Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Cảnh Đức Truyền Đăng Lục [景德傳燈錄] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Cảnh Đức Truyền Đăng Lục [景德傳燈錄] »» Bản Việt dịch quyển số 2

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.55 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.68 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Cảnh Đức Truyền Đăng

Kinh này có 30 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 |
Việt dịch: Minh Tuệ Dương Thanh Khải

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Thiên Trúc 35 Tổ (trong đây, 13 Tổ được ghi, 22 Tổ bàng xuất (21) không ghi).
15. Tổ Ca-na Đề-bà (Thánh Thiên), 16. Tổ La-hầu-la-đa, 17. Tổ Tăng-già Nan-đề, 18. Tổ Tăng-già Xá-đa, 19. Tổ Cưu-ma-la-đa, 20. Tổ Xà-dạ-đa, 21. Tổ Bà-tu Bàn-đầu (Thế Thân)(22), 22. Tổ Ma-noa-la, 23. Tổ Hạc-lặc-na, 24. Tổ Sư Tử Tôn giả.
Đạt-ma-đạt (Bàng xuất từ Sư Tử Tôn giả).
Nhân-đà-la, Cồ-la Kị-lợi-bà (Hai Tổ bàng xuất từ Đạt-ma-đạt).
Đạt-ma Thi-lợi-đế, Na-già Nan-đề, Phá-lâu-cầu Đa-la, Ba-la-bà-đề (Bốn Tổ bàng xuất từ Nhân-đà-la).
Ba-la Bạt-ma, Tăng-già La-xoa (Hai Tổ bàng xuất từ Cồ-la Kị-lợi-bà).
Ma-đế-lệ Bạt-la, Ha-lợi-bạt-mậu (Hai Tổ bàng xuất từ Đạt-ma Thi-lợi-đế).
Hòa-tu Bàn-đầu, Đạt-ma Ha-đế, Chiên-đà-la-đa (Ba Tổ bàng xuất từ Phá-lâu-cầu Đa-la).
Lặc-na Đa-la, Bàn-đầu Đa-la, Bà-la Bà-đa (Ba Tổ bàng xuất từ Ba-la Bạt-ma).
Tỳ-xá-dã Đa-la, Tỳ-lâu-la Đa-ma, Tỳ-lật-sô Đa-la, Ưu-ba-thiên-đà, Bà-nan-đề-đa (Năm Tổ bàng xuất từ Tăng-già La-xoa).
(Hai mươi hai vị Tổ trên đây không có ngữ cú, chẳng ghi).
25. Tổ Bà-xá Tư-đa, 26. Tổ Bất-như Mật-đa, 27. Tổ Bát-nhã Đa-la.
Thiên Trúc gồm 35 Tổ (13 Tổ được ghi trong quyển II này).
15. Tổ Ca-na Đề-bà, 16. Tổ La-hầu-la-đa, 17. Tổ Tăng-già Nan-đề, 18. Tổ Già-da Xá-đa (Tăng-già Xá-đa), 19. Tổ Cưu-ma-la-đa, 20. Tổ Xà-dạ-đa, 21. Tổ Bà-tu Bàn-đầu, 22. Tổ Ma-noa-la, 23. Tổ Hạc-lặc-na, 24. Tổ Sư Tử Tôn giả, 25. Tổ Bà-xá Tư-đa, 26. Tổ Bất-như Mật-đa, 27. Tổ Bát-nhã Đa-la.
Từ Tổ Sư Tử Tôn giả bàng xuất Đạt-ma-đạt.
Từ Đạt-ma-đạt có hai Tổ: 1. Nhân-đà-la, 2. Cồ-la Kị-lợi-bà.
Từ Nhân-đà-la có bốn Tổ: 1. Đạt-ma Thi-lợi-đế, 2. Na-già Nan-đề, 3. Phá-lâu-cầu Đa-la, 4. Ba-la-bà-đề
Từ Cồ-la Kị-lợi-bà có hai Tổ: 1. Ba-la Bạt-ma, 2. Tăng-già La-xoa.
Từ Đạt-ma Thi-lợi-đế có hai Tổ: 1. Ma-đế-lệ Bạt-la, 2. Ha-lợi-bạt-mậu.
Từ Phá-lâu-cầu Đa-la có ba Tổ: 1. Hòa-tu Bàn-đầu, 2. Đạt-ma Ha-đế, 3. Chiên-đà-la-đa.
Từ Ba-la Bạt-ma có ba Tổ: 1. Lặc-na Đa-la, 2. Bàn-đầu Đa-la, 3. Bà-la Bà-đa.
Từ Tăng-già La-xoa có năm Tổ: 1. Tỳ-xá-dã Đa-la, 2. Tỳ-lâu-la Đa-ma, 3. Tỳ-lật-sô Đa-la, 4. Ưu-ba-thiên-đà, 5. Bà-nan-đề-đa.
(Trên đây bàng xuất 22 Tổ không có cơ duyên ngữ cú, chẳng ghi).
15. Tổ Ca-na Đề-bà.
(Kanadeva, Thánh Thiên)
Người nước miền Nam Thiên Trúc, dòng họ Tỳ-xá-la. Ban đầu Ngài cầu phước nghiệp và thích biện luận, sau đến yết kiến Long Thọ Đại sĩ. Sắp tới cửa, Long Thọ biết là người trí, trước đó sai thị giả đem
cái bình bát đổ đầy nước đến đặt trước chỗ Tổ ngồi. Tôn giả thấy vậy liền lấy một cây kim bỏ vào bát nước rồi thẳng đến yết kiến Tổ, thầy trò gặp nhau vui vẻ lãnh hội.
Long Thọ bèn vì Ngài mà nói pháp, tại chỗ ngồi hiện tướng vầng trăng tròn, chúng chỉ nghe tiếng nói mà không thấy hình của Tổ.
Tôn giả bảo chúng:
- Với điềm lành này, hôm nay Thầy muốn trình hiện Phật tánh để tiêu biểu cho việc thuyết pháp chẳng phải là âm thanh sắc tướng.
Sau khi đắc pháp Tôn giả đến nước Tỳ-la. Xứ đó có trưởng giả tên là Phạm ma Tịnh Đức, một hôm cây trong vườn trưởng giả sanh tai nấm lớn hương vị rất thơm ngon. Chỉ có trưởng giả và người con trai thứ hai La-hầu-la-đa hái và ăn được nấm đó, khi hái hết những nấm lớn thì lại sanh ra lớp khác, trừ những người thân của gia đình còn người ngồi không thấy nấm được.
Bấy giờ Tôn giả biết nhân duyên đời trước nên đến nhà đó. Trưởng giả hỏi về duyên cớ ấy, Tôn giả nói:
- Nhà ông đời trước từng cúng dường cho một tỳ kheo, nhưng tỳ kheo này đạo nhãn chưa sáng mà luống thọ ơn tín thí cho nên chịu quả báo làm nấm cây. Chỉ có ông và con trai (Chánh Tông ghi: và con trai thứ) tinh thành cúng dường mới có thể hưởng nấm, người khác thì không hưởng được.
Lại hỏi:
- Trưởng giả tuổi bao nhiêu?
Đáp:
- Bảy mươi chín.
Tôn giả bèn nói kệ:
Nhập đạo bất thông lý,
Phục thân hồn tín thí.
Nhữ niên bát thập nhất,
Thử thọ bất sanh nhĩ.
Dịch:
Vào đạo chẳng thông lý,
Đem thân đền tín thí.
Tuổi ông tám mươi mốt,
Cây này hết sanh nấm.
Trưởng giả nghe kệ càng thêm thán phục. Lại nói: Đệ tử già yếu theo thờ Thầy không được, muốn xin đứa con thứ theo Thầy xuất gia.
Tôn giả nói:
- Xưa Như Lai đã thọ ký cho người con trai này, vào năm trăm năm thứ hai* sẽ làm đại giáo chủ. Nay gặp nhau âu cũng phù hợp với nhân xưa.
Tôn giả bèn cho người con trai thứ hai xuống tóc làm thị giả.
Tôn giả đến thành Ba-liên-phất, nghe các ngoại đạo gây trở ngại Phật pháp kể ra đã lâu. Tôn giả bèn cầm cây phướn dài đi vào trong chúng ngoại đạo.
Ngoại đạo hỏi Tôn giả:
- Sao ông chẳng (thấy đằng) trước?
Tôn giả đáp:
- Sao ông chẳng (thấy đằng) sau?
Lại nói:
- Ông giống như tiện nhân (người ti tiện).
Tôn giả đáp:
- Ông giống như lương nhân (người tốt).
Lại hỏi:
- Ông biết pháp gì?
Tôn giả đáp:
- Ông không biết đủ điều.
Lại nói:
- Tôi muốn đắc Phật.
Tôn giả nói:
- Tôi so đo (mới có) đắc Phật.
Lại nói:
- Ông chẳng đắc đâu.
Tôn giả nói:
- Trước ông nói “tôi muốn đắc”, thực ra ông chẳng đắc đâu.
Lại hỏi:
- Ông đã chẳng đắc, nói đắc là thế nào?
Tôn giả nói:
- Ông có ngã vì vậy chẳng đắc, ta không ngã ngã cố (23) tự nhiên phải đắc.
Lời đối đáp bị bẻ gãy, ngoại đạo bèn hỏi:
- Tên ông là gì?
Tôn giả nói:
- Tôi tên là Ca-na Đề-bà.
Ngoại đạo đã nghe danh Sư nên hối lỗi và cảm ơn. Bấy giờ trong chúng còn đang sôi nổi vấn nạn nhau, Tôn giả dùng biện tài vô ngại phân giải nhờ đó họ quy phục.
Sắp quy tịch, Tôn giả bảo với môn đệ thượng thủ là La-hầu-la-đa và truyền pháp nhãn cho, kệ rằng:
Bổn đối truyền pháp nhân,
Vị thuyết giải thốt lý.
Ư pháp thực vô chứng,
Vô chung diệc vô thủy.
Dịch:
Vốn cho người truyền pháp,
Mà nói lý giải thốt.
Nơi pháp thực không chứng,
Không chung cũng không thủy.
Tôn giả nói kệ xong, nhập phấn tấn định, thân phóng ra tám đạo hào quang rồi thâu trở về tịch diệt. Học chúng xây tháp cúng dường Tôn giả.
Nhằm nhà Tiền Hán Văn đế năm thứ 19, năm canh thìn (năm 160 trước công nguyên)(24).
16. Tổ La-hầu-la-đa.
(Rahulabhadra)
Người nước Ca-tỳ-la, đi hóa đạo đến thành Thất-la-phiệt. Ở đây có con sông gọi là Kim Thủy, sông này nước có mùi vị thơm ngon đặc biệt, giữa dòng sông lại hiện ra năm hình Phật.
Tôn giả nói với chúng:
- Cách đây khoảng 500 dặm đến nguồn con sông này, có vị thánh tên là Tăng-già Nan-đề đang ở đó, Phật chí ghi 1000 năm sau(25) sẽ tiếp nối ngôi thánh vị.
Nói xong Tôn giả dẫn các học chúng ngược dòng sông đi lên. Đến nơi thấy Tăng-già Nan-đề đang ngồi yên nhập định. Tôn giả và chúng quan sát chờ đợi, trải qua ba thất (21 ngày) Nan-đề mới xuất định.
Tôn giả hỏi:
- Thân ông định hay tâm ông định?
Đáp:
- Thân tâm đều định.
Tôn giả hỏi:
- Thân tâm đều định sao có xuất nhập?
Đáp:
- Tuy có xuất nhập mà không mất tướng định, như vàng trong giếng thể vàng thường tịch.
Tôn giả hỏi:
- Vàng ở trong giếng hoặc vàng ra ngồi giếng, (thể) vàng không động tịnh thì có vật gì ra vào?
Đáp:
- (Thể) Vàng chẳng phải động tịnh mà cho là vàng ra vào nghĩa là vàng động tịnh thì có vật gì ra vào?
Tôn giả nói:
- Nếu vàng trong giếng thì cái ra ngồi là vàng nào? Nếu vàng ngồi giếng thì cái ở trong là vật gì?
Đáp:
- Vàng nếu ngồi giếng thì cái ở trong chẳng phải vàng, vàng nếu trong giếng thì cái ra ngồi chẳng phải vật.
Tôn giả nói:
- Nghĩa này không đúng.
Đáp:
- Lý kia chẳng nhằm.
Tôn giả nói:
- Nghĩa này phải hỏng.
Đáp:
- Nghĩa kia chẳng thành.
Tôn giả nói:
- Nghĩa kia chẳng thành mà nghĩa của ta thành.
Đáp:
- Nghĩa của ta tuy thành vì pháp chẳng phải ta.
Tôn giả nói:
- Nghĩa của ta đã thành vì ngã mà vô ngã.
Hỏi:
- Vì ngã mà vô ngã lại thành nghĩa gì?
Tôn giả nói:
- Vì ngã mà vô ngã nên thành nghĩa của ông.
Hỏi:
- Nầy nhân giả! Thầy được vô ngã đó nơi vị thánh nào?
Tôn giả đáp:
- Thầy ta là Ca-na Đề-bà chứng được vô ngã đó.
Nan-đề nói:
- Cúi đầu lễ Sư Đề-bà, người làm nên nhân giả. Vì nhân giả vô ngã, tôi muốn thờ nhân giả làm thầy.
Tôn giả nói:
- Vì ta đã vô ngã, ông nên thấy cái (chơn) ngã của ta. Nếu ông xem ta là thầy thì nên biết ta đây chẳng phải (chơn) ngã của ta.
Nan-đề nghe qua tâm ý rỗng rang, xin được độ thốt.
Tôn giả nói;
- Tâm ông tự tại chẳng bị cái ngã trói buộc.
Nói xong, Tôn giả dùng tay phải đưa cái bát vàng lên đến Phạm cung lấy cơm thơm ở đó về thết trai đại chúng. Nhưng đại chúng bỗng sanh tâm chán chê, Tôn giả nói:
- Do nghiệp các ông, chẳng phải lỗi ta.
Rồi bảo Tăng-già Nan-đề chia tòa cho ngồi, cùng ăn. Chúng lại ngờ vực Nan-đề. Tôn giả nói:
- Các ông ăn không được, đều bởi cớ này: Nên biết việc chia tòa với ta, chính là Đức Như Lai Ta-la Thọ vương trong quá khứ thương vạn vật để lại điềm báo. Các ông trong kiếp Trang nghiêm cũng đã đến tam quả (A-na-hàm) mà chưa chứng vô lậu.
Chúng nói:
- Thần lực của thầy chúng tôi mới đáng tin thôi. Kia là Phật quá khứ mới thầm nghi vậy.
Biết chúng sanh ngã mạn, Tăng-già Nan-đề bèn nói:
- Ngày Thế Tôn còn thì thế giới bình chánh, không có gò nống suối khe sông ngòi, nước đều ngon ngọt thảo mộc sum sê, đất nước được mùa thạnh trị, người dân hành thập thiện không có tám
khổ. Trên 800 năm từ khi Ngài thị hiện nhập diệt dưới cây Song Thọ thì thế giới gò nống, cây cối khô cằn, người không tin sâu, chánh niệm xem nhẹ, không tin chơn như chỉ thích thần lực.
Nói xong, dùng tay phải từ từ mở rộng đi sâu vào đất, đến chỗ Kim cang luân lấy nước cam lộ, đựng bình lưu ly đem đến pháp hội. Đại chúng thấy vậy liền kính mến hối lỗi mà làm lễ, do đó Tôn giả trao mạng mạch cho Tăng-già Nan-đề và truyền pháp nhãn.
Kệ rằng:
Ư pháp thật vô chứng,
Bất thủ diệc bất ly.
Pháp phi hữu vô tướng
Nội ngoại vân hà khởi?
Dịch:
Nơi pháp thật không chứng,
Chẳng giữ cũng chẳng lìa.
Pháp chẳng tướng có không,
Trong ngồi làm sao khởi?
Tôn giả trao pháp xong ngồi yên quy tịch, tứ chúng xây tháp thờ.
Nhằm nhà Tiền Hán, năm Vũ đế thứ 28, năm mậu thìn (năm 112 trước công nguyên!)(26).
17. Tổ Tăng-già Nan-đề.
(Samghanandi, Chúng Hà).
Ngài là con trai vua Bảo Trang Nghiêm ở thành Thất la phiệt. Mới sanh ra đời đã biết nói và thường tán thán Phật sự. Năm bảy tuổi chán thú vui thế gian, Ngài nói kệ xin cha mẹ cho xuất gia:
Khể thủ đại từ phụ,
Hòa nam cốt huyết mẫu
Ngã kim dục xuất gia,
Hạnh nguyện ai mẫn cố.
Dịch:
Cúi lạy đấng từ phụ,
Kính lễ mẹ tình thâm.
Nay con muốn xuất gia,
Mong được thương xót cho.
Cha mẹ quyết khuyên ngăn con, Ngài trọn ngày không ăn khiến cho cha mẹ phải nhượng bộ, cho tạm xuất gia hiệu Tăng già Nan đề, tu ở hồng cung. Vua cho mời Sa môn Thiền-lợi-đa làm thầy dạy Ngài, trải 19 năm tu tại gia Ngài chưa từng mỏi mệt. Ngài thường tự nghĩ: “Thân ta ở trong cung vua, sao gọi là xuất gia?”.
Chợt một buổi chiều trời quang mây tạnh, Ngài gặp một con đường bằng phẳng bất giác bước đi thong thả, được khoảng mười dặm đến một ngọn núi cao, thấy có hang đá bèn vào ngồi thiền trong đó.
Sáng hôm sau vua nghe mất tích thái tử liền đuổi Thiền-lợi-đa ra khỏi nước, cho người tìm kiếm thái tử khắp nơi mà không được. Trải qua mười năm Ngài đã được thọ ký và đắc pháp nơi Tổ La-hầu-la-đa.
Sau Tôn giả du hóa đến nước Ma đề, chợt có luồng gió mát ập đến, chúng đều cảm thấy thân tâm khoan khối lạ thường mà không biết tại sao thế. Tôn giả nói:
- Đây là gió do đạo đức cảm nên, sẽ có bậc thánh ra đời nối tiếp đèn Tổ.
Nói xong, Tôn giả dùng thần lực đưa đại chúng du lịch qua các sơn cốc. Chẳng bao lâu đến dưới một ngọn núi, Tôn giả bảo chúng:
- Đỉnh núi này có mây tía phủ như lộng che ở trên, thánh nhân ở đây rồi!
Cùng đại chúng băn khoăn đợi chờ. Chợt thấy một đồng tử từ nhà nghỉ trong núi đi đến trước mặt Tôn giả, tay cầm cái gương tròn. Tôn giả hỏi:
- Ông tuổi bao nhiêu?
Đáp:
- Trăm tuổi!
Tôn giả hỏi:
- Tuổi ông còn nhỏ, sao nói trăm tuổi?
Đáp:
- Tôi không biết lý lẽ, tôi đúng 100 tuổi.
Tôn giả hỏi:
- Ông có cơ duyên với Phật chăng?
Đáp:
- Phật dạy: Nếu người sống trăm tuổi, không biết cơ duyên Phật, sao bằng sống một ngày, mà hiểu được rõ ràng?
Tôn giả hỏi:
- Vật (gương tròn) trong tay ông biểu thị điều gì?
Đồng tử đáp:
Chư Phật đại viên giám,
Nội ngoại vô hà ế.
Lưỡng nhân đồng đắc kiến,
Tâm nhãn giai tương tợ.
Dịch:
Gương tròn lớn chư Phật,
Trong ngồi không dấu vết.
Hai người cùng thấy được,
Tâm nhãn đều tương tợ.(27)
Cha mẹ đồng tử nghe được lời đối đáp của con thì cho con xuất gia. Tôn giả nắm tay chú bé dẫn về tinh xá, cho thọ giới cụ túc xong và đặt tên là Già-da Xá-đa.
Một hôm gió thổi, nghe tiếng kêu của linh đồng treo trên điện Phật, Tôn giả hỏi Sư Xá-đa.
- Linh kêu hay gió kêu?
Sư đáp:
- Chẳng phải linh kêu, chẳng phải gió kêu mà tâm con kêu.
Tôn giả hỏi:
- Tâm là gì nhỉ?
Sư đáp:
- Tất cả đều vắng lặng.
Tôn giả nói:
- Lành thay, lành thay! Người nối đạo ta, phi ngươi còn có ai?
Tôn giả bèn nói kệ trao pháp:
Tâm địa bổn vô sanh,
Nhân địa tòng duyên khởi.
Duyên chủng bất tương phương,
Hoa quả diệc phục nhĩ.
Dịch:
Tâm địa vốn vô sanh,
Nhân tâm tùy duyên khởi.
Duyên giống chẳng ngại nhau,
Hoa quả cũng như thế.
Tôn giả truyền pháp xong, đưa tay phải vin cành cây mà thiên hóa. Đại chúng bàn: Tôn giả quy tịch dưới tàng cây, có lẽ cây ấy rủ bóng che mát con cháu chăng? Rồi định đưa tồn thân Tôn giả đến cao nguyên xây tháp thờ, nhưng sức của chúng không nâng nổi mà phải xây tháp tại gốc cây.
Nhằm nhà Tiền Hán Chiêu đế năm thứ 13, năm đinh mùi (năm 73 trước công nguyên).
18. Tổ Già-da Xá-đa.
(Samghayathata, Chúng Xưng)
Người nước Ma-đề, dòng họ Uất-đầu-lam. Cha là Thiên Cái, mẹ là Phương Thánh. Nhân lúc bà mang thai, có lần mộng thấy vị thần cao lớn tay cầm tấm gương, rồi bảy ngày sau đản sanh. Ngài mới sanh thân thể trong sáng như ngọc lưu ly, tự nhiên sạch sẽ thơm tho chưa từng tắm gội. Khi còn nhỏ Ngài đã thích an nhàn yên tĩnh, nói lời phi thường, hay cầm tấm gương đi vân du gặp Tổ Nan-đề độ cho.
Sau khi đắc pháp, Tôn giả nắm đồ chúng đến nước Đại Nguyệt Chi, thấy nhà một Bà la môn nọ
có khí tượng lạ. Tôn giả muốn vào nhà đó, gia chủ Cưu-ma-la-đa ra hỏi:
- Đây là đồ chúng nào?
Đáp:
- Đây là đệ tử Phật.
Gia chủ nghe tên hiệu Phật, tâm thần sợ hãi liền đóng cửa lại. Tôn giả đứng chờ hồi lâu rồi tự gõ cửa.
La-đa nói:
- Nhà này không có người.
Tôn giả hỏi:
- Ai đáp “Không có người” đó!
La-đa nghe hỏi biết đó là dị nhân, vội vã mở cửa tiếp nước.
Tôn giả nói:
- Xưa Đức Thế Tôn huyền ký: “Sau khi ta nhập diệt một ngàn năm có vị đại sĩ (Bồ tát) xuất hiện ở nước Nguyệt Chi, tiếp nối và làm hưng thịnh việc giáo hóa của ta”. Nay ông gặp ta ứng hợp vận lành đó.
Nhờ thế Cưu-ma-la-đa khai phát túc mệnh trí, đem lòng thành kính xuất gia thọ giới cụ túc.
Truyền pháp xong, Tôn giả nói kệ:
Hữu chủng hữu tâm địa,
Nhân duyên năng phát manh.
Ư duyên bất tương ngại,
Đương sanh sanh bất sanh.
Dịch:
Có giống có tâm địa,
Nhân duyên giúp nẩy mầm.
Nơi duyên không ngại nhau,
Đương sanh sanh chẳng sanh.(28)
Trao pháp xong, Tôn giả vọt thân lên không trung hiện 18 loại thần biến, hóa hỏa quang tam muội tự thiêu thân. Chúng nhặt xá lợi xây tháp thờ.
Nhằm nhà Tiền Hán Thành đế năm thứ 20, năm mậu thân (Năm 12 trước công nguyên).
19. Tổ Cưu-ma-la-đa.
(Kumaralata, Đồng Thụ)

Ngài con nhà Bà-la-môn, thuộc nước Đại Nguyệt Chi. Đời trước làm người của Tự Tại thiên (Trời dục giới thứ 6), Ngài thấy Bồ tát Anh Lạc bỗng khởi tâm yêu mến mà đọa sanh xuống Trời Đao Lợi (Trời dục giới thứ 2), ở đây nghe Kiều-thi-ca thuyết bát nhã Ba-la-mật-đa, nhờ nghe pháp ưu thắng nên thăng lên Phạm thiên (Trời sắc giới). Nhờ lợi căn khéo thuyết pháp yếu mà chư thiên tôn làm đạo sư tiếp nối Tổ vị, thời đến giáng sanh ở nước Nguyệt Chi.
Sau khi đắc pháp, Tôn giả đến nước thuộc miền trung Thiên Trúc. Ở đây có vị đại sĩ tên là Xà-dạ-đa đến hỏi:
- Phụ mẫu nhà tôi vốn tin tam bảo mà bệnh tật cứ đeo đuổi, phàm việc làm ăn tạo tác đều không như ý. Trái lại, nhà hàng xóm tôi làm việc chiên đà la (xấu ác hạ tiện) mà thân họ thường khỏe mạnh, công việc hanh thông. Chẳng biết họ có may mắn gì và nhà tôi mắc phải tội gì?
Tôn giả đáp:
- Sao mà nghi được (nhân quả) ư? Vả lại việc quả báo của thiện ác bao gồm ba thời. Người đời
thường gặp: Người nhân từ chết yểu kẻ bạo tàn lại sống lâu, kẻ phản nghịch gặp may người trung nghĩa mắc nạn, thì bác là không nhân quả, chuyện tội phước là hão huyền. Họ hồn tồn đâu biết ảnh hưởng của nhân quả tội phước theo nhau như hình với bóng, hào ly chẳng lệch. Dù cho trải qua trăm ngàn vạn kiếp cũng không tiêu mất.
Bấy giờ Xà-dạ-đa nghe nói xong, liền giải tỏa mối nghi.
Tôn giả nói:
- Ông tuy đã tin tam nghiệp nhưng chưa biết: nghịêp do hoặc sanh, hoặc do thức mà có, thức tùy theo bất giác, bất giác tùy theo tâm. Tâm xưa nay thanh tịnh không sanh diệt không tạo tác, không báo ứng không hơn thua, thường vắng lặng mà linh tri. Nếu ông vào được pháp môn này thì có thể đồng với chư Phật, tất cả pháp thiện ác hữu vi vô vi đều như mộng huyễn.
Xà-dạ-đa thừa dịp nghe Tôn giả dạy, lĩnh hội yếu chỉ, liền khởi phát túc tuệ(29) khẩn cầu xuất gia. Xà-dạ-đa thọ giới cụ túc xong, Tôn giả bảo:
- Nay ta tới lúc tịch diệt. Ông sẽ tiếp nối ta du hành tùy phương tiện giáo hóa.
Rồi truyền trao pháp nhãn. Kệ rằng:
Tánh thượng bổn vô sanh,
Vị đối cầu nhân thuyết.
Ư pháp ký vô đắc,
Hà hồi quyết bất quyết?
Dịch:
Trên tánh vốn không sanh,
Vì người cần mà nói.
Nơi pháp đã vô đắc,
Đâu mong quyết chẳng quyết?(30)
Tôn giả nói:
- Đây là câu Như Lai diệu âm kiến tánh thanh tịnh, ông nên truyền bá cho hậu học.
Nói xong, liền ở trên tòa dùng móng tay rạch mặt hiện màu đỏ như đóa sen hồng mới nở. Từ đóa
sen phóng đại quang minh chiếu soi tứ chúng rồi vào tịch diệt. Xà-dạ-đa xây tháp thờ.
Nhằm năm Tân Thất thứ 14, năm nhâm ngọ (năm 22 công nguyên).
20. Tổ Xà-dạ-đa.
(Sayata)
Người miền Bắc Thiên Trúc, trí tuệ thâm trầm mà lặng lẽ, dạy người đông vô lượng.
Về sau đến thành La duyệt biểu dương đốn giáo. Người học đạo ở đây chỉ chuộng biện luận, người đứng đầu họ tên là Bà-tu Bàn-đầu (Hoa dịch là Biến Hành). Biến Hành thường thì ngày ăn một lần, không nằm, sáu thời lễ Phật, tâm thanh tịnh đạm bạc thế nên chúng quy ngưỡng rất đông.
Muốn độ Ngài, trước tiên Tôn giả hỏi chúng của Ngài:
- Đầu đà(31) Biến Hành đây hay tu Phạm hạnh, có thể thành Phật đạo chăng?
Chúng hỏi lại:
- Thầy chúng tôi tinh tấn cớ sao không thành?
Tôn giả nói:
- Thầy các ông còn xa đạo. Giả sử khổ hạnh dài lâu với số kiếp như vi trần cũng đều là gốc của hư vọng.
Chúng hỏi:
- Tôn giả có đức hạnh gì mà chê bai thầy chúng tôi?
Tôn giả đáp:
- Ta chẳng cầu đạo cũng chẳng điên đảo, ta chẳng lễ Phật cũng chẳng xem thường, ta chẳng ngồi hồi cũng chẳng giải đãi, ta chẳng ăn ngày một bữa cũng chẳng tạp thực, ta chẳng tri túc cũng chẳng tham muốn. Tâm không có gì để mong cầu, đó gọi là đạo.
Bấy giờ Biến Hành nghe qua phát trí vô lậu, hoan hỉ khen ngợi. Tôn giả lại nói với chúng kia:
- Các ông hiểu lời ta nói không? Sở dĩ ta nói thế là vì tâm cầu đạo của Thầy kia tha thiết quá, dây căng quá ắt phải đứt nên ta không tán thành, khiến cho Thầy kia trụ trong chỗ an lạc mà nhập vào trí tuệ chư Phật.
Rồi Tôn giả nói với Biến Hành:
- Tôi vừa nói trước chúng như vậy có oan khuất nhân giả không? Nhân giả khỏi phải phiền lòng chăng?
Đáp:
- Nhớ lại bảy kiếp trước tôi sanh ở nước Thường An Lạc, thờ ngài trí giả Nguyệt Tịnh làm thầy. Ngài Nguyệt Tịnh thọ ký tôi chẳng bao lâu sẽ chứng quả Tư-đà-hàm. Bấy giờ có Bồ tát Đại Quang Minh ra đời, vì già tôi phải chống gậy đến làm lễ yết kiến Bồ tát.
Thầy Nguyệt Tịnh la rầy tôi: “Trọng con khinh cha, sao mà ngươi dốt quá vậy?”. Lúc ấy tôi tự xét mình không có lỗi và xin thầy Nguyệt Tịnh chỉ lỗi cho. Thầy nói: “Ngươi lễ Bồ tát Đại Quang Minh, đem cây gậy dựng tựa vào mặt Phật vẽ trên vách, vì lỗi bất kính này mà mất hai quả vị”. Từ đó về sau tôi trách mình hối lỗi (chẳng dám không tin), dù nghe những lời chửi mắng cũng như gió thoảng như âm vang.
Huống hồ nay được Tôn giả cho uống cam lồ vô thượng mà lại sanh hờn giận ư? Chỉ mong Tôn giả đại từ đem diệu đạo rủ lòng dạy cho.
Tôn giả nói:
- Ông đã vun trồng nhiều phước đức, sẽ thừa kế tông ta. Hãy nghe ta nói kệ:
Ngôn hạ hợp vô sanh,
Đồng ư pháp giới tính.
Nhược năng như thị giải,
Thông đạt sự lý cánh.
Dịch:
Nói ra hợp vô sanh,
Đồng với tánh pháp giới.
Nếu hay hiểu như thế,
Ắt thông đạt sự lý.
Tôn giả trao pháp xong, không rời khỏi tòa bỗng nhiên quy tịch. Chúng thiêu thân thu xá lợi dựng tháp thờ.
Nhằm nhà Hậu Hán Minh đế năm thứ 17, năm giáp tuất (năm 74 công nguyên).
21. Tổ Bà-tu Bàn-đầu.
(Vasubandhu, Thế Thân, Thiên Thân)
Người thành La-duyệt, dòng họ Tỳ-xá-khư. Cha là Quang Cái, mẹ là Nghiêm Nhất, nhà giàu có mà không con. Cha mẹ Ngài đến cúng ở tháp thờ Phật mong cầu có con nối dõi, một đêm nọ mẹ mộng thấy nuốt hai hạt châu: hạt sáng hạt tối, tỉnh giấc bà biết có mang.
Trải qua bảy ngày có một vị La-hán tên là Hiền Chúng đến nhà. Quang Cái thiết lễ tiếp, Hiền Chúng ngồi ngay ngắn nhận lễ; khi Nghiêm Nhất bước ra lễ bái, Hiền Chúng tránh lễ không dám nhận và nói:
- Hãy xoay trở lại mà lễ pháp thân đại sĩ đi.
Quang Cái không hiểu được tại sao vậy, rồi cầm một hạt bảo châu quỳ dâng lên Hiền Chúng nhờ xem châu thật hay giả. Hiền Chúng liền nhận lấy châu không chút khách sáo từ tạ.
Quang Cái không chịu nổi, hỏi:
- Tôi là trượng phu (chồng) làm lễ Ngài chẳng để mắt tới, vợ tôi có đức gì mà Tôn giả kiêng tránh?
Hiền Chúng đáp:
- Tôi nhận lễ dâng châu quý giúp phước cho ông thôi. Vợ ông mang con thánh, ra đời sẽ là mặt trời
trí tuệ làm đèn tiếp nối Tổ vị, vì thế tôi kiêng nể chứ đâu phải tôi coi trọng nữ nhân.
Hiền Chúng lại tiếp:
- Vợ ông sắp sanh hai người con trai: Một người tên là Bà-tu Bàn-đầu, người mà ta tôn kính; người thứ hai tên là Sô-ni (Hoa dịch nghĩa dã thước tử – con chim khách). Xưa Đức Như Lai tu đạo trên núi Tuyết, con Sô-ni làm tổ trên đầu Ngài. Phật đã thành đạo con Sô-ni chịu quả báo làm vua nước Na-đề. Phật đã thọ ký cho nó: “Sau khi ta nhập diệt, đến năm trăm năm lần thứ hai ngươi sanh ở thành La-duyệt, nơi nhà Tỳ-xá-khư cùng bào thai với vị thánh. Hiện nay (tâm ngươi) không sáng”.
Một tháng sau quả nhiên bà Nghiêm Nhất sanh hai người con trai. Đến mười lăm tuổi, Bà-tu Bàn-đầu xin xuất gia với La hán Quang Độ, cảm đến Bồ tát Tỳ-bà-ha truyền giới cho.
Sau khi đắc pháp nơi Tổ Xà-dạ-đa, Tôn giả đi hóa đạo đến nước Na-đề. Vua nước ấy tên là Thường Tự Tại, có hai người con trai: một người tên Ma-ha-la, người kế tên Ma-noa-la.
Vua hỏi Tôn giả:
- Phong thổ thành La-duyệt so với đây là giống hay khác?
Tôn giả đáp;
- Nước kia từng có ba vị Phật ra đời, nay vương quốc của bệ hạ có hai thầy hóa đạo.
Vua hỏi:
- Hai thầy đó là ai?
Tôn giả đáp:
- Phật đã thọ ký năm trăm năm lần thứ hai, sau Phật nhập diệt, có một đại sĩ thần lực xuất gia kế thừa thánh vị. Chính người con thứ của nhà vua, Ma-noa-la là một trong hai thầy đó. Tôi tuy đức mỏng dám nhận là một.
Vua nói:
- Nếu đúng như lời Tôn giả nói, tôi sẽ cho đứa con thứ làm sa môn.
Tôn giả nói:
- Lành thay! Đại vương hay noi theo lời Phật dạy.
Tôn giả cho Ma-noa-la thọ giới cụ túc, rồi nói kệ truyền pháp:
Bào huyễn đồng vô ngại,
Như hà bất liễu ngộ?
Đạt pháp tại kỳ trung,
Phi kim diệc phi cổ.
Dịch:
Bào huyễn hòa vô ngại,
Tại sao chẳng liễu ngộ?
Đạt pháp ngay trong huyễn,
Chẳng xưa cũng chẳng nay.
Tôn giả trao pháp xong, vọt thân lên không trung cao nửa do tuần, đứng một mình cao chót vót. Tứ chúng ngước xem, kính thỉnh Ngài trở lại tòa. Thân Tôn giả trở về tòa ngồi kiết già tịch. Chúng trà tỳ lượm xá lợi xây tháp thờ.
Nhằm nhà Hậu Hán Thương đế năm thứ 12, năm đinh tị (năm 117 công nguyên).
22. Tổ Ma-noa-la.
(Manorata)
Người nước Na-đề, con của vua Thường Tự Tại. Năm 30 tuổi gặp Tổ sư Bà-tu được xuất gia và truyền pháp.
Tôn giả đến miền Tây Ấn-độ. Vua nước đó tên là Đắc Độ, thuộc chủng tộc Cồ-đàm, quy y Phật thừa tinh tấn tu hành. Một hôm bỗng hiện một cái tháp nhỏ chỗ vua tu hành, vua muốn đem tháp cúng dường nhưng đông người nhấc nó lên không nổi. Sau vua mở đại hội triệu tập ba chúng: phạm hạnh, thiền quán và chú thuật, để hỏi chỗ nghi.
Bấy giờ Tôn giả cũng đến dự hội này. Ba chúng trên đều không biện giải được, Tôn giả nói rộng cho vua nghe về nguồn gốc của tháp (Vua A-dục tạo tháp, đây chẳng cần ghi nhiều), nay tháp hiện ra là do năng lực tạo phước của vua chiêu cảm.
Vua nghe lý giải như thế, bèn nói:
- Bậc chí thánh khó gặp, thú vui ở thế gian chẳng phải bền lâu.
Vua liền truyền ngôi cho thái tử theo Tổ xuất gia. Trong bảy ngày vua chứng bốn quả vị.
Tôn giả vỗ về vua và dạy bảo thêm, nói:
- Ông ở nước này tự khéo độ người. Hiện nay có đại pháp khí ở vùng khác, ta sẽ giáo hóa cho được độ.
Vua nói:
- Thầy ứng thân động niệm đến mười phương thì họ sẽ đến, há phải nhọc nhằn đi xa ư?
Tôn giả: - Vâng.
Sau đó Tôn giả đốt hương nói từ xa với tỳ kheo Hạc-lặc-na đang ở nước Nguyệt Chi: “Ông ở nước kia dạy dỗ và dẫn dắt chúng hạc, sắp chứng đạo quả, ông nên tự biết”.
Lúc đó Hạc-lặc-na đang nói kệ giảng kinh cho vua nước kia (Nguyệt Chi) là Bảo Ấn. Họ bỗng thấy có mùi hương lạ tụ lại thành bông hoa.
Vua hỏi:
- Đó là điềm lành gì vậy?
Đáp:
- Đó là Tổ sư Ma-noa-la truyền tâm ấn Phật từ Tây Ấn-độ sắp tới đây, trước hết ban mùi thơm để làm tin vậy.
Hỏi:
- Thầy đó thần lực ra sao?
Đáp:
- Thầy đó được Phật thọ ký từ lâu, hiện ở trong nước kia (Tây Ấn độ) rộng thuyết dạy dỗ pháp thậm thâm.
Bấy giờ vua và Hạc-lặc-na đều làm lễ từ xa. Tôn giả biết rồi, liền từ giã tỳ kheo Đắc Độ đến nước Nguyệt Chi, nhận sự cúng dường của nhà vua và Hạc-lặc-na.
Sau đó Hạc-lặc-na hỏi Tôn giả:
- Tôi ở khu rừng này đã trải qua chín năm (Ấn độ tính một bạch là một năm), tôi có đệ tử là Long Tử tuy còn nhỏ mà thông minh trí tuệ. Tôi với khả năng biết ba đời quá khứ, suy cho cùng mà chẳng biết gốc gác nó ở đâu?
Tôn giả nói:
- Học trò đó trong kiếp thứ năm về trước, sanh trong nước Diệu Hỉ thuộc nhà Bà-la-môn, từng đem gỗ chiên đàn cúng chùa Phật làm chày dộng chuông, vì thế được quả báo thông minh lanh lợi và được chúng kính mộ.
Lại hỏi:
- Tôi có nhân duyên gì mà lồi hạc cảm mến?
Tôn giả đáp:
- Ông từng làm tỳ kheo trong kiếp thứ tư về trước, sắp đi long cung phó hội trai, các đệ tử ông đều muốn đi theo. Ông quán xét trong chúng 500 người, không có được một người đủ phước kham nhận sự cúng dường tuyệt diệu ấy.
Bấy giờ các đệ tử trách: Thầy ta thường thuyết pháp “Đối với sự ăn uống bình đẳng, với pháp cũng bình đẳng. Nay đã không như vậy, dù cho các ông bỏ đời này qua đời khác thay đổi các cõi nước, các ông có gì là thánh đâu mà đi phó hội?”. Năm trăm đệ tử ấy vì phước kém đức bạc thác sanh vào lồi chim, nay còn cảm mến ân huệ ông nên làm hạc chúng theo nhau.
Hạc-lặc-na nghe nói, hỏi:
- Dùng phương tiện nào giúp họ giải thốt?
Tôn giả đáp:
- Ta có vô thượng pháp bảo, ông nên nghe nhận và giáo hóa đến suốt vị lai.
Rồi nói kệ:
Tâm tùy vạn cảnh chuyển,
Chuyển xứ thật năng u.
Tùy lưu nhận đắc tánh,
Vô hỉ phục vô ưu.
Dịch:
Tâm tùy muôn cảnh chuyển,
Chỗ chuyển thật sâu xa.
Theo dòng nhận được tánh,
Không mừng lại không lo.
Bầy giờ hạc chúng nghe kệ xong, bay lên vừa kêu và bỏ đi. Tôn giả ngồi kiết già yên lặng bỗng thiên hóa. Hạc-lặc-na và vua Bảo Ấn xây tháp thờ.
Nhằm nhà Hậu Hán Hồn đế năm thứ 19, năm ất tỵ (năm 165 công nguyên).
23. Tổ Hạc-lặc-na.
(Haklenayasa)
(Lặc-na là Phạn ngữ, Hạc là Hoa ngữ. Vì Tôn giả ra đời thường cảm đến đàn hạc luyến mến đi theo, nên có tên đó).
Người nước Nguyệt Chi, dòng dõi Bà-la-môn. Cha là Thiên Thắng, mẹ là Kim Quang, vì không có con nên cha mẹ Ngài phải đến bảy vị Phật thờ ở Kim Tràng cầu con. Bà Kim Quang mộng thấy một thần đồng đứng trên đỉnh núi Tu-di, tay cầm cái
vòng bằng vàng đến nói với bà “Tôi đến đây”. Khi thức giấc bà biết mình có thai.
Năm 7 tuổi Ngài đi chơi trong thôn xóm thấy dân gian thờ cúng không chơn chánh, bèn vào miếu quở:
- Các người bày đặt chuyện giáng họa ban phước mà đánh lừa người ta. Giết vật cúng tế hằng năm hao phí, làm tổn hại người và vật quá lắm!
Ngài nói xong ngôi miếu bỗng sụp đổ, từ đó dân làng gọi Ngài là ông “Thánh con” (Thánh tử). Năm 22 tuổi xuất gia, 30 tuổi gặp Tôn giả Ma-noa-la trao pháp nhãn tạng.
Tôn giả đi du hóa đến miền Trung Ấn độ, vua nước ấy tên là Vô Úy Hải sùng tín đạo Phật. Tôn giả đang nói chánh pháp cho vua nghe, kế đến vua bỗng thấy hai người mặc áo lụa trắng đến lễ bái Tôn giả.
Vua hỏi:
- Đây là ai vậy?
Sư đáp:
- Đây là hai thiên tử Nhật, Nguyệt (Nhật thần, Nguyệt thần). Xưa tôi từng thuyết pháp cho họ nghe nên họ đến lễ.
Hồi lâu họ biến mất, chỉ còn nghe mùi hương lạ.
Vua hỏi;
- Quốc độ (cõi nước) của hai thần Nhật, Nguyệt có tất cả là bao nhiêu?
Tôn giả đáp:
- Ba ngàn thế giới do Phật Thích ca giáo hóa. Mỗi thế giới có trăm ức tu di sơn mặt trời mặt trăng, nếu ta nói đầy đủ thì không thể hết.
Vua nghe nói hân hoan. Bấy giờ Tôn giả diễn thuyết đạo vô thượng độ chúng có duyên. Long Tử đề cập ở trên, tới lúc chết sớm, có anh là Sư Tử học rộng nhớ dai theo đạo Bà-la-môn. Thầy mình đã mất rồi, em cũng đã mất, Sư Tử bèn đến quy y với Tôn giả và hỏi:
- Muốn cầu đạo, tôi phải dụng tâm thế nào?
Tôn giả đáp:
- Ông muốn cầu đạo, dụng tâm không có đối tượng (dụng tâm)(32).
Hỏi:
- Đã không đối tượng dụng tâm thì ai làm Phật sự?
Tôn giả đáp:
- Nếu ông có đối tượng dụng (tâm) tức là phi công đức, nếu ông vô tác (không có cái tạo tác) mới là Phật sự. Kinh nói: “Ta làm ra công đức mà không có cái để ta làm”.
Sư tử nghe lời đó xong liền nhập trí tuệ Phật. Lúc ấy Tôn giả bỗng nhiên chỉ tay về hướng đông bắc, hỏi:
- Đó là khí tượng gì?
Sư Tử đáp:
- Tôi thấy khí tợ như cầu vồng trắng che phủ đất trời, lại có năm đường khí đen giăng ngang trong đó.
Tôn giả hỏi:
- Điềm đó thế nào?
Đáp:
- Chẳng thể biết.
Tôn giả nói:
- Năm mươi năm sau khi ta diệt độ, nước miền Bắc Thiên Trúc sẽ sanh ra tai nạn, nhằm vào thân
ông. Ta sắp nhập diệt, nay đem pháp nhãn trao lại cho ông, ông hãy khéo tự giữ gìn.
Bèn nói kệ:
Nhận đắc tâm tánh thời,
Khả thuyết bất tư nghị.
Liễu liễu vô khả đắc,
Đắc thời bất thuyết tri.
Dịch:
Khi nhận được tâm tánh,
Mới nói chẳng nghĩ bàn.
Rõ ràng không thể đắc,
Khi đắc, biết chẳng nói.
Tỳ kheo Sư Tử nghe kệ vui thích nhưng chưa hiểu mình sẽ mắc nạn gì, Tôn giả mới nói riêng cho Ngài biết. Nói xong, Tôn giả thị hiện 18 phép thần biến và quy tịch.
Thiêu xác xong phân chia xá lợi, mỗi bên muốn xây tháp thờ riêng. Tôn giả lại hiện ở trên không và nói kệ:
Nhất pháp nhất thiết pháp,
Nhất thiết nhất pháp nhiếp.
Ngô thân phi hữu vô,
Hà phân nhất thiết tháp?
Dịch:
Một pháp tất cả pháp,
Một pháp thu tất cả.
Thân ta chẳng có không,
Sao phân ra nhiều tháp?
Đại chúng nghe kệ thôi chia xá lợi nữa, cùng đến sân Đà đô xây tháp thờ ở đó.
Nhằm nhà Hậu Hán Hiến đế năm thứ 20, năm kỷ sửu (năm 209 công nguyên).
24. Tổ Sư Tử Tỳ-kheo.
(Còn gọi là Sư Tử Tôn giả, Sư tử Bồ-đề, Simhabodhi)
Người miền Trung Ấn độ, dòng họ bà la môn.
Đắc pháp nơi Tổ Hạc-lặc-na, rồi Tôn giả du phương đến nước Kế Tân. Có người tên Ba-lợi-ca vốn dĩ thực tập thiền quán, môn đồ ông sẵn có năm nhóm: 1. Thiền định, 2. Tri kiến, 3. Chấp tướng, 4. Xả tướng, 5. Tịnh khẩu. Tôn giả chất vấn và dạy họ,
bốn nhóm đều mặc nhiên tâm phục, chỉ có Đạt-ma-đạt là thầy của nhóm thiền định, nghe bốn nhóm kia bị hàng phục thì tức giận mới đến gặp Tôn giả để vấn nạn.
Tôn giả hỏi:
- Nhân giả tập định sao lại đến đây? Đã đến rồi sao bảo là tập định?
Đáp:
- Tôi tuy đến đây mà tâm cũng không loạn, định tùy người tập chớ đâu phải do nơi chốn?
Tôn giả nói:
- Nhân giả đã đến thì người tập (định) kia cũng đến. Đã không do nơi chốn thì đâu còn người tập mà tùy?
Đáp:
- Vì cái định tập con người, chẳng phải con người tập cái định. Tôi tuy đến đây mà cái định kia vẫn thường tập.
Tôn giả hỏi:
- Người chẳng tập cái định mà cái định tập người. Vậy chính khi ông đến đây thì cái định ấy tập ai?
Đáp:
- Như ngọc minh châu trong sạch trong ngồi không vết che, nếu cái định thông đạt ắt phải giống như thế.
Sư nói:
- Nếu cái định thông đạt thì y hệt minh châu mà nay thấy nhân giả chẳng phải môn đồ của minh châu.
Kia nói:
- Châu ấy sáng thông suốt trong ngồi đều định, tâm tôi không loạn ví như cái tịnh (sạch) ấy.
Sư nói:
- Châu ấy không trong ngồi (năng sở), nhân giả làm sao hay (năng) định vật nhơ (sở) mà chẳng dao động? Định như thế không phải cái tịnh (sạch) của minh châu.
Đạt-ma-đạt nhờ Tôn giả khai ngộ tâm địa sáng suốt. Tôn giả đã thu phục trọn năm nhóm, danh tiếng đồn xa gần. Tôn giả còn đi tìm người nối pháp, gặp một trưởng giả dẫn theo người con trai.
Trưởng giả hỏi:
- Con tôi đây tên là Tư-đa, mới sanh ra thì bàn tay trái đã nắm chặt, nay nó đã lớn rồi mà vẫn chưa chịu mở ra. Xin Tôn giả chỉ cho tôi biết cái nhân duyên đời trước của nó.
Tôn giả nhìn Tư-đa, vừa nói vừa đưa tay tiếp nhận:
- Trả hạt châu lại ta.
Đồng tử liền mở bàn tay dâng châu lên Ngài. Chúng đều kinh ngạc, Tôn giả nói:
- Thân nghiệp báo đời trước của ta làm tăng, ta có đồng tử thị giả tên Bà-xá. Ta thường cùng đồng tử dự trai ở Tây Hải, nhận hạt châu cúng dường rồi đưa cho đồng tử. Nay nó trả ta hạt châu là lẽ tất nhiên thôi.
Trưởng giả bèn cho con trai ông xuất gia, Tôn giả cho thọ giới cụ túc. Do tiền duyên đó Tôn giả đặt tên là Bà-xá Tư-đa.
Tôn giả lại nói với Tư-đa:
- Thầy ta có lần riêng huyền ký, ta sắp mắc nạn. Chánh pháp nhãn tạng của Như Lai nay chuyển giao cho ngươi, ngươi nên giữ gìn và làm thấm nhuần suốt tới bờ mé vị lai.
Kệ rằng:
Chánh thuyết tri kiến thời,
Tri kiến câu thị tâm.
Đương tâm tức tri kiến,
Tri kiến tức vu kim.
Dịch:
Chánh thuyết lúc tri kiến,
Tri kiến đều là tâm.
Chính tâm tức tri kiến,
Tri kiến tức bây giờ (33).
Tôn giả nói kệ xong, đem y tăng già lê thầm trao cho Tư-đa, dạy đi nước khác tùy cơ duyên giảng dạy. Tư-đa vâng lời đi thẳng đến Nam Thiên Trúc.
Tôn giả cho là tai nạn không nên mong thốt, một mình ở lại nước Kế Tân. Bấy giờ nước này có hai người ngoại đạo, một người tên là Ma-mục-đa, người kia tên Đô-lạc-già. Họ học những pháp huyễn
thuật, muốn cùng nhau mưu phản loạn, mới giả mạo ra hình dáng và cách ăn mặc như tăng đồn của Tôn giả, rồi lén vào cung vua làm thích khách. Họ còn nói: “Nếu việc không thành thì quy tội cho Thích tử”. Yêu quái tự gây họa cũng chưa tới đâu thì việc đã bại lộ.
Vua rất phẫn nộ, nói:
- Lâu nay ta đem lòng quy kính tam bảo, vì sao muốn gây sát hại quá đáng như thế?
Vua tức thời ra lệnh phá hủy chùa chiền, bài trừ Thích chúng. Rồi tự cầm gươm đến gặp Tôn giả, vua hỏi:
- Thầy được uẩn (ngã) không chưa?
Tôn giả đáp:
- Đã được ngã không.
Hỏi:
- Lìa sanh tử chưa?
Tôn giả đáp:
- Đã lìa sanh tử.
Vua hỏi:
- Đã lìa sanh tử, có thể cho ta cái đầu chăng?
Tôn giả nói:
- Thân này chẳng phải ta, còn tiếc gì cái đầu.
Vua liền vung đao chặt đầu Tôn giả. Sữa trắng phun vọt lên cao mấy thước. Cánh tay phải của vua cũng liền theo đầu rơi xuống đất, bảy ngày sau vua mất. Thái tử Quang Thủ than:
- Cha tôi vì cớ gì tự chuốc lấy tai họa ấy?
Bấy giờ có tiên nhân ở núi Tượng Bạch biết rõ việc nhân quả ấy, đến nói đầy đủ nhân đời trước cho Quang Thủ nghe mà giải tỏa lưới nghi (Duyên sự đời trước giữa Tôn giả và vua có ghi đủ trong Thánh Trụ Tập và Bảo Lâm Truyện). Rồi nhận thi thể của Tôn giả Sư Tử mà xây tháp tại đó thờ.
Nhằm nhà Ngụy Tề vương năm thứ 20, năm kỷ mão (259 công nguyên) (Đúng ra là năm Cao Quý Hương công thứ 6, vì Tề vương tên là Phương lên ngôi được 15 năm bị phế đi. Chánh Tông Ký ghi “Bảo Lâm Truyện chép lầm là kỷ mão, đúng ra là Tề vương Phương năm đinh mão” – 247 công nguyên. Vậy thì là năm Tề vương thứ 8).
Tôn giả Sư Tử trao cho Bà-xá Tư-đa tâm pháp tín y làm chánh tự (chánh truyền), ngồi ra còn bàng xuất Đạt-ma-đạt qua bốn đời gồm 22 vị.
25. Tổ Bà-xá Tư-đa.
(Basasita)
Người nước Kế Tân, dòng họ Bà-la-môn, cha tên là Tịch Hạnh, mẹ là Thường An Lạc. Lúc đầu mẹ mộng thấy cây gươm thần, nhân đó mà có thai. Sanh ra đời là Ngài đã nắm bàn tay trái rồi, cho đến khi gặp Sư Tử Tôn giả hiển phát nhân duyên đời trước, và Ngài thầm nhận tâm ấn Tổ.
Sau đi về phương Nam đến miền Trung Ấn-độ, vua nước đó là Ca Thắng thiết lễ cúng dường. Bấy giờ có ngoại đạo hiệu là Vô Ngã Tôn, ban đầu vì thấy vua lễ trọng Ngài mà sanh tật đố, đến nỗi muốn thách Tổ cùng luận nghĩa, may ra thắng được mà củng cố sự nghiệp mình.
Rồi có mặt vua, Vô Ngã Tôn nói với Tổ:
- Tôi lý giải mặc luận mà chẳng dùng ngôn thuyết.
Tổ hỏi:
- (Chẳng dùng ngôn thuyết thì) Biết ai hơn thua?
Đáp:
- Cốt không tranh luận hơn thua, chỉ cần nắm nghĩa ấy.
Tổ hỏi:
- Ông lấy cái gì làm nghĩa?
Đáp:
- Vô tâm làm nghĩa?
Tổ hỏi:
- Ông đã vô tâm sao có thể thành nghĩa được?
Đáp:
- Tôi gọi “vô tâm”, chính là danh chẳng phải nghĩa?
Tổ nói:
- Ông nói vô tâm chính là danh chẳng phải nghĩa, tôi nói phi tâm chính là nghĩa chẳng phải danh.
Hỏi:
- Chính là nghĩa chẳng phải danh thì ai hay biện nghĩa?
Tổ hỏi:
- Ông nói chính là danh chẳng phải nghĩa thì danh đó là danh gì?
Đáp:
- Vì biện cái phi nghĩa mà mượn danh nên danh đó là vô danh.
Tổ nói:
- Danh đã phi danh và nghĩa cũng phi nghĩa thì người biện là ai, cần biện việc gì?
Bàn qua luận lại như thế đến 59 lần ngoại đạo mới ngậm miệng tin phục. Lúc bấy giờ Tổ bỗng nhiên nhìn về phương bắc, chắp tay cất tiếng than: “Thầy ta, Sư Tử Tôn giả! Hôm nay gặp nạn, đau thương lắm thay!”.
Rồi từ giả vua đi về phương nam, đến Nam Thiên Trúc Tổ tiềm ẩn nơi sơn cốc. Bấy giờ vua nước ấy tên là Thiên Đức đón mời cúng dường. Vua có hai người con trai: người thì tánh tình hung bạo mà thân thể khỏe mạnh, người thì nhu hòa mà bệnh tật liên miên. Tổ bèn tường thuật nhân quả của hai người cho vua nghe, vua liền tan hết mối nghi.
Lại có thầy về chú thuật, ganh ghét đạo của Tổ nên họ bí mật đầu độc dược vào đồ ăn uống. Tổ biết nhưng vẫn dùng, họ trở lại bị tai họa, xin đầu Tổ xuất gia, Tổ cho họ thọ giới cụ túc.
Mười sáu năm sau, thái tử Đắc Thắng lên ngôi lại tin ngoại đạo, muốn hại Tổ. Thái tử Bất-như
Mật-đa, con vua Đắc Thắng, vì can gián vua cha bị bỏ tù.
Vua nóng, vội hỏi Tổ:
- Nước ta vốn hết yêu ma, điều thầy truyền dạy chính thuộc tông phái nào?
Tổ đáp:
- Nước của nhà vua xưa nay thật không có tà pháp, cái điều tôi được chính là tông của Phật.
Vua hỏi:
- Phật diệt độ đã 1200 năm nay, thầy nhờ ai mà đắc ư?
Tổ đáp:
- Ẩm Quang Đại sĩ đích thân nhận tâm ấn Phật, lần lượt truyền trao đến đời thứ 24 là Sư Tử Tôn giả, tôi đắc nhờ Tôn giả.
Vua nói:
- Ta nghe Sư Tử Tỳ kheo không tránh khỏi bị chém đầu, làm sao có thể truyền pháp cho người sau được?
Tổ đáp:
- Lúc tai nạn của thầy tôi chưa tới, thầy mật truyền cho tôi pháp kệ và tín y để làm biểu tín sự truyền thừa của thầy.
Vua hỏi:
- Y đó còn không?
Tổ liền lấy y trong đãy ra trình vua. Vua ra lệnh đốt y. Thấy tướng hào quang ngũ sắc vẫn tươi đẹp, củi tàn mà y vẫn còn nguyên vẹn như trước, vua hối hận việc làm của mình mới bày lễ truy hối với Tổ Sư Tử. Việc chơn truyền từ Tổ Sư Tử đã xác minh, vua bèn ân xá thái tử. Từ đó thái tử xin Tổ xuất gia.
Tổ hỏi thái tử.
- Ông muốn xuất gia sẽ vì việc gì?
Đáp:
- Nếu con xuất gia sẽ không vì việc ấy.
Tổ hỏi:
- Không vì việc gì?
Đáp:
- Không vì việc thế tục.
Tổ hỏi:
- Sẽ vì việc gì?
Đáp:
- Sẽ vì việc Phật.
Tổ nói:
- Trí tuệ thái tử vốn tự nhiên đến, nhất định chư Thánh sẽ báo điềm.
Tổ bèn cho thái tử xuất gia. Sáu năm làm thị giả, sau thái tử thọ giới cụ túc ở trong cung vua. Lúc truyền giới đại địa chấn động, có khá nhiều điều linh dị.
Tổ dạy Ngài:
- Ta đã già yếu chẳng còn ở đời lâu. Ông phải khéo giữ chánh pháp nhãn tạng, độ khắp quần sanh.
Hãy nghe ta nói kệ:
Thánh nhân thuyết tri kiến,
Đương cảnh vô thị phi.
Ngã kim ngộ chơn tánh,
Vô đạo diệc vô lý.
Dịch:
Thánh nhân chỉ tri kiến,
Đối cảnh không thị phi.
Ta nay ngộ chơn tánh,
Không đạo cũng không lý.
Bất-như Mật-đa nghe kệ xong lại bạch Tổ:
- Pháp y nên truyền trao chăng?
Tổ nói:
- Thầy ta gặp nạn nên tạm mượn y này để chứng minh. Thân ông không tai nạn cần gì y này, ông giáo hóa được người mười phương tin theo.
Bất-như Mật-đa nghe dạy làm lễ rồi lui. Tổ thị hiện với thần biến, hóa tam muội hỏa tự thiêu thân. Xá lợi cao hơn đất bằng khoảng một thước, vua Đắc Thắng cho xây tháp chôn cất.
Nhằm nhà Đông Tấn vua Minh đế, năm Thái Ninh thứ 3, năm ất dậu (325 công nguyên).
26. Tổ Bất-như Mật-đa.
(Punyamitra)
Ngài là thái tử con vua Đắc Thắng ở miền Nam Ấn độ.
Đã được Tổ Bà-xá Tư-đa hóa độ và đắc pháp. Tôn giả đến miền Đông Ấn độ, vua nước này tên là
Kiên Cố theo ngoại đạo, thờ Phạm chí Trường Trảo (móng tay để dài) làm thầy.
Khi Tôn giả sắp đến, vua và chúng Phạm chí đều thấy bạch khí xông khắp trời đất. Vua hỏi:
- Đó là điềm lành gì?
Phạm chí dự biết Tôn giả đang nhập cảnh, sợ nhà vua ngã về phía thiện, bèn đáp:
- Đó là điềm ma đến đấy. Có gì là lành đâu?
Rồi Phạm chí cho họp các đồ chúng lại, bàn rằng:
- Bất-như Mật-đa sắp vào đô thành, người nào có thể ngăn hắn lại?
Các đệ tử thưa:
- Chúng tôi mỗi người có chú thuật, có thể gây chấn động trời đất vào nước vào lửa được, lo gì chứ?
Tôn giả đi tới, trước hết thấy tường vách của hồng cung có khí màu đen, bèn nói: “Tiểu nạn thôi”. Rồi thẳng đến cung xin yết kiến vua. Vua hỏi:
- Thầy đến đây để làm gì?
Tôn giả đáp:
- Để độ chúng sanh.
Hỏi:
- Dùng pháp gì để độ?
Tôn giả đáp:
- Tùy theo mỗi loại chúng sanh mà độ họ.
Bấy giờ chúng Phạm chí nghe Tổ nói, không kềm được sự phẫn nộ, liền dùng huyễn pháp hóa ra hòn núi lớn ở trên đỉnh đầu của Tôn giả. Ngón tay Tôn giả chỉ bọn Phạm chí thì hòn núi chợt ở trên đầu bọn Phạm chí, chúng Phạm chí hoảng sợ xin tha mạng. Tôn giả xót thương họ mê lầm, lại chỉ ngón tay thì hòn núi biến hóa kia tan mất, rồi diễn thuyết pháp yếu khiến nhà vua hướng đến chơn thừa. Lại nói với vua:
- Nước này sẽ có thánh nhân thừa kế tôi.
Bấy giờ trong nước có con trai nhà Bà-la-môn tuổi khoảng 20, còn nhỏ mà cha mẹ đã mất, chẳng biết tên họ là gì. Có lúc y tự xưng là Anh Lạc nên người đời gọi là đồng tử Anh Lạc, đồng tử đi lang thang trong làng mạc ăn xin sống qua ngày, đại khái như Bồ tát Thường Bất Khinh vậy.
Có người hỏi:
- Sao anh đi nhanh vậy?
Liền đáp:
- Sao anh đi chậm vậy?
Có người hỏi:
- Anh họ gì?
Bèn đáp:
- Cùng họ với anh.
Không ai biết anh làm gì. Về sau, có lần vua và Tôn giả đi cùng xe ra khỏi thành, gặp đồng tử Anh Lạc đứng trước xe làm lễ. Tôn giả hỏi:
- Ông còn nhớ việc xưa chăng?
Đáp:
- Tôi nhớ trong kiếp xa xưa cùng pháp hội với thầy, thầy diễn Ma-ha Bát-nhã, tôi giảng Tu-đa-la (Kinh) thậm thâm. Việc gặp lại hôm nay cũng hợp với nhân xưa.
Tôn giả lại nói với vua:
- Đồng tử này chẳng phải ai khác, chính là Bồ tát Đại Thế Chí. Sau vị Thánh này lại có hai vị thánh ra đời: một vị giáo hóa Nam Ấn độ, một vị có duyên ở nước Chấn đán (Trung Hoa) nhưng trong chín năm lại trở về xứ này.
Do nhân xưa, Tôn giả đặt tên Bát-nhã Đa-la(34) và truyền pháp nhãn tạng.
Kệ rằng:
Chơn tánh tâm địa tàng,
Vô đầu diệc vô vĩ.
Ứng duyên nhi hóa vật,
Phương tiện hô vi trí.
Dịch:
Chơn tánh ẩn tâm địa(35)
Không đầu cũng không đuôi.
Ứng duyên mà hóa vật,
Phượng tiện gọi là trí.
Tôn giả truyền pháp xong, từ giã vua:
- Tôi hóa duyên đã mãn sẽ quy về tịch diệt. Đối với pháp tối thượng thừa mong vua chớ quên việc ngoại hộ.
Nói xong, Tổ hiền trở lại chỗ ngồi cũ, ngồi kiết già và tịch, hóa lửa tự thiêu. Vua thu xá lợi xây tháp chôn cất.
Nhằm nhà Đông Tấn vua Hiếu Vũ đế, năm Thái Nguyên thứ 13, năm mậu tý (388 công nguyên).
27. Tổ Bát-nhã Đa-la.
(Prajnõadhara)

Ngài là người miền Đông Ấn độ.
Nơi Tổ Bất-như Mật-đa, đắc pháp rồi Tôn giả đi du hóa đến Nam Ấn độ. Vua nước ấy tên là Hương Chí, tôn thờ Phật thừa, kính trọng tăng cúng dường cứu giúp chúng sanh vượt qua thường tình, vua thí cả vô giá bảo châu.
Bấy giờ vua có ba vương tử, người thứ ba (út) là khai sĩ. Tôn giả muốn thử nghiệm cái sở đắc của vị này, bèn lấy vô giá bảo châu do vua cúng ra hỏi ba vị vương tử rằng:
- Châu này tròn sáng, trên đời có chi bằng được cái này chăng?
Vị thứ nhất là Mục-tịnh Đa-la, vị thứ hai là Công-đức Đa-la đều đáp:
- Trong hàng thất bảo, châu này là quý báu vốn không có gì hơn được. Trừ phi Tôn giả có đạo lực, có ai giữ được nó đâu?
Vị thứ ba, Bồ-đề Đa-la đáp:
- Cái này là đồ quý báu của thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ quý báu thì sự quý báu của pháp là tột đỉnh. Đây là ánh sáng của thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ ánh sáng thì ánh sáng trí tuệ là tột đỉnh. Đây là sự trong sáng (vô nhiễm) của thế gian chưa đủ làm tột, trong các sự trong sáng thì sự trong sáng của tâm là tột đỉnh.
Châu này sáng tỏ mà không thể tự chiếu sáng tỏ được, phải nhờ ánh sáng trí tuệ mới hay biện biệt đến sự sáng tỏ đó; đã biện biệt sự sáng tỏ đó mới biết đó là châu, đã biết đó là châu thì hiểu rõ sự quý báu của nó. Nếu hiểu rõ sự quý báu của nó, nó quý báu mà không tự hiểu mình quý báu. Cũng như biện biệt cho nó là châu mà châu không tự biện cho mình là châu, châu không thể tự cho mình là châu mà phải nhờ châu trí tuệ mới biện biệt được châu thế gian; châu quý báu mà không thể tự cho mình quý báu, phải nhờ sự quý báu của trí tuệ mới hiểu rõ sự quý báu của pháp (châu).
Thế mà thầy đã có cái đạo kia thì cái báu kia liền hiển lộ, chúng sinh có đạo thì sự quý báu của tâm cũng thế.
Tôn giả khen ngợi trí tuệ biện luận của Bồ-đề Đa-la, lại hỏi thêm:
- Trong các vật, vật nào vô tướng?
Đáp:
- Trong các vật, (tâm) chẳng khởi là vô tướng.
Lại hỏi:
- Trong các vật, vật nào tối cao?
Đáp:
- Trong các vật, (tâm) nhân ngã là tối cao.
Lại hỏi:
- Trong các vật, vật nào tối đại?
Đáp:
- Trong các vật, pháp tánh là tối đại.
Tôn giả biết đây là pháp tự (người nối pháp), nhưng thời tiết chưa đến Tổ vẫn giữ yên lặng và chưa phân định cho Đa-la. Đến lúc vua Hương Chí chán đời thì mọi người đều kêu khóc tuyệt vọng, chỉ có người con thứ ba là Bồ-đề Đa-la nhập định trước
linh cữu, trải qua bảy ngày mới xuất định rồi xin Tổ xuất gia.
Sau khi thọ giới cụ túc, Tôn giả bảo Đa-la:
- Như Lai đem chánh pháp nhãn trao cho Đại Ca-diếp, lần lượt như thế mới đến tay ta. Nay ta trao cho ông, hãy nghe ta nói kệ:
Tâm địa sanh chư chủng,
Nhân sự phục sanh lý.
Quả mãn bồ đề viên,
Hoa khai thế giới khởi.
Dịch:
Tâm địa sanh các giống,
Do sự lý sống lại.
Quả đầy bồ đề đủ,
Hoa nở thế giới bày.
Tôn giả truyền pháp xong liền từ tòa đứng dậy, giơ thẳng hai tay. Mỗi tay phóng ánh sáng thành 27 đạo hào quang ngũ sắc, lại vọt thân lên không trung cao bảy cây đa-la, rồi hóa lửa tự thiêu. Từ trên không xá lợi rơi xuống như mưa, chúng thu gom xá lợi xây tháp thờ.
Nhằm nhà Tiền Tống Hiếu Vũ đế, năm Đại Minh thứ nhất, năm đinh dậu (457 công nguyên).
(Chánh Tông Ký ghi là “Đời Tống Hiếu Vũ”. Lại chú: Lấy năm Đạt-ma 67 tuổi mà tính năm. Đúng ra là đời Tống Hiếu Vũ đế, năm Kiến Nguyên thứ nhất, năm giáp ngọ – 454 công nguyên).
HẾT QUYỂN II


Chú thích:
(21) Bàng xuất: Đệ tử đắc pháp, nối pháp Tổ nhưng thuộc dòng phụ.
(22) Thế Thân này là Tổ thứ 21 thuộc Thiền tông, không phải là Bồ tát Thế Thân – em của Bồ tát Vô Trước – của Duy Thứïc học thuộc phái Đại thừa Du-già (Theo Phật Quang Đại Từ Điển)
* Hai lần năm trăm năm, nghĩa là 1000 năm sau khi Phật nhập niết bàn
(23) Nguyên là ngã cố, nghĩa như ngã sở (ND)
(24) Tiền Hán Văn đế (179-157 trước công nguyên), năm thứ 19 là năm 161 trước công nguyên, nhằm năm kỷ mão. Năm canh thìn là năm 160 trước công nguyên! Có thể là năm 140 sau công nguyên (ND).
(25) Sau khi Phật nhập niết bàn.
(26) Năm mậu thìn này, có thể là năm 188 sau công nguyên. (ND).
(27) Tâm nhãn: Mắt của tâm hằng có khắp nơi, dùng được thì các tướng có không đều rỗng không.
(28) Sẵn có hạt giống có đất tâm, nhân duyên giúp các pháp sanh khởi. Duyên sanh pháp mà tâm pháp không trở ngại nhau, ngay lúc pháp sanh là cơ hội tốt khả dĩ nhận ra “cái chẳng sanh” (tâm địa, chơn như). Vì tâm pháp vốn không hai.
(29) Túc tuệ: Trí tuệ vốn sẵn có, do duyên đời mà quên đi.
(30) Quyết: Thấy được lý vô sanh vô đắc thì không cần phải quyết nghi và cũng không phải quả quyết nhất định điều gì.
31 Đầu đà: Nghĩa là rũ sạch những ô nhiễm. Phương tiện tu khổ hạnh, gồm 13 hạnh đầu đà: 1. Mặc đồ rách vá; 2. Mặc đồ ba phần; 3. Khất thực; 4. Khất thực theo thứ tự; 5. Ngày ăn một lần; 6. Chỉ ăn một phần; 7. Không ăn giữa bữa; 8. Ở rừng; 9. Ở gốc cây; 10. Ở giữa trời; 11. Ở nghĩa địa; 12. Ngủ đâu cũng được; 13. Ngồi không nằm.
(32) Thấy nghe hay biết mà không đối tượng (rỗng không) sắc thanh hương …., nghĩa là vô trụ vô tướng (ND).
(33) Lúc nói có sự tỏ rõ của tri kiến vô kiếân (Tri kiến Phật) thì nói chi cũng hợp với đạo, gọi là chánh thuyết.
Tri kiến Phật là không hai với thân tâm (Tri kiến lập tri-dụng). Vì chơn vọng không hai, muốn nhận tri kiến Phật thì ngay lúc động dụng của thân tâm này, tức là ngay bây giờ.
(34) Thầy giảng Bát-nhã, trò thuyết Tu Đa-la
(35) Tâm địa: Ở đây hiểu như tám thức: tâm, ý và thức của Duy Thức Học. Chơn tánh và tâm địa, trí và thức hòa hợp như sữa với nước.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 30 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Các bài tiểu luận về Phật giáo của Trần Trọng Kim


Hát lên lời thương yêu


Gõ cửa thiền


Kinh Bi Hoa

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.147.36.61 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập