mãn chi nạn,
Dương Liễu vi quan.
Dịch:
Dốc lòng nuôi thân(**),
Miệng cần phải ăn.
Gặp nạn tên Mãn,
Dương, Liễu làm quan.
Sư lại nói:
- Ta tịch rồi, bảy mươi năm sau có hai vị Bồ tát từ phương Đông đến, một người tại gia một người xuất
gia, đồng thời kiến lập tông ta giáo hóa hưng thạnh, sáng lập già lam, pháp tự đông đúc(74).
Nói xong Sư đi đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu, tắm gội xong ngồi kiết già mà hóa. Khi ấy có mùi thơm xông người, cầu vồng trắng liên giao giáp đất, nhằm ngày mùng 3 tháng tám năm đó 713.
Bấy giờ hai quận Thiều Châu và Tân Châu đều tu tạo tháp linh, người đạo kẻ tục hai quận không quyết định được sẽ rước chơn thân Sư đi đâu. Thứ sử hai quận cùng thắp hương khấn vái:
- Khói nhang bay đi đâu thì ý Sư muốn về đó.
Khi đó hương trong lò bốc lên cao, bay thẳng đến Tào Khê. Chúng chọn ngày 13 tháng 11 rước chơn thân về Tào Khê nhập tháp(75). Sư thọ 76 tuổi. Bấy giờ Vi Cừ là thứ sử Thiều Châu soạn văn bia.
Môn nhân nhớ lại lời sấm ký, có kẻ lấy đầu Sư, mới lấy lá sắt bọc vải sơn quấn chặt cổ Sư. Trong tháp có tín y do Đạt ma truyền (loại vải co giãn sáng nhấp nháy, may từ bông cứng thêu hoa ở giữa mỗi
phần, người sau dùng lụa bích lót trong), áo ma nạp bảo bát vua Trung Tông ban, chơn thân do Phương Biện đắp, đạo cụ … do thị giả chủ tháp chủ quản
Năm Khai Nguyên thứ 10, ngày mùng 3 tháng tám năm nhâm tuất 722, nửa đêm bỗng nghe trong tháp như có tiếng kéo sắt. Tăng chúng sợ hãi thức dậy, thấy một người mặc đồ tang từ trong tháp chạy ra, rồi thấy cổ Sư có vết thương. Đem việc trộm tường trình đầy đủ lên châu huyện, huyện lệnh Dương Khản và thứ sử Liễu Vô Thiểm được đơn tố giác, cấp bách truy nã kẻ trộm. Ngày mùng 5 tìm bắt được kẻ trộm ở thôn Thạch Giác, giải đến Thiều Châu tra hỏi. Khai rằng: Họ Trương tên Tịnh Mãn người huyện Lương, Nhữ Châu, ở chùa Khai Nguyên Hồng Châu, y nhận 20.000 đồng của vị tăng nước Tân La tên Kim Đại Bi, mướn y lấy đầu Lục Tổ Đại sư đem về Hải Đông để cúng dường.
Liễu thái thú nghe lấy lời khai, chưa vội gia hình, bèn thân đến Tào Khê hỏi ý Linh Thao, cao đệ của Sư, xem nên xử đốn thế nào? Thao nói: “Nếu luận theo phép nước mà nói thì đáng lý phải tru di. Nhưng Phật giáo từ bi, kẻ thù người thân đều bình đẳng, huống nữa kẻ kia cầu mong để cúng dường, nên tha tội vậy”. Liễu thái thú vui lòng, khen: “Thế
mới hay cửa Phật thật rộng lớn”, rồi tha kẻ trộm (sau đó, có rất nhiều bậc danh hiền trước thuật cùng tổ chức cúng dường đồ quý hiếm, văn rườm không ghi).
Năm Thượng Nguyên nguyên niên 760, Đường Túc Tông sai sứ đến thỉnh y bát Sư về nội cung cúng dường. Đến năm Vĩnh Thái nguyên niên 765, ngày mùng 5 tháng 5 vua Đại Tông mộng thấy Lục Tổ Đại sư đến đòi y bát. Ngày mùng 7 vua lệnh thứ sử Dương Giam rằng:
“Trẫm mộng thấy thiền sư Huệ Năng đến, bảo đưa ca sa truyền pháp trở về Tào Khê. Nay trẫm nhờ Trấn quốc Đại tướng quân Lưu Sùng Cảnh kính cẩn đưa đi, trẫm xem đó là quốc bảo, các khanh nên an trí tại bổn tự đúng pháp tắc, đặc biệt lệnh tăng chúng có nhiệm vụ giữ gìn tông chỉ Sư phải bảo hộ nghiêm túc, chớ để cho thất lạc hư hỏng”.
Thế mà về sau có người lấy trộm y bát, nhưng mang đi không xa rồi cũng được lấy lại, bị mất như vậy đến bốn lần.
Vua Đường Hiến Tông ban thụy hiệu Đại Giám Thiền Sư, tháp tên Nguyên Hòa Linh Chiếu.
Những năm đầu Khai Bảo (968 – 975 – Tống Thái Tổ), quân triều đình (Bắc Tống) bình định vùng Nam Hải, nơi tàn binh của họ Lưu (Nhà Nam Hán) chống lại vào năm 971, tháp miếu thờ Sư nhiều lần bị nạn binh lửa tàn phá, nhưng chơn thân được tăng giữ tháp bảo hộ không hề hư hao, về sau có người sửa chữa lại mà chưa xong. Gặp lúc Tống Thái Tông tức vị, lưu tâm đến thiền môn, tháp có phần tráng lệ hơn.
Đại sư từ năm Đường Tiên Thiên thứ hai, nhằm năm quý sửu 713, nhập diệt đến nay, Cảnh Đức nguyên niên năm giáp thìn 1004, gồm khoảng 292 năm. Trừ phái Ấn Tông, số người đắc pháp là 33, mỗi vị giáo hóa một nơi, tiêu biểu cho việc kế thừa chánh thức, ngồi ra số người mai danh ẩn tích không thể ghi hết.
Nay đối với chư gia, trong truyện ký lược ghi mười người, gọi là bàng xuất.
*
* *
1. QUẬT ĐA TAM TẠNG TÂY VỰC.
Người Thiên Trúc. Đông du đến Thiều Dương gặp Lục Tổ, ngay lời nói Sư khế ngộ.
Sau du phương Ngũ Đài, đến thôn Lịch huyện Định Tương, gặp một tăng kết am ngồi tọa thiền. Tam Tạng hỏi:
- Ông ngồi một mình ở đây làm gì?
Đáp:
- Quán tịnh.
Tam Tạng hỏi:
- Quán đó là ai quán? Tịnh đó là vật gì?
Tăng ấy làm lễ, hỏi:
- Lý đó ra sao?
Tam Tạng hỏi:
- Sao ông không tự quán tự tịnh?
Tăng ấy mờ mịt, không biết đối đáp.
Tam Tạng hỏi:
- Ông xuất thân từ pháp môn của ai vậy?
Đáp:
- Thần Tú Đại sư.
Tam Tạng nói:
- Ở Tây Vực tôi, ngoại đạo căn cơ thấp nhất cũng không hỏng với kiến giải đó. Ngồi không trơ trơ như vậy, với đạo có ích lợi gì?
Tăng ấy lại hỏi Tam Tạng:
- Thầy ông là ai?
Tam Tạng đáp:
- Thầy tôi là Lục Tổ. Sao ông không mau đến Tào Khê để quyết nghi yếu chỉ chơn thật?
Tăng ấy liền rời am đi tham Lục Tổ, thuật đầy đủ việc trước. Lời Lục Tổ dạy phù hợp với Tam Tạng, tăng ấy tin theo.
Về sau không biết Tam Tạng mất ở đâu.
*
* *
2. THIỀÂN SƯ PHÁP HẢI Ở THIỀU CHÂU.
Người Khúc Giang. Ban đầu tham kiến Lục Tổ, hỏi:
- Tức tâm là Phật, xin thầy rủ lòng chỉ dạy:
Tổ nói:
- Trước niệm không sanh là tâm, sau niệm không diệt là Phật. Tạo thành tất cả tướng là tâm, lìa tất cả tướng là Phật.
Nếu ta nói đầy đủ cùng kiếp không hết. Hãy nghe ta nói kệ:
Tức tâm danh huệ, Dịch: Tức tâm là huệ,
Tức Phật nãi định. Tức Phật là định.
Định huệ đẳng trì, Định huệ đồng tu,
Ý trung thanh tịnh. Thanh tịnh trong ý.
Ngộ thử pháp môn, Ngộ pháp môn này,
Do nhữ tập tánh. Do ông tập quen.
Dụng bổn vô sanh, Dụng vốn không sanh,
Song tu thị chánh. Song tu mới đúng.
Pháp Hải tin nhận, dùng kệ tán thán:
Tức tâm nguyên thị Phật,
Bất ngộ nhi tự khuất.
Ngã tri định huệ nhân,
Song tu ly chư vật.
Dịch:
Tức tâm vốn là Phật,
Chẳng ngộ mà tự khuất.
Tôi biết nhân định huệ,
Song tu lìa các vật.
(Đàn Kinh ghi “Môn nhân Pháp Hải”, đó là thiền sư vậy)
*
* *
3. THIỀN SƯ CHÍ THÀNH Ở KIẾT CHÂU.
Người Thái Hòa, Kiết Châu. Lúc còn nhỏ theo phụng sự thiền sư Thần Tú ở chùa Ngọc Tuyền, núi Đương Dương, Kinh Nam. Sau nhân hai Tông giáo hóa thạnh hành, đồ chúng của Thần Tú thường hay chê Nam Tông:
- Đại sư Huệ Năng không biết một chữ, có tài năng đặc biệt nào?
Tú nói:
- Người đó được trí vô sư, thâm ngộ thượng thừa, ta chẳng bằng. Vả thầy ta Ngũ Tổ đích thân truyền y pháp, há phải hồ đồ đâu? Ta hận không thể đi xa được thân cận, ở đây luống thọ quốc ân. Những người các ông không nên trì trệ nơi đây, nên đi Tào Khê hỏi lại những chỗ còn nghi ngờ, ngày kia trở về nói lại cho ta nghe.
Sư nghe thầy mình nói như vậy, lễ từ đi đến Thiều Dương, theo chúng tham thỉnh mà không nói từ đâu đến. Bấy giờ Lục Tổ bảo chúng:
- Bữa nay có người trộm pháp, trà trộn trong pháp hội này.
Sư bước ra lễ bái trình đầy đủ sự việc. Tổ hỏi:
- Thầy ông dạy chúng như thế nào?
Đáp:
- Thường chỉ bảo đại chúng trụ tâm quán tịnh, ngồi hồi không nằm.
Tổ nói:
- Trụ tâm quán tịnh là bệnh đâu phải thiền. Ngồi hồi câu thúc thân, với lý thiền có ích gì?
Hãy nghe ta nói kệ:
Sanh lai tọa bất ngọa,
Tử khứ ngọa bất tọa.
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công quả?
Dịch: Khi sống ngồi không nằm,
Chết rồi nằm không ngồi.
Vốn là khúc xương hôi,
Làm sao lập công quả?
Sư hỏi:
- Chưa biết Đại sư dùng pháp gì dạy người?
Tổ đáp:
- Nếu ta nói có pháp cho người tức là dối gạt ông. Chỉ tạm tùy phương tiện cởi trói, tạm gọi là tam muội.
Hãy nghe ta nói kệ:
Nhất thiết vô tâm tự tánh giới,
Nhất thiết vô ngại tự tánh huệ.
Bất tăng bất thối tự kim cang,
Thân khứ thân lai bổn tam muội.
Dịch:
Vô tâm tất cả, tự tánh giới,
Vô ngại tất cả, tự tánh huệ.
Không tăng không giảm, tự kim cang,
Thân đến thân đi, vốn tam muội.
Sư nghe kệ bèn sám hối tạ lỗi, xin được trở về nương theo. Rồi trình một bài kệ:
Ngũ uẩn huyễn thân,
Huyễn hà cứu cánh?
Hồi thú chơn như,
Pháp hồn bất tịnh.
Dịch: Thân huyễn ngũ uẩn,
Huyễn đâu cứu cánh?
Hướng tới chơn như,
Pháp còn bất tịnh.
Tổ thừa nhận, sau đó Sư trở về Ngọc Tuyền.
*
* *
4. THIỀN SƯ HIỂU LIỄU NÚI BIỂN THIỀM.
Truyện ký không ghi, chỉ có môn nhân Bắc Tông là Hốt Lôi Trừng viết văn bia ở tháp Sư, được truyền thạnh hành ngồi đời.
Tóm lược: Sư trụ núi Biển Thiềm, pháp hiệu Hiểu Liễu, là đích tự (pháp tự chánh truyền) của Lục Tổ.
Sư được vô tâm nơi tâm, liễu vô tướng nơi tướng; vô tướng là sum la vạn tượng bày chói mắt, vô tâm là phân biệt rõ ràng. Dứt tuyệt bên tiếng bên vang, vang không thể truyền truyền là đi (hành) rồi, tiếng không thể cùng cùng là chẳng phải (phi) rồi. Sư tự được không, không là không chẳng không nơi không vậy; ta nay đang có, có là có chẳng có nơi có vậy. Chẳng có là đến đi có mà chẳng phải tăng, chẳng không là niết bàn không mà chẳng phải giảm.
Than ôi!
Sư trụ thế chừ Tào Khê tỏ,
Sư tịch diệt chừ thuyền pháp nghiêng.
Sư nói hay nín chừ hồn vũ đầy,
Sư dạy chúng mê chừ thừa liễu nghĩa.
Màu núi Biển Thiềm phô sắc thắm,
Hang không còn mãi Hiểu Liễu danh.
*
* *
5. THIỀN SƯ TRÍ HỒNG Ở HÀ BẮC.
Ban đầu tham học nơi pháp tịch Ngũ Tổ, tuy thường thưa hỏi nhờ quyết nghi nhưng lại thuận theo đường tiệm. Về sau đến Hà Bắc kết am chuyên tọa thiền, trên hai mươi năm không hề biếng nhác.
Khi gặp môn nhân Lục Tổ là Thiền sư Huyền Sách du phương đến đó, khích lệ Sư phải đi cầu pháp yếu. Sư bèn bỏ am đi tham vấn Lục Tổ.
Tổ thương ông từ phương xa đến mà rủ lòng khai mở. Qua lời Tổ dạy Sư hốt nhiên khế ngộ, tâm sở đắc 20 năm trước không còn ảnh hưởng. Đêm ấy ở Hà Bắc, đàn việt sĩ thứ bỗng nghe có tiếng nói trong không trung: “Thiền sư Hồng hôm nay đắc đạo”.
Sau Sư về Hà Bắc khai hóa tứ chúng.
*
* *
6. THIỀN SƯ PHÁP ĐẠT Ở HỒNG CHÂU.
Người ở Phong Thành, Hồng Châu. Bảy tuổi xuất gia tụng kinh Pháp Hoa. Sau khi thọ giới cụ túc, đến lễ Tổ Sư đầu không chấm đất, Tổ quở:
- Lễ mà đầu không sát đất chi bằng đừng lễ. Trong tâm ông ắt có một vật tích chứa đã lâu, việc gì vậy?
Sư đáp:
- Tụng Kinh Pháp Hoa đã tới 3.000 bộ.
Tổ nói:
- Ông nếu tụng đến muôn bộ, đạt ý kinh đó mà không cho là hơn thì cùng ta đồng hành. Nay ông mang sự nghiệp đó, hồn tồn không biết lỗi. Hãy nghe ta nói kệ:
Lễ bổn chiết mạn tràng,
Đầu hề bất chí địa?
Hữu ngã tội tức sanh,
Vong công phước vô tỉ.
Dịch: Lễ vốn gẫy cờ mạn,
Đầu sao không chấm đất?
Có ngã tội liền sanh,
Quên công phước vô cùng.
Tổ lại hỏi:
- Ông tên gì?
Đáp:
- Tên Pháp Đạt.
Tổ nói:
- Ông tên Pháp Đạt, đâu từng đạt pháp?
Tổ lại nói kệ:
Nhữ kim danh Pháp Đạt,
Cần tụng vị hưu hiết.
Không tụng đãn tuần thanh
Minh tâm hiệu Bồ tát.
Nhữ kim hữu duyên cố,
Ngô kim vị nhữ thuyết.
Đãn tín Phật vô ngôn,
Liên hoa tòng khẩu phát.
Dịch: Ông nay tên Pháp Đạt,
Siêng tụng chưa bỏ sót.
Chỉ tụng suông theo tiếng,
Minh tâm hiệu Bồ tát.
Ông nay có duyên cớ,
Nay ta thuyết cho ông.
Chỉ tin Phật không lời,
Hoa sen từ miệng sanh.
Sư nghe kệ hối lỗi, thưa:
- Từ nay về sau phải khiêm cung tất cả. Chỉ mong Hòa thượng đại từ lược nói nghĩa lý trong kinh.
Tổ hỏi:
- Ông tụng kinh này lấy gì làm tông?
Sư đáp:
- Học nhân ngu độn, từ nào đến giờ chỉ y theo văn tụng niệm, đâu biết tông thú.
Tổ nói:
- Ông thử tụng một biến cho ta nghe, ta sẽ giải thuyết cho ông.
Sư liền cất tiếng tụng kinh đến phẩm Phương Tiện. Tổ bảo:
- Thôi! Kinh này hóa ra lấy nhân duyên xuất thế làm tông, dù cho có nói nhiều thứ thí dụ cũng không ngồi ý này: Cái gì là nhân duyên? – Chỉ có một đại sự thôi, một đại sự đó tức là tri kiến Phật.
Ông thận trọng chớ hiểu sai ý kinh. Thấy kinh nói khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, thì hiểu tất nhiên là tri kiến của Phật, chúng ta lại vô phần. Nếu hiểu như thế lại là báng kinh hủy Phật, kia đã là Phật đã đầy đủ tri kiến, cần gì khai nữa? Ông nay phải tin tri kiến Phật chỉ là tự tâm ông, không còn cái thể nào khác nữa.
Bởi vì tất cả chúng sanh tự che đậy quang minh, tham ái trần cảnh duyên bên ngồi, rối loạn bên trong, đành chịu rong ruổi. Làm nhọc đến Phật kia, phải rời tam muội, mỏi miệng lắm mà đinh ninh khuyên bảo “Hãy thôi nghỉ đi, đừng hướng ngoại tìm cầu nữa thì cùng Phật không hai”. Thế nên nói khai tri kiến Phật.
Ông chỉ khư khư chấp tụng, gọi đó là công khóa, có khác gì con trâu ly mến cái đuôi của nó?(76)
Sư thưa:
- Như vậy chỉ cần hiểu được nghĩa, khỏi phiền tụng kinh ư?
Tổ nói:
- Kinh có lỗi gì, đâu không cho ông tụng? Chỉ là mê ngộ bởi người, lợi hại do ông. Hãy nghe ta nói kệ:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa.
Tụng cửu bất minh kỷ,
Dữ nghĩa tác thù gia.
Vô niệm niệm tức chánh,
Hữu niệm niệm thành tà.
Hữu vô câu bất kế,
Trường ngự bạch ngưu xa.
Dịch:Tâm mê Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa.
Tụng lâu không rõ mình,
Với nghĩa thành oan gia.
Niệm vô niệm tức chánh,
Niệm hữu niệm thành tà(77).
Hữu vô đều chẳng kể,
Hằng ngồi xe trâu trắng.
Sư nghe kệ xong, lại thưa:
- Kinh nói: “Chư đại thanh văn cho đến bồ tát đều cùng nhau hết sức nghĩ lường, còn không thể lường nổi trí Phật”. Nay muốn cho phàm phu chỉ cần ngộ tự tâm thì gọi là tri kiến Phật, tự họ chẳng phải hạng thượng căn ắt khó tránh nghi báng. Hơn nữa kinh nói ba xe: xe dê nai trâu, với xe trâu trắng khác nhau như thế nào? Xin Hòa thượng rủ lòng tuyên thuyết lại.
Tổ nói:
- Ý kinh rõ ràng, tự ông mê thành trái. Các người tam thừa không thể đo lường trí Phật, lỗi họ tại đo lường, dù cho họ hết sức cùng nhau nghĩ suy thì trái lại họ càng cách xa. Phật vốn thuyết cho phàm phu nghe, chẳng thuyết cho Phật, vì không tin nhận lý này nên họ thối tịch theo kia mà hồn tồn không biết mình đã ngồi xe trâu trắng rồi, còn tìm ba xe ở ngồi cửa. Huống nữa kinh văn nói rõ ràng với ông rằng không có hai cũng không có ba, sao ông không xét rõ?
Tam xe là giả lập vì việc trước, nhất thừa là thật vì việc bây giờ, chỉ cần dạy ông bỏ giả về thật, sau khi về thật rồi thì thật cũng không tên. Nên biết tài sản quý báu sở hữu đều thuộc về ông, do ông thọ dụng, lại không khởi nghĩ đến cha, cũng không khởi nghĩ đến con, cũng không cần nghĩ.
Như thế gọi là trì kinh Pháp Hoa từ kiếp này đến kiếp kế, tay không rời quyển kinh, suốt ngày lẫn đêm không lúc nào không tụng.
Sư đã nhờ khai mở, lòng hớn hở vui mừng, làm kệ tán thán:
Kinh tụng tam thiên bộ, Dịch: Kinh tụng ba ngàn bộ,
Tào Khê nhất cú vong. Tào Khê một câu không.
Vị minh xuất thế chỉ, Chưa rõ lối xuất thế,
Ninh hiết lũy sanh cuồng. Đâu hết cuồng nhiều đời.
Dương lộc ngưu quyền thiết, Dê nai trâu quyền lập,
Sơ trung hậu thiện dương. Trước giữa sau khéo bày.
Thùy tri hỏa trạch nội, Ai biết trong nhà lửa,
Nguyên thị pháp trung vương? Vốn là đấng pháp vương?
Tổ nói:
- Từ nay về sau ông mới đáng tên là tăng tụng kinh.
Từ lúc Sư lãnh hội huyền chỉ rồi, cũng chẳng bỏ việc tụng kinh.
*
* *
7. THIỀN SƯ TRÍ THÔNG Ở THỌ CHÂU.
Người An Phong, Thọ Châu. Lúc đầu xem kinh Lăng Già đến hơn ngàn lần mà không hiểu tam thân tứ trí. Đến lễ Đại sư cầu giải nghĩa này.
Tổ nói:
- Tam thân là: Thanh tịnh pháp thân, là tánh của ông; viên mãn báo thân, là trí tuệ của ông; thiên bá ức hóa thân, là hạnh của ông.
Nếu lìa bổn tánh, riêng nói ba thân thì gọi là có thân mà không có trí. Nếu ngộ ba thân không có tự tánh(78) thì gọi là tứ trí bồ đề. Hãy nghe ta nói kệ:
Tự tánh cụ tam thân,
Phát minh thành tứ trí,
Bất ly kiến văn duyên,
Siêu nhiên đăng Phật địa.
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đế tín vĩnh vô mê,
Mạc học trì cầu giả,
Chung nhật thuyết bồ đề.
Dịch: Tự tánh đủ ba thân,
Phát minh thành tứ trí,
Chẳng lìa duyên thấy nghe,
Siêu nhiên lên Phật địa.
Nay tôi vì ông nói,
Tin chắc hằng không mê,
Chớ học kẻ tìm cầu,
Suốt ngày nói bồ đề.
Sư hỏi:
- Nghĩa về tứ trí có thể nghe được chăng?
Tổ nói:
- Đã hiểu ba thân thì rõ tứ trí, sao còn hỏi nữa? Nếu lìa ba thân mà riêng bàn tứ trí, đó gọi là có trí mà không thân, theo đó có trí lại thành không trí.
Tổ lại nói kệ:
Đại viên cảnh trí, tánh thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí, tâm vô bệnh,
Diệu quan sát trí, kiến phi công,
Thành sở tác trí, đồng viên cảnh,
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển.
Chỉ dùng danh ngôn không thật tánh,
Nếu ngay chỗ chuyển chẳng lưu tình,
Chỗ luôn ồn náo Na già định.
(Chuyển thức thành trí. Trong giáo nói: Chuyển tiền ngũ thức làm thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu làm diệu quan sát trí, chuyển thức thứ bảy làm bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám làm đại viên cảnh trí. Tuy thức thứ sáu thứ bảy chuyển trong nhân, tiền ngũ thức và thức thứ tám chuyển trên quả, nhưng chỉ chuyển cái tên nó mà không chuyển cái thể nó)(79).
Sư lễ tạ, dùng kệ tán thán:
Tam thân nguyên ngã thể,
Tứ trí bổn tâm minh.
Thân trí dung vô ngại,
Ứng vật nhậm tùy hình.
Khởi tu giai vọng động,
Thủ trụ phỉ chơn tinh.
Diệu ngôn nhân sư hiểu,
Chung vong ô nhiễm danh.
Dịch: Ba thân vốn thân ta,
Bốn trí vốn tâm sáng.
Thân trí thông vô ngại,
Ứng vật mặc tùy hình.
Nghĩ tu đều vọng động,
Giữ trụ trái chơn tinh.
Lời diệu nhờ Tổ rõ,
Quên hết danh nhiễm ô.
*
* *
8. THIỀN SƯ CHÍ TRIỆT Ở GIANG TÂY
Người ở Giang Tây, họ Trương, tên Hành Xương. Lúc nhỏ Xương làm hiệp khách, từ khi thiền tông phân hóa thành Nam Bắc, chủ hai tông tuy không có bỉ ngã nhưng đồ lữ tranh nhau sanh ưa ghét, khi đó môn nhân Bắc Tông tự lập sư Tú làm Tổ thứ sáu, mà đố kỵ việc truyền y cho Huệ Năng Đại sư được thiên hạ đều biết. Nhưng Tổ là Bồ tát dự biết chuyện đó, để trước mười lượng vàng ở phương trượng. Bấy giờ Hành Xương nhận lời với môn nhân Bắc Tông, nửa đêm giấu đao vào thất Tổ sắp muốn ra tay, Tổ đưa cổ mà nhận, Hành Xương vung đao chém ba lần đều không gây tổn hại.
Tổ nói:
- Gươm chánh chẳng làm việc tà, gươm tà chẳng làm việc chánh. Ta chỉ nợ ông vàng không nợ ông mạng.
Hành Xương sợ hãi ngã xuống đất, hồi lâu mới tỉnh lại, xót xa hối lỗi bèn xin xuất gia. Tổ đưa vàng cho, nói:
- Ông hãy đi đi. Sợ đồ chúng biết được lại hại ông, ngày khác nên đổi hình dạng mà đến, ta sẽ thu nhận ông.
Hành Xương tuân lời bỏ trốn trong đêm. Sau xuất gia đầu tăng, thọ giới cụ túc, tinh tấn tu hành. Một hôm nhớ lời Tổ dặn, từ xa đến lễ ra mắt, Tổ nói:
- Ta trông ông lâu rồi, sao ông đến muộn vậy?
Đáp:
- Xưa nhờ ân Hòa thượng tha tội, nay tuy xuất gia khổ hạnh trọn khó báo đáp thâm ân. May ra chỉ được truyền pháp độ sanh mà thôi!
Đệ tử thường xem kinh Niết bàn chưa hiểu nghĩa thường, vô thường, xin Hòa thượng từ bi tóm lược nói rõ nghĩa cho.
Tổ nói:
- Vô thường tức là Phật tánh; hữu thường tức là tâm phân biệt, tất cả các pháp thiện ác.
Đáp:
- Lời Hòa thượng nói đó rất trái kinh văn.
Tổ nói:
- Ta truyền tâm ấn Phật, sao dám trái với Kinh Phật?
Đáp:
- Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa thượng lại nói vô thường. Các pháp thiện ác cho đến tâm bồ đề đều là vô thường, Hòa thượng lại nói là thường. Thế thì trái ngược nhau, khiến học nhân càng sanh thêm nghi hoặc.
Tổ nói:
- Kinh Niết bàn trước đây ta đã nghe ni Vô Tận Tạng đọc tụng một lần rồi vì ni giảng thuyết. Không có một chữ một nghĩa nào chẳng hợp với kinh văn, cho đến nay vì ông trọn không có hai lời.
Đáp:
- Học nhân trình độ trí thức mê mờ nông cạn, mong Hòa thượng uyển chuyển khai thị.
Tổ nói;
- Ông biết chăng? Phật tánh nếu thường thì còn nói gì các pháp thiện ác, cho đến cùng kiếp không có một người nào phát tâm bồ đề. Thế nên ta nói Phật tánh vô thường, chính là Phật thuyết đạo chơn thường vậy.
Lại nữa, tất cả các pháp nếu vô thường thì vật vật đều có tự tánh (ngã) ắt phải chịu đựng sanh tử và tánh chơn thường ắt phải có chỗ chẳng biến khắp. Thế nên ta nói tất cả các pháp là thường, chính là Phật thuyết nghĩa chơn vô thường vậy.
Đức Phật lúc đầu vì phàm phu ngoại đạo chấp với tà thường, những người nhị thừa với thường cho là vô thường cộng thành tám cái điên đảo(80). Thế nên trong kinh Niết bàn liễu nghĩa, Phật dạy nhằm phá cái thiên kiến của họ mà chỉ rõ cái chơn thường, chơn ngã, chơn tịnh. Ông nay theo lời trái nghĩa, cho vô thường là đoạn diệt và hiểu thường như trơ trơ chết cứng, mà hiểu sai đi vi ngôn tối hậu viên diệu của Phật. Giá có xem kinh đến ngàn lần phỏng có ích lợi gì?
Hành Xương chợt như người tỉnh cơn say, mới nói kệ:
Nhân thủ vô thường tâm,
Phật diễn hữu thường tánh.
Bất tri phương tiện giả,
Do xuân trì chấp lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền.
Phi sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.
Dịch:Nhân chấp tâm vô thường,
Phật nói tánh hữu thường.
Người chẳng hiểu phương tiện,
Như ao xuân mò gạch.
Tôi nay chẳng dụng công,
Mà Phật tánh hiện tiền.
Không phải thầy truyền cho,
Tôi cũng không sở đắc.
Tổ nói:
- Ông nay triệt ngộ, nên gọi tên là Chí Triệt.
Sư lễ tạ rồi rút lui.
*
* *
9. THIỀN SƯ TRÍ THƯỜNG Ở TÍN CHÂU.
Người Quý Khê, bổn châu. Tuổi nhỏ xuất gia, chí cầu kiến tánh. Một hôm tham kiến Lục Tổ, Tổ hỏi:
- Ông từ đâu đến, muốn cầu việc gì?
Sư đáp:
- Gần đây học nhân đến núi Bạch Phong, huyện Kiến Xương, Hồng Châu, lễ Hòa thượng Đại Thông, nhờ dạy cho nghĩa kiến tánh thành Phật. Lòng còn hồ nghi chưa quyết định, đến Kiết Châu gặp người mách bảo, khuyên đến yết kiến Hòa thượng. Cúi xin Hòa thượng từ bi thu nhận.
Tổ hỏi:
- Hòa thượng kia có lời nói nào? Ông thử thuật lại, ta sẽ chứng minh cho ông.
Sư nói:
- Từ khi mới đến đó, tới ba tháng chưa được Hòa thượng kia khai thị. Vì tâm cầu pháp tha thiết, nên nửa đêm một mình vào phương trượng lễ bái khẩn cầu. Đại Thông mới hỏi: “Ông thấy hư không chăng?” Đáp “Thấy”. Kia hỏi “Ông thấy hư không có tướng mạo không?” Đáp “Hư không vô hình, có tướng mạo nào?”. Kia nói “Bổn tánh ông giống như hư không. Phản quan tự tánh thì hồn tồn không có một vật nào để thấy, đó gọi là chánh kiến; không có một vật nào để biết, đó gọi là chơn tri; không có xanh vàng dài ngắn, chỉ thấy bản nguyên thanh tịnh, thể giác tròn sáng, đó gọi là kiến tánh thành Phật, cũng gọi là thế giới cực lạc, cũng gọi là tri kiến Như Lai”.
Học nhân tuy nghe được lời đó, còn chưa hết nghi. Xin Hòa thượng chỉ dạy khiến cho không còn ngưng trệ.
Tổ nói:
- Lời thầy kia dạy còn có thấy biết cho nên ông chưa liễu. Nay ta dạy ông một bài kệ:
Bất kiến nhất pháp tồn vô kiến,
Đại tợ phù vân già nhật diện.
Bất tri nhất pháp thủ không tri,
Hồn như thái hư sanh thiểm điện.
Thử chi tri kiến miết nhiên hưng,
Thác nhận hà tằng giải phương tiện?
Nhữ đương nhất niệm tự tri phi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
Dịch:
Chẳng thấy pháp nào, còn thấy không,
Y như mây nổi che mặt trời.
Chẳng biết một pháp, chấp biết không,
Lại như thái hư sanh ánh chớp.
Thấy, biết đó bỗng nhiên sanh khởi,
Lầm nhận bao giờ hiểu phương tiện?
Ông nên một niệm tự biết lỗi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
Sư nghe kệ xong tâm ý thông suốt, bèn thuật một bài kệ:
Vô đoan khởi tri giải
Trước tướng cầu bồ đề.
Tình tồn nhất niệm ngộ,
Ninh việt tích thời mê?
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu uổng thiên lưu.
Bất nhập Tổ sư thất,
Mang nhiên thú lưỡng đầu.
Dịch: Vô cớ sanh hiểu biết,
Chấp tướng cầu bồ đề.
Tình còn một niệm ngộ,
Sao vượt mê thuở trước?
Tự tánh nguồn giác thể,
Theo chiếu uổng đổi dời.
Chẳng vào thất Tổ sư,
Mờ mịt hướng hai đầu.
*
* *
10. THIỀN SƯ CHÍ ĐẠO Ở QUẢNG CHÂU.
Người Nam Hải. Ban đầu đến tham vấn Lục Tổ, thưa:
- Từ khi học nhân xuất gia, xem kinh Niết bàn có hơn mười năm mà chưa rõ đại ý. Mong Hòa thượng rủ lòng dạy bảo.
Tổ hỏi:
- Ông chưa rõ chỗ nào?
Đáp:
Chư hành vô thường,
Thị sanh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc.
Dịch: Chư hành vô thường,
Là pháp sanh diệt.
Sanh diệt diệt rồi,
Tịch diệt là vui(81).
Còn nghi hoặc chỗ đó.
Tổ hỏi:
- Vì sao ông sanh nghi?
Đáp:
- Tất cả chúng sanh đều có hai thân, là sắc thân và pháp thân. Sắc thân vô thường có sanh có diệt, pháp thân hữu thường vô tri vô giác. Kinh nói “Sanh
diệt diệt rồi, tịch diệt là vui” đó, chưa biết thân nào tịch diệt thân nào thọ vui?
Nếu là sắc thân tịch diệt, khi sắc thân diệt thì tứ đại phân tán, tồn là khổ, khổ đâu thể nói vui. Nếu là pháp thân tịch diệt tức đồng với cỏ cây gạch đá, thì ai sẽ thọ lạc? Hơn nữa pháp tánh là thể của sanh diệt, ngũ uẩn là dụng của sanh diệt; năm dụng luôn sanh diệt trong nhất thể, sanh thì từ thể khởi dụng, diệt thì thâu dụng quy về thể. Nếu để mặc cho năm dụng sanh lại, tức là lồi hữu tình không đoạn không diệt; nếu không cho năm dụng sanh lại thì mãi mãi quy về tịch diệt, tức là hữu tình đồng với vật vô tình.
Như vậy, tất cả các pháp đều bị niết bàn chế phục cấm chỉ, sanh còn không được thì có gì là vui đâu?
Tổ nói:
- Ông là Thích tử sao còn quen thói tà kiến đoạn thường của ngoại đạo mà nghị luận pháp tối thượng thừa? Cứ theo chỗ ông hiểu thì ngồi sắc thân riêng có pháp thân, lìa sanh diệt cầu nơi tịch diệt; lại suy luận niết bàn là thường vui, nói có thân thọ vui. Đó là chấp trước luyến tiếc sự sanh tử, tham đắm cái vui thế gian.
Nay ông phải biết, Phật vì tất cả những người mê nhận năm uẩn hòa hợp làm tướng thân của mình (ngã), họ phân biệt tất cả pháp là tướng trần bên ngồi, ưa sống ghét chết niệm niệm đổi dời, chẳng biết ngã pháp là mộng huyễn hư giả mới luống chịu luân hồi, đến nỗi niết bàn thường vui lại cho là tướng khổ mà suốt ngày tìm cầu niết bàn. Vì thế Phật thương mới chỉ cho cái vui thật của niết bàn (chơn lạc): “Trong sát na không có tướng sanh, trong sát na không có tướng diệt, lại cũng không có sự sanh diệt nào để diệt. Đó là tịch diệt hiện tiền. Đương lúc tịch diệt hiện tiền, cũng không có sự nghĩ tưởng về hiện tiền mới gọi là thường vui (thường lạc)”. Cái vui đó không có người thọ cũng không có người chẳng thọ, há có tên gọi “một thể năm dụng”, huống chi còn nói niết bàn chế phục cấm chỉ các pháp khiến cho mãi mãi không sanh. Đó là báng Phật hủy pháp, hãy nghe ta nói kệ:
Vô thượng đại niết bàn,
Viên minh thường tịch chiếu,
Phàm ngu vị chi tử,
Ngoại đạo chấp vi đoạn,
Chư cầu nhị thừa nhân,
Mục dĩ vô vi tác.
Tận thuộc tình sở kế,
Lục thập nhị kiến bổn,
Vọng lập hư giả danh,
Hà vi chơn thực nghĩa?
Duy hữu quá lượng nhân,
Thông đạt vô thủ xả,
Dĩ tri ngũ uẩn pháp,
Cập dĩ uẩn trung ngã,
Ngoại hiện chúng sắc tượng,
Nhất nhất âm thanh tướng,
Bình đẳng như mộng huyễn,
Bất khởi phàm thánh kiến,
Bất tác niết bàn giải,
Nhị biên tam tế đoạn,
Thường ứng chư căn dụng,
Nhi bất khởi dụng tưởng,
Phân biệt nhất thiết pháp,
Bất khởi phân biệt tưởng.
Kiếp hỏa thiêu hải để,
Phong cổ sơn tướng kích,
Chơn thường tịch diệt lạc,
Niết bàn tướng như thị.
Ngô kim cưỡng ngôn thuyết,
Linh nhữ xả tà kiến,
Nhữ vật tùy ngôn giải,
Hứa nhữ tri thiểu phần.
Dịch:Vô thượng đại niết bàn,
Viên minh hằng tịch chiếu(82),
Phàm ngu gọi là chết,
Ngoại đạo chấp là đoạn,
Những người cầu nhị thừa,
Gọi đó tu vô vi.
Đều thuộc tình sở chấp,
Gốc sáu mươi hai kiến(83),
Vọng lập tên hư giả,
Sao là nghĩa chơn thật?
Chỉ có người quá lượng(84),
Thông đạt không thủ xả,
Vì biết pháp ngũ uẩn,
Và vì ngã trong uẩn,
Ngồi hiện các hình sắc,
Mỗi mỗi tướng âm thanh,
Bình đẳng như mộng huyễn,
Không khởi thấy phàm thánh,
Không sanh hiểu niết bàn,
Nhị biên tam tế đoạn(85),
Thường ứng dụng các căn,
Mà không khởi tưởng dụng,
Phân biệt tất cả pháp,
Không khởi tưởng phân biệt.
Kiếp lửa thiêu đáy biển,
Gió động kích tướng núi,
Vui tịch diệt chơn thường,
Tướng niết bàn như thế.
Nay ta buộc phải nói,
Cho ông bỏ tà kiến,
Ông chớ theo lời hiểu,
Hứa ông biết ít phần.
Sư nghe kệ hớn hở vui mừng, làm lễ rồi lui.
*
* *
11. HÒA THƯỢNG ẤN TÔNG CHÙA PHÁP TÁNH QUẢNG CHÂU.
Người Ngô Quận, họ Ấn. Từ khi Sư xuất gia đã nghiên cứu tinh tường tồn bộ kinh Niết bàn. Năm Đường Hàm Hanh nguyên niên (670 – Đường Cao Tông) Sư đến kinh sư, vua ban chiếu cho ở chùa Đại Kính Ái, Sư rất mực từ chối rồi đi Kì Xuân yết kiến Hoằng Nhẫn Đại sư.
Về sau Sư giảng kinh Niết bàn ở chùa Pháp Tánh, Quảng Châu. Gặp Lục Tổ Huệ Năng Đại sư mới ngộ huyền lý, Sư xem Huệ Năng là thầy truyền pháp. Sư góp nhặt lời nói của những bậc đạt giả các nơi từ đời Lương đến Đường mà soạn thuật “Tâm Yếu Tập” thạnh hành ở đời.
Năm Tiên Thiên thứ hai (713 – Đường Huyền Tông), ngày 21 tháng 2 Sư tịch ở chùa Diệu Hỉ núi Cối Kê, thọ 87 tuổi.
Vương Sư Càn lập tháp thờ ở Cối Kê và làm bài minh.
*
* *
12. THIỀN SƯ HÀNH TƯ NÚI THANH NGUYÊN, KIẾT CHÂU.
Người An Thành, bổn châu (Kiết Châu), họ Lưu. Xuất gia hồi còn trẻ thơ. Mỗi lần những người ở chung bàn luận đạo lý, chỉ có Sư giữ im lặng.
Sau nghe tiếng pháp tịch Tào Khê, bèn đến tham lễ.
Sư hỏi:
- Phải chuyên làm gì thì không rơi vào giai cấp?
Tổ hỏi:
- Ông đã từng làm việc gì?
Sư đáp:
- Thánh đế cũng chẳng làm.
Tổ hỏi:
- Vậy rơi vào giai cấp nào?
Đáp:
- Thánh đế còn chẳng làm, có gì là giai cấp đâu?
Tổ rất thừa nhận Sư. Trong pháp hội Tào Khê học đồ dù đông người, Sư là người đứng đầu, cũng như ở Thiếu Lâm Nhị Tổ không nói vì thế mà được tủy vậy.
Một hôm Tổ bảo Sư:
- Từ trước y pháp cả hai lần lượt thầy truyền cho trò, y tiêu biểu để tin, pháp để ấn tâm. Nay ta có được người, lo gì người chẳng tin? Ta từ nhận y đến nay gặp nhiều tai nạn, huống chi đời sau sự cạnh tranh ắt càng nhiều, y thì giữ lại ở sơn môn, ông nên tách ra giáo hóa một nơi, không để cho đứt mất.
Sau khi đắc pháp, Sư trụ trì chùa Tĩnh Cư núi Thanh Nguyên, Kiết Châu.
Lục tổ sắp thị hiện nhập diệt, có sa di Hy Thiên (tức là Hòa thượng Thạch Đầu, Nam Nhạc) hỏi Tổ:
- Sau khi Hòa thượng trăm tuổi, Hy Thiên chưa biết phải nương tựa ai?
Tổ dạy:
- Tầm Tư đi.
Khi Tổ qua đời, Hy Thiên thường đến chỗ vắng tọa thiền, tâm rỗng lặng hầu như quên sự sống. Đệ nhất tòa hỏi:
- Thầy đã mất, ông ngồi không ở đây làm gì?
Thiên đáp:
- Tôi vâng theo di huấn, nên tầm Tư thôi.
Đệ nhất tòa nói:
- Ông có sư huynh là Hòa Thượng Hành Tư nay ở Kiết Châu, nhân duyên ông ở đó. Lời thầy rất ngay thẳng, tự ông mê vậy.
Thiên nghe nói bèn lễ từ khám Tổ, rồi đi thẳng đến chùa Tĩnh Cư.
Sư hỏi:
- Ông từ đâu đến?
Thiên đáp:
- Tào Khê.
Sư hỏi:
- Đem được cái gì đến đây?
Đáp:
- Chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.
Sư nói:
- Như thế thì dùng đi, đến Tào Khê làm gì?
Đáp:
- Nếu chẳng đến Tào Khê, đâu biết chẳng mất.
Thiên lại hỏi:
- Đại sư Tào Khê có biết Hòa thượng chăng?
Sư hỏi:
- Ông nay biết ta chăng?
Đáp:
- Biết, nhưng sao có thể biết được?
Sư nói:
- Lồi có sừng tuy nhiều, một con lân là đủ!
Thiên lại hỏi:
- Hòa thượng rời Tào Khê bao lâu rồi?
Sư đáp:
- Ta cũng chẳng biết. Ông rời Tào Khê bao lâu rồi?
Đáp:
- Hy Thiên chẳng từ Tào Khê đến.
Sư nói:
- Ta cũng biết chỗ ông đi.
Đáp:
- Hòa thượng vốn là bậc đại nhân, chớ nên vội vàng.
*
* *
Một ngày khác Sư lại hỏi Thiên:
- Ông từ đâu đến?
Đáp:
- Tào Khê.
Sư bèn đưa cây phất tử lên, hỏi:
- Tào Khê có cái này không?
Đáp:
- Không những Tào Khê mà Tây Thiên cũng không có.
Sư hỏi:
- Ông chưa từng đến Tây Thiên ư?
Đáp:
- Nếu đến liền có.
Sư nói:
- Chưa đâu! Nói lại đi.
Đáp:
- Hòa thượng cũng phải nói giúp một nửa, chớ nên trông cậy hết ở học nhân.
Sư nói:
- Không từ chối nói với ông, chỉ sợ về sau không có người gánh vác.
*
* *
Sư sai Hy Thiên đem thư đến Hòa thượng Hồi Nhượng ở Nam Nhạc, dặn:
- Ông chuyển đạt thư rồi, hãy về gấp. Ta có cái búa cùn dành cho ông trụ núi.
Thiên đến đó chưa trình thư, liền hỏi:
- Khi chẳng mộ chư Thánh, chẳng trọng tánh linh mình thì thế nào?
Nhượng nói:
- Ông hỏi cao quá đí! Sao không hỏi thấp xuống.
Thiên đáp:
- Thà chịu vĩnh kiếp trầm luân chứ không mộ chư thánh giải thốt.
Nhượng bèn thôi.
Thiên về tới chùa Tĩnh Cư, Sư hỏi:
- Ông đi chưa lâu, đưa thư tới không?
Thiên đáp:
- Tin tức cũng chẳng thông, thư đưa cũng chẳng tới.
Sư hỏi:
- Vì sao?
Thiên nhắc lại tiền thoại, rồi nói:
- Lúc ra đi được Hòa thượng hứa cho cái búa cùn, tiện đây xin lấy.
Sư thõng một chân xuống, Thiên lễ bái. Chẳng bao lâu Sư từ giã đi Nam Nhạc.
(Huyền Sa nói: Hòa thượng Thạch Đầu lớn được nhỏ được, bị sư Hồi Nhượng xô ngã tới nay chưa đứng dậy được)
*
* *
Hà Trạch Thần Hội đến tham vấn. Sư hỏi:
- Ở đâu đến?
Hội đáp:
- Tào Khê.
Sư hỏi:
- Ý chỉ Tào Khê ra sao?
Thần Hội chấn chỉnh thân rồi thôi. Sư nói:
- Vẫn còn mang ngói gạch đấy.
Hỏi:
- Trong đó Hòa thượng không có vàng ròng để cho người ư?
Sư nói:
- Giá có cho, ông để ở đâu?
(Huyền Sa nói: Đúng vậy. Vân Cư Tích hỏi: Như Huyền Sa nói “đúng vậy”, thì đó là vàng ròng hay là ngói gạch?)
*
* *
Tăng hỏi:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư nói:
- Gạo ở Lô Lăng giá cả ra sao?
*
* *
Sư đã truyền pháp cho Thạch Đầu. Năm Đường Khai Nguyên thứ 28, nhằm năm canh thìn 740, ngày
13 tháng chạp, Sư thăng đường báo chúng rồi ngồi kiết già mà tịch.
Vua Đường Hy Tông (874 – 888) ban thụy hiệu là Hoằng Tế Thiền Sư, tháp là Quy Chơn.
*
* *
13. THIỀN SƯ HỒI NHƯỢNG Ở NAM NHẠC.
Người ở Kim Châu, họ Đỗ. Năm 15 tuổi đến chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu nương nhờ luật sư Hoằng Cảnh xuất gia. Sau khi thọ giới cụ túc, thực tập tạng tỳ ni (luật, oai nghi).
Một hôm tự than: “Phàm người xuất gia phải vì pháp vô vi”. Lúc ấy bạn đồng học là Thản Nhiên biết ý chí Sư cao siêu, khuyên Sư cùng đến yết kiến Hòa thượng Huệ An ở Tung Sơn, Huệ An mở mang tri thức cho Sư. Rồi Sư đi thẳng đến Tào Khê tham Lục Tổ.
Tổ hỏi:
- Từ đâu đến?
Đáp:
- Từ Tung Sơn đến.
Tổ hỏi:
- Vật nào đến như thế?
Đáp:
- Nói giống như một vật thì không trúng.
Tổ hỏi:
- Có thể tu chứng không?
Đáp:
- Tu chứng thì chẳng không, nhiễm ô thì không được.
Tổ nói:
- Chính cái không nhiễm ô đó mà chư Phật hộ niệm, ông đã như thế ta cũng như thế. Tổ Bát Nhã Đa la ở Tây Thiên có lời sấm ký rằng “Dưới chân ông sẽ xuất hiện một con ngựa tơ đạp chết người trong thiên hạ”, đều ở tâm ông không cần nói sớm.
Sư khế hội thông suốt, ở hầu hạ thân cận bên Tổ suốt 15 năm. Năm Đường Tiên Thiên thứ hai (713 – Đường Huyền Tông), Sư đến Hành Nhạc ở chùa Bát Nhã.
Khoảng năm Khai Nguyên (713 – 741, Đường Huyền Tông), có sa môn Đạo Nhất (Tức là Mã Tổ
Đại sư) hàng ngày tọa thiền ở viện Truyền Pháp. Sư biết đó là pháp khí, đến hỏi:
- Đại đức ngồi thiền để cầu cái gì?
Nhất đáp:
- Cầu làm Phật.
Sư bèn lấy một cục gạch, mài trên đá ở trước am của Đạo Nhất.
Nhất hỏi:
- Thầy làm gì vậy?
Sư đáp:
- Mài để làm gương.
Nhất nói:
- Mài gạch đâu thành gương được ư?
Sư hỏi:
- Ngồi thiền đâu thành Phật được ư?
Nhất hỏi:
- Thế nào mới phải?
Sư nói:
- Như người đi xe bò, xe không đi đánh xe là phải hay đánh bò là phải?
Đạo Nhất không đáp được. Sư lại nói:
- Ông học ngồi thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi thiền thì thiền chẳng phải nằm ngồi; nếu học ngồi Phật thì Phật chẳng phải tướng nhất định nào, nơi pháp vô trụ không nên thủ xả. Ông ngồi Phật như thế tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi chẳng đạt lý kia (vô trụ).
Nhất nghe chỉ dạy như uống đề hồ, lễ bái hỏi:
- Dụng tâm thế nào mới hợp với vô tướng tam muôi?
Sư đáp:
- Ông học pháp môn tâm địa như gieo hạt giống, ta nói pháp yếu ví như mưa móc trên trời kia, duyên ông ứng hợp sẽ thấy đạo kia.
Lại hỏi:
- Đạo chẳng phải sắc tướng làm sao thấy được?
Sư nói:
- Con mắt pháp của tâm địa hay thấy về đạo, vô tướng tam muội cũng lại như vậy.
Nhất hỏi:
- Có thành hoại không?
Sư đáp:
- Nếu lấy cái thành hoại tụ tán mà thấy đạo thì không phải thấy đạo.
Hãy nghe ta nói kệ:
Tâm địa hàm chư chủng,
Ngộ trạch tất giai manh.
Tam muội hoa vô tướng,
Hà hoại phục hà thành?
Dịch:
Đất tâm chứa hạt giống,
Gặp ướt đều nảy mầm.
Hoa tam muội vô tướng,
Nào hoại lại nào thành?
Nhất nhờ khai ngộ tâm ý siêu nhiên, theo hầu Sư mười năm, ngày càng sâu mầu.
*
* *
Đệ tử nhập thất của Sư gồm có 6 người. Sư ấn khả từng người:
- Các ông sáu người đồng chứng thân ta, mỗi người khế hội một phần.
Người được chân mày ta, giỏi về oai nghi là Thường Hạo;
Người được mắt ta, giỏi về ngó liếc là Trí Đạt;
Người được tai ta, giỏi về nghe lý là Thản Nhiên;
Người được mũi ta, giỏi về biết mùi là Thần Chiếu;
Người được lưỡi ta, giỏi về đàm thuyết là Nghiêm Tuấn;
Người được tâm ta, giỏi về xưa nay là Đạo Nhất.
Sư lại nói:
- Tất cả pháp đều từ tâm sanh, tâm không chỗ sanh pháp không thể trụ. Nếu đạt tâm địa không ngại việc làm, không phải thượng căn nên thận trọng từ chối đi.
*
* *
Có một đại đức hỏi:
- Như gương đúc nên hình tượng, khi hình tượng thành rồi thì ánh sáng gương đi về đâu?
Sư đáp:
- Lúc đại đức còn trẻ thơ, tướng mạo đó bây giờ ở đâu? (Pháp Nhãn riêng hỏi: Cái nào là hình tượng đúc thành đại đức?)
Hỏi:
- Sau khi thành tượng rồi, tại sao không chiếu soi?
Sư đáp:
-Tuy không chiếu soi, nhưng dối y một chút cũng không được.
*
* *
Sau Mã Đại sư đi xiển hóa ở Giang Tây, Sư hỏi chúng:
- Đạo Nhất vì chúng thuyết pháp chăng?
Chúng đáp:
- Đã vì chúng thuyết pháp.
Sư nói:
- Vẫn chưa thấy người đem tin tức về.
Chúng lặng thinh. Nhân đó Sư sai một vị tăng đi thăm, Sư dặn:
- Đợi khi y thượng đường, chỉ hỏi “Làm gì”. Y nói lời nào ghi nhớ đem về đây.
Vị tăng ra đi làm đúng như lời Sư đã dặn. Khi về tăng thưa:
- Mã Sư nói “Từ khi loạn rợ Hồ, sau ba mươi năm ăn chưa từng thiếu dưa muối”.
Sư nhận là đúng.
Năm Thiên Bảo thứ ba (744 – Đường Huyền Tông), ngày 11 tháng 8, Sư viên tịch tại Hành Nhạc. Sắc ban thụy hiệu là Đại Huệ Thiền Sư, tháp hiệu Tối Thắng Luân.
*
* *
14. THIỀN SƯ HUYỀN GIÁC Ở VĨNH GIA, ÔN CHÂU.
Người ở Vĩnh Gia, họ Đới. Xuất gia từ nhỏ, xem khắp tam tạng, tinh thông pháp môn viên diệu Chỉ Quán của Tông Thiên Thai, trong bốn oai nghi thường an trú sâu kíùn thiền quán. Sau nhân thiền sư Lãng ở Tả Khê khích lệ, Sư cùng thiền sư Sách ở Đông Dương đồng đến Tào Khê.
Mới tới, Sư vai mang bình bát đi nhiễu Tổ ba vòng rồi đứng lại chống tích trượng.
Tổ nói:
- Phàm là sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh. Đại đức từ phương nào đến mà sanh đại ngã mạn vậy?
Sư đáp:
- Sanh tử việc lớn, vô thường mau chóng!
Tổ hỏi:
- Sao không thể hội lấy cái vô sanh, liễu ngộ cái không mau chóng ư?
Đáp:
- Thể tức vô sanh, liễu vốn chẳng mau.
Tổ nói:
- Đúng thế, đúng thế!
Lúc đó đại chúng nghe vậy đều ngạc nhiên. Sư bèn đầy đủ oai nghi lễ bái, chốc lát sau từ giã ra về. Tổ bảo:
- Sao về nhanh thế?
Sư đáp:
- Vốn tự chẳng động há có nhanh sao?
Tổ hỏi:
- Ai biết chẳng động?
Đáp:
- Nhân giả tự sanh phân biệt.
Tổ nói:
- Ông thật là đạt ý vô sanh.
Hỏi:
- Vô sanh há có ý sao?
Tổ hỏi:
- Nếu không có ý thì ai phân biệt?
Đáp:
- Phân biệt cũng chẳng phải ý.
Tổ khen:
- Lành thay, lành thay! Hãy ở lại một đêm.
Vì vậy người bấy giờ gọi Sư là Nhất Túc Giác. Huyền Sách ở lại với Sư, sáng hôm sau cùng nhau xuống núi trở về Ôn Giang. Học giả quy tụ rất đông.
Sư được ban hiệu là Chơn Giác Đại Sư.
Sư trước tác một bài Chứng Đạo Ca và Thiền Tông Ngộ Tu Viên Chỉ, từ cạn đến sâu. Thứ sử Khánh Châu là Ngụy Tĩnh kết tập lại và đề tựa, thành mười thiên tên là Vĩnh Gia Tập, đều thạnh hành ở đời.
*
* *
Thứ nhất: Nghi thức lập chí mộ đạo.
Phàm muốn tu đạo, trước hết nên lập chí và thực tập nghi thức phụng sự thầy mới rõ ràng về phép tắc phải thuận theo. Do đó đề mục thứ nhất nói về nghi thức mộ đạo.
Thứ hai: Răn ý kiêu xa (Kiêu căng xa xỉ)
Mục thứ nhất, dù có lập chí tu đạo biết rõ phép tắc oai nghi. Nếu ba nghiệp còn kiêu xa thì vọng tâm khuấy động, làm sao định được? Do đó chương mục thứ hai nói về răn ý kiêu xa.
Thứ ba: Tịnh tu ba nghiệp.
Trước đã nêu sơ lược cương yếu về việc răn cấm kiêu xa. Nay kiểm điểm kỹ lưỡng lại khiến cho lỗi chẳng sanh. Do đó chương thứ ba nói về tịnh tu ba nghiệp, răn cấm về thân khẩu ý.
Thứ tư: Bài tụng về xa-ma-tha (chỉ).
Trước đã kiểm điểm thân khẩu khiến cho lỗi thô không sanh. Kế đến phải nhập môn tu đạo, theo trình tự thì không ngồi định huệ, năm loại tâm khởi, sáu khoa liệu giản. Do đó chương thứ tư nói về bài tụng xa ma tha.
Thứ năm: Bài tụng về tỳ bà xá na (quán).
Không phải giới thì không có thiền, không phải thiền thì không có huệ. Trên đã tu định (chỉ), định lâu thì huệ sáng. Do đó chương thứ năm nói về bài tụng tỳ bà xá na.
Thứ sáu: Bài tụng về ưu tất xoa (xả)
Tu thiên về định, định lâu thì chìm; học thiên về huệ, huệ nhiều thì tâm động. Do đó chương thứ sáu nói về bài tụng ưu tất xoa, quân bình về định huệ sao cho không chìm không động, khiến cho định huệ quân bình rời khỏi nhị biên.
Thứ bảy: Cấp bậc lần lượt của ba thừa
Định huệ quân bình được rồi thì tịch mà thường chiếu, nhất tâm tam quán thì nghi nào không hết, chiếu nào không viên mãn? Tự mình hiểu rõ ràng rồi nhưng thương người chưa ngộ, ngộ có sâu cạn.
Do đó chương thứ bảy nói về cấp bậc lần lượt của ba thừa.
Thứ tám: Sự lý không hai.
Tam thừa ngộ lý, lý thì không đâu không cùng khắp; cùng lý ở nơi sự, liễu sự tức là lý. Do đó chương thứ tám nói về lý sự không hai, ngay nơi sự mà dụng chơn thì loại trừ kiến chấp điên đảo.
Thứ chín: Thư khuyên bạn hữu.
Lý sự đã dung thông thì nội tâm tự sáng, lại thương người học đạo còn xa luống uổng tấc bóng quang âm. Do đó chương thứ chín là thư khuyên bạn hữu.
Thứ mười: Văn phát nguyện.
Khuyên bạn hữu, tuy là thương người nhưng tâm chuyên chú nơi tình cảm thì chưa cùng khắp. Do đó chương thứ mưới nói về văn phát nguyện thệ độ tất cả.
*
* *
Thứ tự mười môn quán tâm: Điều 1. Nói về pháp nhĩ; Điều 2. Nêu ra cái thể hay quán; Điều 3: Bàn về sự tương ưng; Điều 4: Răn ngừa sự thượng mạn;
Điều 5: Răn bảo về sự biếng nhác; Điều 6: Nêu lại cái thể hay quán; Điều 7: Nói về sự thị phi; Điều 8: Chọn lựa thuyên chỉ; Điều 9: Nơi nơi đều thành pháp quán; Điều 10: Diệu khế nguồn huyền.
1. Nói về pháp nhĩ.
Tâm tánh rỗng rang thông suốt với hai tướng động tịnh, nguồn của động tịnh thì không hai; chơn như tuyệt lự, duyên theo niệm chấp trước mà chẳng khác; hoặc kiến rong ruổi lăng xăng mà tột nguồn chỉ là nhất tịch. Nguồn linh không hình trạng, soi gương đó thì có ngàn thứ sai khác; thiên sai bất đồng nên đặt tên pháp nhãn, nhất tịch chẳng phải khác nên cái hiệu huệ nhãn mới có, cả hai lý lượng (lý sự)đều mất thì cái công năng Phật nhãn đầy đủ. Vì vậy tam đế nhất cảnh (tam đế viên dung) nên lý pháp thân hằng thanh tịnh, tam trí nhất tâm(86) nên ánh sáng bát nhã thường chiếu, cảnh và trí thầm hợp nên tùy theo cơ duyên mà giải thốt, chẳng phải dọc chẳng phải ngang nên đạo như chữ Y (*) chơn thật hội ngộ nhau một cách mầu nhiệm(87). Thế nên biết
diệu tánh của tam đức(88) hẳn là không trái nhất tâm, nhất tâm sâu rộng khó lường làm sao ra ngồi yếu đạo này mà theo lối tẽ? Do đó tức tâm là đạo, có thể nói là lần theo dòng mà được nguồn vậy.
2. Nêu ra cái thể hay quán.
Chỉ cần biết một niệm tức là không mà chẳng không (không bất không), chẳng không mà chẳng phải chẳng không (phi không phi bất không).
3. Bàn về sự tương ưng.
Tâm tương ưng với không thì việc khen chê vinh nhục đâu phải mừng đâu phải lo. Thân tương ưng với không thì dao cắt hay hương xoa có gì khổ có gì sướng. Y báo tương ưng với không thì người ta cho hay cướp đoạt cũng đâu có gì được mất.
Tâm tương ưng với không bất không thì ái kiến đều quên từ bi cứu khắp tất cả. Thân tương ưng với không bất không thì bên trong đồng với cây khô, bên ngồi hiện đủ oai nghi. Y báo tương ưng với không bất không thì vĩnh viễn không còn tham cầu mà còn đem tiền của giúp người.
Tâm tương ưng với không bất không và phi không phi bất không thì thật tướng bắt đầu sáng tỏ, khai mở tri kiến Phật. Thân tương ưng với không bất không và phi không phi bất không thì nhất trần nhập chánh thọ, chư trần khởi trong tam muội. Y báo tương ưng với không bất không và phi không phi bất không thì hóa sanh đài hương, lầu báu và cõi nước trang nghiêm.
4. Răn ngừa sự thượng mạn.
Nếu chưa được như trên thì chưa tương ưng.
5. Răn bảo về sự biếng nhác.
Nhưng qua biển cần phải lên thuyền, không nhờ thuyền thì làm sao qua được? Tu tâm ắt phải vào pháp quán, không nhờ quán lấy gì để minh tâm. Tâm còn chưa minh thì ngày nào tương ưng? Hãy suy xét kỹ, chớ nên ỷ mình.
6. Nêu lại cái thể hay quán.
Chỉ biết một niệm tức là không bất không và phi hữu phi vô mà chẳng biết tức niệm là không bất không và phi phi hữu phi phi vô.
7. Nói về sự thị phi.
Tâm chẳng phải có (hữu), tâm chẳng phải không (vô), tâm chẳng phải phi hữu, tâm chẳng phải phi vô. Chấp tâm là hữu là vô, là rơi vào thị; phi hữu phi vô, là rơi vào phi. Như vậy, chỉ là cái phi (chẳng phải) của thị và phi, chưa phải là cái thị (phải) của phi thị và phi phi. Nay đem hai cái phi để phá hai cái thị, cái thị đem phá phi thị đó vẫn còn là phi. Lại dùng hai cái phi để phá hai cái phi, cái phi dùng phá phi phi đó tức là thị. Như vậy, chỉ là cái thị của phi thị và phi phi, chưa phải là bất phi bất bất phi bất thị bất bất thị. Cái lầm lẫn do thị phi nó ràng rịt vi tế khó thấy, phải có tinh thần trong sáng yên tĩnh để nghiên cứu tỉ mỉ đó.
8. Chọn lựa thuyên chỉ(89).
Nhưng mà chí lý thì không lời, mượn văn ngôn để nói về ý chỉ của chí lý. Ý chỉ và tông thú chẳng phải là quán, nhờ tu quán mới hội được tông chỉ. Nếu ý chỉ chưa rõ ràng thì lời chưa đúng, nếu tông thú chưa
hội thì quán chưa sâu; quán sâu mới hội được tông thú, lời đúng ắt rõ được ý chỉ. Ý chỉ và tông thú đã hiểu rõ rồi thì ý chỉ và quán đâu còn tồn tại nữa.
9. Nơi nơi đều thành pháp quán.
Phàm tái diễn ngôn từ, nêu lại thể quán là muốn nói rằng tông thú và ý chỉ không khác. Lời nói và quán có đối tượng mà đổi dời. Đổi dời nhưng lời nói và lý không sai khác, không sai khác thì quán và ý chỉ chẳng khác. Ý chỉ chẳng khác tức là lý, lý không khác tức là tông. Tông thú và ý chỉ tuy hai tên mà là một, lời nói và quán phô diễn ra e làm lờn mặt con cháu thôi.
10. Diệu khế nguồn huyền.
Phàm người ngộ tâm sao lại chấp quán mà mê ý chỉ, người đạt giáo đâu thể kẹt lời mà lầm lý. Tỏ lý thì đường ngôn ngữ dứt, còn lời nào luận bàn được; hội ý chỉ thì hết tâm hành, quán nào có thể nghĩ tới? Cái mà tâm và lời không thể nghĩ bàn, thật đáng là diệu khế hoàn trung(90) vậy.
*
* *
Năm Tiên Thiên thứ hai (713), ngày 17 tháng 10, Sư ngồi an nhiên thị hiện nhập diệt. Ngày 13 tháng 11 xây tháp thờ ở phía nam Tây Sơn. Sắc ban thụy hiệu Vô Tướng Đại Sư, tháp hiệu Tịnh Quang.
Nhà Bắc Tống, trong năm Thuần Hóa (990 – 994) hồng đế Thái Tông ban chiếu, lệnh bổn châu trùng tu khám, tháp Sư.
*
* *
15. THIỀN SƯ BỔN TỊNH NÚI TƯ KHÔNG.
Người Giáng Châu, họ Trương. Thuở nhỏ đắp y đến thất Tào Khê được thọ ký. Sau Sư đến ở chùa Vô Tướng, thuộc núi Tư Không.
Nhà Đường năm Thiên Bảo thứ ba 744, vua Đường Huyền Tông sai trung sứ Dương Quang Đình vào núi hái dây thường xuân. Nhân gặp trượng thất lễ bái Sư và thưa:
- Đệ tử mộ đạo đã lâu rồi, xin Hòa thượng từ bi tóm tắt chỉ dạy:
Sư nói:
- Hàng thạc học thiền tông trong thiên hạ đều hội tụ về kinh sư, thiên sứ nên trở về triều đủ để thưa
hỏi và giải quyết cho. Bần đạo ở góc núi cạnh khe, không có chỗ dụng tâm.
Quang Đình khóc lóc làm lễ. Sư nói:
- Đừng lễ bần đạo! Thiên sứ vì cầu Phật hay vì hỏi đạo ư?
Đáp:
- Đệ tử trí thức tối tăm, chưa biết Phật với đạo nghĩa ấy thế nào?
Sư nói:
- Nếu muốn cầu Phật, tức tâm là Phật. Nếu muốn hội đạo, vô tâm là đạo.
Hỏi:
- Thế nào tức tâm là Phật?
Sư đáp:
- Nhân tâm ngộ Phật, nhờ Phật rõ tâm. Nếu ngộ vô tâm thì Phật cũng chẳng có.
Hỏi:
- Thế nào vô tâm là đạo?
Sư đáp:
- Đạo vốn vô tâm, vô tâm gọi là đạo. Nếu liễu ngộ vô tâm thì vô tâm tức là đạo.
Quang Đình tin nhận đảnh lễ. Về triều, Đình tâu lên vua đầy đủ việc gặp Sư trong núi. Vua ban sắc sai Quang Đình đi thỉnh Sư.
Ngày 13 tháng chạp Sư đến kinh sư, vua thỉnh Sư ở đình Bạch Liên. Đến ngày rằm tháng giêng năm sau 745, vua triệu tập các bậc thạc học, danh tăng thuộc Lưỡng nhai, phó hội ở nội đạo tràng cùng Sư xiển dương Phật lý.
*
* *
Bấy giờ có thiền sư Viễn cất tiếng hỏi Sư:
- Nay trước thánh thượng để xét lường tông chỉ, cần phải hỏi thẳng đáp thẳng, không cần dùng nhiều lời. Như chỗ thấy của thiền sư, lấy gì làm đạo?
Sư đáp:
- Vô tâm là đạo.
Viễn hỏi:
- Đạo do tâm mà có, sao nói vô tâm là đạo được?
Sư đáp:
- Đạo vốn không tên, do tâm mới gọi là đạo. Cái tâm và tên gọi có bao nhiêu thì đạo chơn thật cũng bấy nhiêu, tột cùng tâm đã không (vô) thì nương vào đâu mà lập đạo? Cả hai tên (tâm và đạo) đều hư vọng, đều là giả danh.
Viễn hỏi:
- Thiền sư thấy thân tâm là đạo hay không?
Sư đáp:
- Thân tâm sơn tăng xưa nay là đạo.
Viễn nói:
- Vừa nói vô tâm là đạo, giờ lại nói thân tâm xưa nay là đạo, đâu không trái nhau?
Sư đáp:
- Vô tâm là đạo, tâm mất đạo không, tâm và đạo nhất như nên nói vô tâm là đạo. Thân tâm xưa nay là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không(91) đạo tột nguồn cũng chẳng có.
Viễn nói:
- Xem hình tướng thiền sư rất nhỏ, đâu thể hội được lý đó.
Sư nói:
- Đại đức, ngài chỉ thấy tướng sơn tăng, chẳng thấy cái vô tướng của sơn tăng. Thấy tướng, đó là cái thấy của đại đức, Kinh nói “Phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức ngộ đạo kia”. Nếu lấy tướng cho là thật thì cùng kiếp không thể ngộ đạo.
Viễn nói:
- Nay thỉnh thiền sư ở trên tướng nói về vô tướng.
Sư nói:
- Kinh Tịnh Danh nói “Tứ đại không chủ tể, thân cũng không ngã, cái thấy không ngã tương ưng với đạo”. Nầy đại đức, nếu cho tứ đại có chủ, đó là có ngã; nếu có ngã kiến cùng kiếp không thể hội đạo.
Viễn công nghe nói thất sắc, thấy chột dạ rút lui.
Sư có bài kệ:
Tứ đại vô chủ phục như thủy,
Ngộ khúc phùng trực vô bỉ thử.
Tịnh uế lưỡng xứ bất sanh tâm,
Ủng quyết hà tằng hữu nhị ý.
Xúc cảnh đãn tợ thủy vô tâm,
Tại thế tung hồnh hữu hà sự?
Dịch:
Tứ đại không chủ giống như nước,
Dù gặp cong ngay chẳng đây kia.
Hai nơi dơ sạch chẳng sanh tâm,
Thông bít chưa từng ý có hai.
Xúc cảnh vô tâm chỉ như nước,
Tại thế tung hồnh có việc chi?
Sư lại nói:
- Một đại như thế, tứ đại cũng vậy. Nếu rõ tứ đại không chủ tể tức là ngộ vô tâm, nếu liễu ngộ vô tâm thì tự nhiên hợp đạo.
*
* *
Lại có thiền sư Chí Minh hỏi:
- Nếu nói vô tâm là đạo thì ngói gạch vô tâm cũng nên là đạo? Lại nói “Thân tâm xưa nay là
đạo” thì thập loại tứ sanh đều có thân tâm cũng nên là đạo?
Sư nói:
- Đại đức nếu hiểu bằng kiến văn giác tri(92) thì khác xa với đạo; tức là người cầu kiến văn giác tri chẳng phải là người cầu đạo. Kinh nói “Vô nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý”. Sáu căn còn không, kiến văn giác tri nương vào đâu mà lập? Cùng tột cội nguồn chẳng có thì chỗ nào còn tâm? Sao chẳng đồng với cỏ cây gạch ngói được?
Chí Minh lăng thinh thối lui.
Sư lại có kệ rằng:
Kiến văn giác tri vô chướng ngại,
Thanh hương vị xúc thường tam muội.
Như điểu không trung chỉ ma phi,
Vô thủ vô xả vô tắng ái.
Nhược hội ứng xứ bổn vô tâm,
Thủy đắc danh vi Quán Tự Tại.
Dịch:
Kiến văn giác tri không chướng ngại,
Thanh hương vị xúc thường tam muội.
Như chim trong không mặc tình bay,
Không thủ không xả không thương ghét.
Nếu hội đối cảnh vốn vô tâm,
Mới được tên là Quán Tự Tại.
*
* *
Lại có thiền sư Chơn hỏi:
- Đạo đã vô tâm, Phật có tâm chăng? Phật với đạo là một là hai?
Sư đáp:
- Chẳng một chẳng khác.
Hỏi:
- Phật độ chúng sanh vì có tâm, đạo không độ người vì vô tâm. Một độ một không độ, đâu được không hai?
Sư đáp:
- Nếu nói Phật độ chúng sanh, đạo không độ chúng sanh, đó là đại đức vọng sanh nhị kiến (thấy có hai). Theo sơn tăng thì không phải vậy. Phật là danh hão, đạo cũng dối lập, cả hai đều không thật, tồn là giả danh. Trong một cái giả sao lại phân làm hai?
Hỏi:
- Phật với đạo dù là giả danh, đang lúc lập danh thì ai lập đó? Nếu có người lập, sao nói là không được?
Sư đáp:
- Phật với đạo nhơn tâm mà lập, xét cho cùng cái tâm hay dựng lập, tâm ấy cũng là không. Tâm đã là không thì ngộ cả hai (Phật và đạo) đều chẳng thật, biết như mộng huyễn liền ngộ cái vốn không. Gượng lập hai tên Phật đạo, đó là kiến giải của những người nhị thừa.
Sư bèn nói bài kệ vô tu vô tác:
Kiến đạo phương tu đạo,
Bất kiến phục hà tu?
Đạo tánh như hư không,
Hư không hà sở tu?
Biến quan tu đạo giả,
Bác hỏa mịch phù âu.
Đãn khán lộng khối lỗi,
Tuyến đoạn nhất thời hưu.
Dịch:
Thấy đạo mới tu đạo,
Không thấy làm sao tu?
Tánh đạo như hư không,
Hư không tu chỗ nào?
Xem hết người tu đạo,
Vạch lửa tìm bọt nổi.
Xem con rối diễn trò,
Dây đứt liền đó ngưng.
*
* *
Lại có thiền sư Pháp Không hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, mười hai phần giáo cũng phải chẳng thật, vì sao các bậc tôn túc từ trước đều nói tu đạo?
Sư đáp:
- Đại đức hiểu lầm ý kinh. Đạo vốn không tu mà đại đức ép tu, đạo vốn không tạo tác mà đại đức ép tạo tác, đạo vốn vô sự mà cưỡng sanh đa sự, đạo vốn vô tri mà cưỡng tri trong đó. Kiến giải như thế cùng đạo trái nhau. Các bậc tôn túc từ trước đâu phải như thế, tự đại đức không hội, xin suy gẫm đó.
Sư lại có kệ:
Đạo thể bổn vô tu,
Bất tu tự hợp đạo.
Nhược khởi tu đạo tâm,
Thử nhân bất hội đạo.
Khí khước nhất chơn tánh,
Khước nhập náo hạo hạo.
Hốt phùng tu đạo nhân,
Đệ nhất mạc hướng đạo.
Dịch:
Thể đạo vốn không tu,
Chẳng tu tự hợp đạo.
Nếu khởi tâm tu đạo,
Người đó không hội đạo.
Bỏ mất một tánh chơn,
Lại vào ồn bề bộn.
Chợt gặp người tu đạo,
Tốt nhất đừng nói đạo.
*
* *
Lại có thiền sư An hỏi:
- Đạo đã giả danh, Phật đã vọng lập, mười hai phần giáo cũng là để tiếp vật độ sanh. Tất cả là vọng, lấy gì là chơn?
Sư đáp:
- Vì có vọng nên đem chơn đối vọng. Suy cho cùng tánh của vọng vốn không, nên chơn có bao giờ có đâu? Thế nên biết chơn vọng đều là giả danh, hai việc đối đãi đều không thật thể, suy cho cùng cội gốc chúng thì tất cả đều không (rỗng không).
Hỏi:
- Đã nói tất cả là vọng, vọng cũng đồng chơn. Chơn vọng không khác, lại là vật gì?
Sư đáp:
- Nếu nói vật gì, vật gì cũng vọng. Kinh nói “Không tương tợ, không so sánh, bặt đường nói năng như chim bay trong hư không”.
An công thẹn mà phục, chẳng biết nên làm sao.
Sư lại có kệ:
Suy chơn chơn vô tướng,
Cùng vọng vọng vô hình.
Phản quán suy cùng tâm,
Tri tâm diệc giả danh.
Hội đạo diệc như thử,
Đáo đầu diệc chỉ ninh.
Dịch:
Xét chơn chơn vô tướng,
Tìm vọng vọng vô hình.
Xem lại tâm xét tìm,
Biết tâm cũng giả danh.
Hội đạo cũng như vậy,
Kết thúc chỉ thế thôi.
*
* *
Lại có thiền sư Đạt Tánh hỏi:
- Thiền là chí vi chí diệu, chơn vọng cả hai đều mất, Phật đạo cả hai chẳng còn, tu hành tánh không danh tướng chẳng thật, thế giới như huyễn, tất cả đều giả danh. Đến lúc đạt kiến giải này, cũng đâu thể cắt đứt hai gốc thiện ác của chúng sanh?
Sư đáp:
- Hai gốc thiện ác đều nhân tâm mà có, tìm xét nếu có tâm thì hai gốc cũng thật, xét tâm đã không thì hai gốc nhân đâu mà lập? Kinh nói “Pháp thiện bất thiện từ tâm hóa sanh, nghiệp duyên thiện ác vốn không thật có”.
Sư lại có kệ:
Thiện ký tòng tâm sanh,
Ác khởi ly tâm hữu?
Thiện ác thị ngoại duyên,
Ư tâm thực bất hữu.
Xả ác tống hà xứ?
Thủ thiện linh thùy thủ?
Thương ta nhị kiến nhân,
Phan duyên lưỡng đầu tẩu.
Nhược ngộ bổn vô tâm,
Thủy hối tòng tiền cữu.
Dịch:
Thiện đã từ tâm sanh,
Ác há lìa tâm có?
Thiện ác là duyên ngồi,
Nơi tâm thật chẳng có.
Bỏ ác vứt đi đâu?
Lấy thiện bảo ai giữ?
Thương thay người nhị kiến,
Bám lấy hai đầu chạy.
Nếu` ngộ tâm vốn không,
Mới hối lỗi từ trước.
*
* *
Lại có quan cận thần hỏi:
- Thân này từ đâu đến? Sau khi trăm tuổi lại về đâu?
Sư đáp:
- Như người lúc mộng từ đâu mà đến? Khi thức giấc từ đâu mà đi?
Quan nói:
- Lúc mộng không thể nói là không, thức rồi không thể nói có. Tuy có có không mà không có chỗ đến đi.
Sư nói:
- Thân bần đạo đây cũng như mộng.
Lại có kệ:
Thị sanh như tại mộng,
Mộng lý thật thị náo.
Hốt giác vạn sự hưu,
Hồn đồng thụy thời ngộ.
Trí giả hội ngộ mộng,
Mê nhân tín mộng náo.
Hội mộng như lưỡng ban,
Nhất ngộ vô biệt ngộ(93).
Phú quý dữ bần tiện,
Cánh diệc vô biệt lộ.
Dịch:
Xem sống như đang mộng,
Trong mộng thật là ồn.
Chợt tỉnh muôn việc ngừng,
Lại đồng tỉnh giấc ngủ.
Người trí biết tỉnh mộng,
Kẻ mê tin mộng ồn.
Biết mộng như hai việc,
Một ngộ, không ngộ khác.
Giàu sang và nghèo hèn,
Lại cũng không đường khác.
Năm Thượng Nguyên thứ hai (761 - Đường Túc Tông), ngày mùng 5 tháng 5 Sư quy tịch.
Vua ban thụy hiệu Đại Hiểu Thiền Sư.
*
* *
16. THIỀN SƯ HUYỀN SÁCH Ở VỤ CHÂU.
Người ở Kim Hoa, Vụ Châu. Xuất gia du phương, khi đến Hà Sóc nghe có thiền sư Trí Hồng. Hồng từng tham kiến Ngũ Tổ Hồng Mai, ở am hai mươi năm tự cho mình đạt chánh thọ.
Sư biết sở đắc Hồng chưa phải chơn, đến gặp và hỏi:
- Ông ngồi ở đây làm gì?
Hồng đáp:
- Nhập định.
Sư hỏi:
- Ông nói nhập định mà hữu tâm hay vô tâm ư? Nếu là hữu tâm (nhập định) thì tất cả lồi xuẩn động đều phải đắc định, nếu là vô tâm (nhập định) thì tất cả lồi thảo mộc cũng nên đắc định.
Đáp:
- Đang lúc tôi nhập định, chẳng thấy có tâm hữu vô.
Sư nói:
- Đã chẳng thấy có tâm hữu vô tức là thường định, có gì xuất nhập? Nếu có xuất nhập thì chẳng phải đại định.
Hồng không nói, hồi lâu mới hỏi Sư nối pháp ai.
Sư đáp:
- Thầy tôi là Lục Tổ ở Tào Khê.
Hỏi:
- Lục Tổ lấy gì làm thiền định?
Sư đáp:
- Thầy tôi nói “Diệu trạm viên tịch thể dụng như như, ngũ ấm vốn rỗng không sáu trần chẳng phải có, không xuất không nhập không định không loạn, tánh thiền vô trụ lìa trụ thiền tịch, tánh thiền vô sanh lìa sanh thiền tưởng. Tâm như hư không cũng không có cái biết về hư không.
Hồng nghe lời nói này, bèn bắt đầu đến Tào Khê xin giải quyết lớp nghi. Nhưng ý Tổ và ý Sư rất phù hợp, Hồng mới khai ngộ.
Về sau, Sư lại trở về Kim Hoa, mở rộng pháp tịch.
*
* *
17. THIỀN SƯ LINH THAO Ở TÀO KHÊ.
Người ở Kiết Châu, họ Trương. Theo Lục Tổ xuất gia, ở bên Tổ chưa từng gián đoạn, khi Tổ quy tịch mới làm tháp chủ trông coi y bát.
Năm Đường Khai Nguyên thứ tư 716, vua Đường Huyền Tông nghe đồn đức hạnh, ban chiếu mời Sư đến cửa khuyết, Sư từ chối bệnh đi không nổi.
Năm Thượng Nguyên nguyên niên 760, vua Đường Túc Tông sai sứ rước y truyền pháp vào cung cúng dường, vì thế sắc ban Sư đi theo y vào triều. Sư cũng lấy cớ bệnh để từ chối.
Sư tịch ở bổn sơn (chùa Nam Hoa Thiều Châu), thọ 95 tuổi.
Sắc ban thụy hiệu là Đại Hiểu Thiền Sư.
*
* *
18. QUỐC SƯ HUỆ TRUNG CHÙA QUANG TRẠCH, TÂY KINH.
Người huyện Chư Ký, Việt Châu (Chiết Giang), họ Nhiễm. Từ khi thọ tâm ấn nơi Lục Tổ, Sư ở cốc Đảng Tử, núi Bạch Nhai, huyện Nam Dương (Hà Nam) trên 40 năm không xuống núi. Đạo hạnh được đồn xa đến tai vua.
Năm Thượng Nguyên thứ hai 761, vua Đường Túc Tông sắc lệnh quan trung sứ Tôn Triều Tấn mang chiếu đi mời Sư đến kinh đô. Vua đãi Sư theo lễ thầy trò. Ban đầu Sư ở viện Tây Thiền chùa Thiên Phước, đến triều vua Đại Tông cai trị lại đón Sư đến ở chùa Quang Trạch. Mười sáu năm, Sư tùy cơ duyên thuyết pháp.
Bấy giờ có Đại Nhĩ Tam Tạng ở Tây Thiên, đến kinh đô nói rằng ông được tha tâm thông và huệ nhãn. Vua ban lệnh cho quốc sư xét nghiệm; Tam Tạng vừa gặp Sư liền lễ bái rồi đứng bên hữu Sư. Sư hỏi:
- Ông được tha tâm thông chăng?
Đáp:
- Chẳng dám.
Sư hỏi:
- Ông nói xem, hiện giờ lão tăng đang ở đâu?
Đáp:
- Hòa thượng là thầy cả nước, sao được đến Tây Xuyên xem đua thuyền bơi?
Sư lại hỏi:
- Ông nói xem, hiện giờ lão tăng đang ở đâu?
Đáp:
- Hòa thượng là thầy cả nước, sao được ở trên cầu Thiên Tân xem khỉ làm trò?
Lần thứ ba, Sư cũng hỏi y như trước, Tam Tạng yên lặng một hồi lâu mà không biết chỗ đi.
Sư nạt:
- Dã hồ tinh này! Tha tâm thông ở đâu?
Tam Tạng lặng thinh.
(Tăng hỏi Ngưỡng Sơn:
- Lần thứ ba tại sao Đại Nhĩ Tam Tạng không thấy Quốc sư?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Hai lần đầu tâm (Quốc sư) có quan hệ với cảnh, lần cuối (tâm Quốc sư) nhập tam muội tự thọ dụng cho nên (Tam Tạng) không thấy.
Lại có tăng nêu tiền ngữ hỏi Huyền Sa. Huyền Sa đáp:
- Ông nói xem, hai lần đầu (Tam Tạng) có thấy (Quốc sư) không?
Huyền Giác hỏi:
- Hai lần đầu (Tam Tạng) thấy như thế, sau đó tại sao không thấy? Hãy nói xem, lợi hại ở chỗ nào?
Tăng hỏi Triệu Châu:
- Lần thứ ba Đại Nhĩ Tam Tạng không thấy Quốc sư, chưa biết Quốc sư ở đâu?
Triệu Châu đáp:
- Ở trên cái lỗ mũi của Tam Tạng.
Tăng hỏi Huyền Sa:
- Đã ở trên cái lỗ mũi, tại sao (Tam Tạng) không thấy?
Huyền Sa đáp:
- Chỉ vì quá gần.)
*
* *
Một hôm Sư gọi thị giả, thị giả ứng dạ. Gọi như thế ba lần thị giả đều dạ ba lần. Sư nói:
- Tưởng là ta cô phụ ngươi, chính là ngươi cô phụ ta.
(Tăng hỏi Huyền Sa:
- Quốc sư gọi thị giả, ý đó thế nào?
Huyền Sa đáp:
- Chính là thị giả hội.
Ngài Vân Cư Tích nói:
- Hãy nói xem thị giả hội hay chẳng hội? Nếu nói hội thì sao Quốc sư nói “Ngươi cô phụ ta”, nếu nói không hội thì sao Huyền Sa nói “Chính thị giả hội”. Vả làm sao thương lượng?
Huyền Giác đem hỏi vị tăng:
- Đâu là chỗ thị giả hội?
Tăng đáp:
- Nếu không hội đâu biết dạ như thế.
Huyền Giác nói:
- Ông hội chút đấy!
Giác lại nói:
- Nếu trong đây thương lượng được thì thấy Huyền Sa.
Tăng hỏi Pháp Nhãn:
- Quốc sư gọi thị giả, ý thế nào?
Pháp Nhãn bảo:
- Hãy đi, khi khác đến.
Vân Cư Tích hỏi:
- Pháp Nhãn nói như thế, làm rõ ý Quốc sư hay không làm rõ ý Quốc sư?
Tăng hỏi Triệu Châu:
- Quốc sư gọi thị giả, ý thế nào?
Triệu Châu đáp:
- Như người viết chữ ở trong chỗ tối, tuy chữ không thành mà văn thái đã rõ ràng.)
*
* *
Nam Tuyền đến tham vấn. Sư hỏi:
- Từ đâu đến?
Đáp:
- Từ Giang Tây đến.
Sư hỏi:
- Có đem được cái chơn tướng của Mã Đại sư đến không?
Đáp:
- Chỉ đây nè.
Sư nói:
- Đằng sau lưng.
Nam Tuyền bèn thôi.
(Trường Khánh Huệ Lăng nói: “Giống hệt như không biết nhau”. Bảo Phước triển khai: “Trong đó, (Nam Tuyền) hầu như không đến Hòa thượng”. Vân Cư Tích nói: “Hai vị tôn giả này hết sức đỡ đằng sau lưng, cũng như Nam Tuyền thôi vì phải đỡ trước mặt và đỡ sau lưng)
*
* *
Ma Cốc đến tham kiến, đi nhiễu giường thiền ba vòng rồi chống tích trượng mà đứng trước mặt Sư. Sư bảo:
- Đã như thế cần gì đến gặp bần đạo?
Ma Cốc lại chống tích trượng. Sư nạt:
- Dã hồ tinh này! Đi đi.
*
* *
Sư thượng đường dạy chúng: Người học thiền tông nên tuân lời Phật dạy về nhất thừa liễu nghĩa mà khế hợp nguồn tâm mình, lời dạy bất liễu nghĩa chẳng hứa cùng nhau. Như lồi trùng trong thân sư tử, khi vì người làm thầy nếu dính mắc lợi danh, riêng bày điều dị đoan thì mình và người có ích lợi gì? Như người thợ mộc giỏi của thế gian, búa rìu không đứt tay họ; sức con hương tượng mang, con lừa không thể kham nổi.
*
* *
Có vị tăng hỏi:
- Làm sao được thành Phật?
Sư đáp:
- Phật và chúng sanh đồng thời quẳng đi, ngay đó giải thốt.
Hỏi:
- Làm thế nào được tương ưng?
Sư đáp:
- Thiện ác chớ nghĩ tự thấy Phật tánh.
Hỏi:
- Làm sao chứng được pháp thân?
Sư đáp:
- Vượt cảnh giới Tỳ lô.
Hỏi:
- Làm sao được pháp thân thanh tịnh?
Sư đáp:
- Không chấp Phật để cầu.
Hỏi:
- Ai là Phật?
Sư đáp:
- Tức tâm là Phật.
Hỏi:
- Tâm có phiền não không?
Sư đáp:
- Tánh, phiền não tự lìa.
Hỏi:
- Đâu chẳng đoạn trừ ư?
Sư đáp:
- Đoạn trừ phiền não gọi là nhị thừa. Phiền não không sanh gọi là đại niết bàn.
Hỏi:
- Ngồi thiền quán tịnh, việc đó như thế nào?
Sư đáp:
- Chẳng dơ chẳng sạch, đâu cần khởi tâm mà quán tướng tịnh?
Lại hỏi:
- Thiền sư thấy mười phương hư không là pháp thân chăng?
Sư đáp:
- Dùng cái tâm tưởng mà nhận, đó là cái thấy điên đảo.
Hỏi:
- Tức tâm là Phật, nên tu thêm vạn hạnh chăng?
Sư đáp:
- Chư thánh đều đủ hai thứ trang nghiêm (phước huệ), đâu có phế bỏ không nhân quả ư?
Sư lại nói:
- Nay tôi đáp những câu hỏi của ông đến cùng kiếp không hết, nói nhiều cách đạo càng xa. Thế nên nói “Thuyết pháp có sở đắc, đó là dã can kêu; thuyết pháp không sở đắc, đó gọi là sư tử rống”.
*
* *
Có hành giả tên Trương Phần ở Nam Dương, đến hỏi:
- Được nghe Hòa thượng nói “Vô tình thuyết pháp”, con chưa hiểu rõ việc đó. Xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy;
Sư nói:
- Nếu ông hỏi vô tình thuyết pháp, ông hiểu cái vô tình kia mới được nghe tôi thuyết pháp. Ông chỉ cần nghe được vô tình thuyết pháp đi.
Phần thưa:
- Chỉ tóm tắt ngay bây giờ, trong phương tiện hữu tình. Thế nào là nhân duyên của vô tình?
Sư đáp:
- Ngay bây giờ trong tất cả động dụng chỉ cần hai dòng phàm thánh đều không có chút phần khởi diệt, đó là ra khỏi thức chẳng thuộc về có không. Rõ ràng thấy giác, chỉ có nghe, không có tình thức kia ràng buộc. Thế nên Lục Tổ nói “Sáu căn đối cảnh, phân biệt mà không phải thức”.
*
* *
Có vị tăng đến tham lễ. Sư hỏi:
- Ông chứa đựng sự nghiệp gì?
Đáp:
- Giảng Kinh Kim Cang.
Sư hỏi:
- Hai chữ trước nhất là gì?
Đáp:
- Như thị.
Sư hỏi:
- Là gì?
Tăng không đáp được.
*
* *
Có người hỏi:
- Thế nào là giải thốt?
Sư đáp:
- Các pháp không đến với nhau, ngay đó giải thốt.
Hỏi:
- Làm sao đoạn được?
Sư nói:
- Đã nói với ông các pháp không đến với nhau, đoạn cái gì?
*
* *
Sư thấy vị tăng đến, dùng tay vẽ một tướng tròn, viết chữ “nhật” trong tướng đó.
Tăng không đáp được.
*
* *
Sư hỏi thiền sư Bổn Tịnh:
- Ông về sau hiện ra lời nói kỳ đặc biết bao!
Tịnh đáp:
- Không có một niệm tâm ái.
Sư nói:
- Đó là việc trong nhà ông.
*
* *
Vua Túc Tông hỏi:
- Thầy được pháp gì?
Sư hỏi:
- Bệ hạ thấy một mảnh mây trong không trung chăng?
Vua đáp:
- Thấy.
Sư hỏi:
- Do đóng đinh mắc hay cột dây mắc?
Vua lại hỏi:
- Thế nào là mười thân điều ngự?
Sư bèn đứng dậy, rồi hỏi:
- Hội chăng?
Đáp:
- Chẳng hội.
Sư bảo:
- Mang cái tịnh bình đến cho lão tăng.
Lại hỏi:
- Thế nào là vô tránh tam muội?
Sư đáp:
- Đàn việt đạp trên đỉnh Tỳ lô mà đi(94).
Hỏi:
- Ý đó thế nào?
Sư đáp:
- Thanh tịnh pháp thân, chớ nhận thân này.
Vua lại hỏi Sư nữa, Sư đều không nhìn vua. Vua nói:
- Trẫm là thiên tử nước Đại Đường, tại sao thầy tuyệt nhiên không nhìn tới?
Sư hỏi:
- Bệ hạ thấy hư không chăng?
Đáp:
- Thấy.
Sư hỏi:
- Đó có chớp mắt nhìn bệ hạ không?
*
* *
Ngư Quân Dung hỏi:
- Lúc ở núi Bạch Nhai, trong 12 giờ (suốt ngày) thầy tu đạo thế nào?
Sư gọi một đồng tử đến, vò đầu nó, bảo:
- Tỉnh tỉnh ngay đó tỉnh tỉnh, rõ ràng ngay đó rõ ràng. Về sau chớ bị người lừa.
*
* *
Sư cùng với cung phụng Tử Lân luận nghĩa. Sư thăng tòa rồi, cung phụng nói:
- Mời thầy lập nghĩa, con phá.
Sư bảo:
- Lập nghĩa rồi.
Cung phụng hỏi:
- Đó là nghĩa gì?
Sư nói:
- Đúng là không thấy, chẳng phải cảnh giới ông.
Liền hạ tòa.
Một hôm Sư hỏi cung phụng Tử Lân:
- Phật là nghĩa gì?
Đáp:
- Là nghĩa giác.
Hỏi:
- Phật có từng mê không?
Đáp:
- Chưa từng mê.
Sư nói:
- Dùng giác làm gì?
Cung phụng không đáp được, lại hỏi:
- Thế nào là thật tướng?
Sư bảo:
- Đem cái hư không đến đây.
Đáp:
- Hư không không thể nắm bắt được (bất khả đắc).
Sư nói:
-Hư không còn không thể nắm bắt được, hỏi thật tướng làm gì?
*
* *
Tăng hỏi:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư đáp:
- Hàng vạn Bồ tát ở trong điện Văn Thù.
Tăng nói:
- Học nhân chẳng hội.
Sư nói:
- Đại bi ngàn tay mắt.
*
* *
Đam Nguyên hỏi:
- Trăm năm sau có người hỏi việc cực tắc, phải làm sao?
Sư đáp:
- Mong mạng sống mình đáng yêu, cần cái lá bùa hộ thân để làm gì?
*
* *
Vì duyên giáo hóa sắp mãn, giờ niết bàn sắp đến. Sư bèn từ giã vua Đại Tông trở về núi. Đại Tông hỏi:
- Sau khi thầy diệt độ, đệ tử sẽ làm gì để ghi nhớ?
Sư đáp:
- Bảo đàn việt tạo nên một ngôi tháp vô phùng.
Vua thưa:
- Xin chọn lấy kiểu tháp theo ý thầy.
Sư yên lặng hồi lâu, hỏi:
- Hội chăng?
Đáp:
- Không hội.
Sư nói:
- Bần đạo đi rồi, có thị giả Ứng Chơn lại biết việc này.
Năm Đại Lịch thứ mười 775, ngày mùng chín tháng chạp, Sư nằm nghiêng bên hữu thị tịch. Đệ tử kính đưa linh nghi đến cốc Đảng Tử xây tháp thờ.
Vua ban thụy hiệu là Đại Chứng Thiền Sư.
Về sau, vua Đại Tông ban chiếu mời Ứng Chơn nhập nội, nêu hỏi tiền ngữ. Ứng Chơn yên lặng hồi lâu, hỏi:
- Thánh thượng hội chăng?
Đáp:
- Không hội.
Chơn làm bài kệ:
Tương chi nam đàm chi bắc,
Trung hữu hồng kim sung nhất quốc,
Vô ảnh thọ hạ hợp đồng thuyền,
Lưu ly điện thượng vô tri thức.
Dịch:
Phía nam sông Tương phía bắc đầm,
Trong có vàng ròng đầy cả nước,
Dưới cây vô ảnh thuyền hợp đồng,
Trên điện lưu ly không tri thức.
Về sau Ứng Chơn trụ ở núi Đam Nguyên.
*
* *
19. THIỀN SƯ THẦN HỘI CHÙA HÀ TRẠCH, TÂY KINH.
Người Tương Dương, họ Cao. Năm 14 tuổi làm sa di, đến yết kiến Lục Tổ. Tổ hỏi:
- Tri thức từ phương xa quá vất vả đến đây, có mang bổn (gốc) theo không? Nếu có bổn thì phải biết chủ. Thử nói xem?
Sư đáp:
- Lấy vô trụ làm bổn, thấy tức là chủ.
Tổ nói;
- Sa di này, đâu nên dùng lời cũ lặp lại.
Rồi Tổ lấy gậy đánh. Lúc ăn gậy, Sư suy nghĩ “Đại thiện tri thức trải qua nhiều kiếp khó gặp. Nay đã được gặp, há tiếc thân mạng này”. Từ đó Sư làm thị giả.
Một hôm Tổ bảo chúng:
- Ta có một vật không đầu không đuôi, không tên không tự, không lưng không mặt. Các người biết chăng?
Sư bước ra thưa:
- Đó là bổn nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.
Tổ nói:
- Đã nói với ông là không tên không tự, ông còn gọi là bổn nguyên là Phật tánh.
Sư lễ bái rồi lui. Chẳng bao lâu Sư đi Tây Kinh thọ cụ túc giới. Trong những năm Đường Cảnh Long (707 – 710, vua Trung Tông), Sư lại về Tào Khê. Khoảng 20 năm sau khi Tổ nhập diệt, ý chỉ đốn ngộ của Tào Khê bị lãng quên ở Kinh, Ngô; tiệm môn của Tung Nhạc thạnh hành ở Tần, Lạc. Sư vào kinh (Đông Kinh, Lạc Dương).
Năm Thiên Bảo thứ tư (745 –Đường Huyền Tông), còn phân định hai tông (Nam Năng tông đốn, Bắc Tú giáo tiệm), Sư trước tác Hiển Tông Ký thạnh hành ở đời.
Một hôm có tin từ quê nhà đến báo hai thân mất. Sư vào chánh điện bạch chùy, báo chúng:
- Cha mẹ đều mất, mời đại chúng tụng Ma ha Bát nhã.
Chúng vừa tụ tập, Sư đả chùy bảo:
- Phiền nhọc đại chúng.
Vào năm Đường Thượng Nguyên nguyên niên (760 – Đường Túc Tông), ngày 13 tháng 5 vào nửa đêm Sư lặng lẽ mà hóa. Tuổi thọ 75(95). Năm thứ hai 761, xây tháp thờ ở Long Môn, Lạc Kinh. Ở tháp Sư vua Túc Tông sắc ban xây chùa Bảo Ứng.
Năm Đường Đại Lịch thứ năm (770 – Đường Đại Tông), vua ban hiệu Chơn Tông Bát Nhã Truyền Pháp Chi Đường. Năm thứ bảy 772, lại ban hiệu Bát Nhã Đại Sư Chi Tháp.
*
* *
Có vị tăng nêu bài kệ của thiền sư NGỌA LUÂN.
Kệ rằng:
Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,
Năng đoạn bách tư tưởng.
Đối cảnh tâm bất khởi,
Bồ đề nhật nhật trưởng.
Dịch:
Ngọa Luân có tài khéo,
Hay đoạn hết tư tưởng.
Đối cảnh tâm không sanh,
Bồ đề lớn mỗi ngày.
Lục Tổ Đại sư nghe qua, nói:
- Bài kệ đó chưa sáng tâm địa. Nếu y theo đó tu hành, chỉ tăng thêm sự ràng buộc.
Nhân đó, Đại sư dạy một bài kệ:
Huệ Năng một kỹ lưỡng,
Bất đoạn bách tư tưởng.
Đối cảnh tâm sác khởi,
Bồ đề tác ma trưởng?
Dịch:
Huệ Năng không tài khéo,
Chẳng đoạn hết tư tưởng.
Đối cảnh tâm luôn khởi,
Bồ đề làm sao lớn?
(Hai bài kệ trên được các nơi nêu nhiều nên phụ lục vào cuối quyển. Ngọa Luân đây chẳng phải tên mà là chỗ ở). HẾT QUYỂN V Chú thích:
* Tâm vọng sanh ra tướng “có” gọi là sanh, sanh ra tướng “không” cũng là sanh. Vậy, sanh sao nói là không sanh?
(73) Hoa tình: Tánh Phật sẵn có ngay nơi chúng sanh hữu tình.
(**) Thân, nghĩa là cha mẹ.
(74) Người xuất gia là Mã Tổ Đạo Nhất, người tại gia là Bàng Cư Sĩ Đạo Huyền
(75) Tháp Sư bên bờ khe Tào Hầu, nay thuộc chùa Nam Hoa, xưa là chùa Bảo Lâm.
(76) Con trâu ly có cái đuôi đẹp, nó bảo hộ quý mến không dám dùng, thành ra cái đuôi nó vô dụng còn mắc công giữ.
(77) Niệm vô niệm như tri kiến vô kiến; Niệm hữu niệm như tri kiến lập tri trong Kinh Lăng Nghiêm.
(78) Ở đây, chữ tự tánh nghĩa là ngã, tự ngã. Không có tự tánh (vô tự tánh) tức là vô ngã, là không (rỗng không). Chữ tự tánh thường dùng trong thiền tông Trung Quốc chỉ cho bản thể, đồng nghĩa với Phật tánh, chơn ngã.
79 Ý căn phóng quang trực tiếp qua năm cửa (căn), đủ duyên năm trần (tướng sở) huyễn hiện, nhưng vì không bỏ quên ánh sáng trí tuệ (phóng quang) nên năm trần hóa rỗng không, đạt nghĩa vô trụ vô tướng. Trần đã không, ý căn không lập tướng năng cho nên ngã không thì thức thứ bảy chuyển thành bình đẳng tánh trí. Ngã pháp (căn trần) đều rỗng không thì thức thứ tám phục hồi tự thể tròn đầy mà linh tri diệu dụng, như tấm gương tròn sáng đồng thái hư; năm trần ứng duyên tự đến tự đi trong thể như như bất động này, như hoa đóm trong hư không. Vậy chỉ cần chuyển thức thứ sáu thứ bảy (trong nhân) thì thức thứ tám và tiền ngũ thức (năm thức thân) sẽ chuyển theo (trên quả).
80 Tám cái chấp điên đảo của phàm phu và nhị thừa: Nhị thừa chấp vô thường, vô ngã, khổ, bất tịnh mà phàm phu chấp ngược lại thường, ngã, lạc, tịnh. Kinh Niết bàn thuyết về chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh.
(81) Có chủ tâm tạo tác một sự việc, cả ý định và việc làm đều gọi là hành. Hành bao gồm thân khẩu ý, có khả năng tạo nghiệp và dẫn đến tái sanh. Hành còn là uẩn thứ tư trong ngũ uẩn, là chi thứ hai trong mười hai nhân duyên.
(82) Viên minh: Sáng suốt tròn đầy. Tịch: Thể không tịch, ngã pháp đều không, vắng lặng tuyệt đối, vượt qua tất cả đối đãi, hay lìa các pháp; Chiếu: Dụng, tác dụng chiếu soi, hay sanh các pháp. Tịch chiếu không hai.
(83) Sáu mươi hai kiến.
Tứ cú (hữu thường, vô thường, thường vô thường, phi thường phi vô thường) ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) = 20
20 tam tế (quá khứ, hiện tại, vị lai) = 60
60 + hữu (chấp thường) và vô (chấp đoạn) = 62
(84) Người quá lượng: Người kiến tánh.
85 Nhị biên: Có hai bên đối đãi, biên kiến. Chấp hữu vô là nguồn gốc của nhị biên đối đãi.
Tam tế: Quá khứ, hiện tại, vị lai.
* Hoặc: Mê lầm
(86) Tam trí nhất tâm: Trong nhất tâm đồng thời chứng đắc quả tam trí, nhất thiết trí, đạo chủng trí và nhất thiết chủng trí. Tông Thiên Thai chủ trương tu tập tam quán không giả trung thì có thể đắc tam trí.
(87) Lý sự viên dung, tương tức tương nhập.
(88) Tam đức: Pháp thân, bát nhã và giải thốt.
(89) Thuyên chỉ: Mượn phương tiện ngôn ngữ văn tự nghĩ suy để giảng giải về nghĩa của “chỉ”. “Chỉ” dụ cho chơn lý tuyệt đối; ví dụ chơn như vốn lìa ngôn thuyết không thể đặt tên, nhưng muốn người hiểu cái nghĩa của nó mới gượng đặt tên chơn như để giải thích về nó, thật ra chơn như không thể hiểu được mà phải chứng ngộ bằng chánh trí trong nội tâm mình
(90) Hoàn trung: Rỗng không, tròn đầy thái hư.
(91) “Không” ở đây nghĩa là không có tự tánh (tự thể), cũng gọi là vô ngã. Đạo rỗng không, không thuộc về có không cũng không ngồi có không.
(92) Kiến: Thấy bằng mắt, Văn: nghe bằng tai, Giác: hay bằng mũi lưỡi thân, Tri: biết bằng ý căn. Thấy nghe hay biết bằng nhân duyên căn trần thức … phụ thuộc nhân duyên nên không thật, gọi là vọng tri.
(93) Biết mộng, tỉnh mộng còn có hai: mộng và tỉnh mộng. Ngộ mộng thì không hai, mộng và tỉnh mộng cùng một thể nhất như.
(94) Tỳ lô, gọi đủ Tỳ – lô – giá – na, nghĩa là Đại Nhật Phật, vị Phật đầu tiên chuyển hóa từ pháp thân. Biểu trưng sự tuyệt đối trong tương đối, nhất thể trong vạn vật. Pháp thân Tỳ lô hằng hiện thân nơi vạn vật và thân tâm nầy mà hằng thanh tịnh.
(95) Có chỗ ghi năm sanh của Sư là 668, năm tịch 760. Sư thọ 93 tuổi.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.147.89.50 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.