Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
PHẨM THỨ SÁU : ĐÀ LA NI TỐI TỊNH ĐỊA
Lúc đó, Bồ tát Sư Tử Tướng Vô Ngại Quang Diệm cùng với vô lượng ức chúng đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật, đem đủ thứ hương hoa, tràng phan bảo cái để cúng dường mà nói lên rằng :
- Dùng bao nhiêu nhân duyên để được tâm Bồ Đề ? Cái gì là tâm Bồ Đề ? Thưa đức Thế Tôn ! Đối với Bồ Đề thì tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được, tâm quá khứ chẳng thể được. Lìa khỏi Bồ Đề thì tâm Bồ Đề chẳng thể được. Bồ Đề thì chẳng thể ngôn thuyết (nói bằng lời), tâm thì cũng không sắc, không tướng, không sự, không nghiệp, chẳng phải có thể tạo tác. Chúng sinh thì cũng chẳng thể được, cũng chẳng thể biết ! Thưa đức Thế Tôn ! Thì làm sao nghĩa thậm thâm của các pháp mà có thể biết ?
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Sự nghiệp bí mật của Bồ Đề tạo tác chẳng thể được biết. Lìa khỏi Bồ Đề thì tâm Bồ Đề cũng chẳng thể được. Bồ Đề thì chẳng thể ngôn thuyết, tâm cũng vô tướng, chúng sinh cũng chẳng thể được biết. Vì sao vậy ? Vì như ý, tâm cũng như vậy. Như tâm, Bồ Đề cũng như vậy, chúng sinh cũng như vậy. Như chúng sinh, tất cả pháp ba đời cũng như vậy.
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Như vậy Đại Bồ tát được gọi là tâm thông tất cả pháp, chính là nói Bồ Đề và tâm Bồ Đề. Bồ Đề chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Tâm cũng như vậy, chúng sinh cũng như vậy. Ở trong cái như này cũng chẳng thể được. Vì sao vậy ? Vì tất cả pháp không sinh. Bồ Đề chẳng thể được tên Bồ Đề chẳng thể được, chúng sinh chẳng thể được tên chúng sinh chẳng thể được, Thanh Văn chẳng thể được, tên Thanh Văn gọi là chẳng thể được, Duyên Giác chẳng thể được Tên Duyên Giác chẳng thể được. Bồ tát chẳng thể được tên Bồ tát chẳng thể được, Phật chẳng thể được tên Phật chẳng thể được, hành phi hành chẳng thể được tên hành phi hành chẳng thể được. Ở trong tất cả pháp Tịch Tịnh mà được an trụ, nương vào tất cả thiện căn công đức mà được phát ra thì đó gọi là sơ phát tâm Bồ Đề, ví như vua núi Bảo Tu Di. Đó gọi là Đàn Ba la mật nhân. Phát tâm thứ hai ví như đại địa trì giữ từng mỗi một pháp sự. Đó gọi là Thi Ba la mật nhân (nhân trì giới). Ví như sư tử lông ức dài, vua của loài thú, có thần lực lớn, bước đi một mình không sợ không có run rẩy, tâm thứ ba như vậy gọi là Sằn đề Ba la mật nhân (nhân nhẫn nhục). Ví như sức Na la diên của phong luân (bánh xe gió) mạnh mẽ nhanh chóng, tâm thứ tư chẳng thoái chuyển như vậy, đó gọi là Tỳ lê gia Ba la mật nhân (nhân tinh tấn). Ví như lầu ngoạn cảnh bằng bảy báu có bốn hành lang xung quanh, gió mát mẽ thổi vào bốn cửa. Tâm thứ năm như vậy sinh ra đủ thứ pháp tạng công đức còn chưa mãn túc. Đó gọi là Thiền Ba la mật nhân (nhân thiền định). Ví như ánh sáng vầng mặt trời tỏa sáng rực rỡ. Tâm thứ sáu như vậy có thể phá diệt tối tăm sinh tử. Đó gọi là Bát nhã Ba la mật nhân (nhân trí tuệ). Ví như vị thương chủ đại phú có thể khiến cho các tâm nguyện thỏa mãn đầy đủ. Tâm thứ bảy như vậy có thể khiến cho qua khỏi con đường hiểm ác sinh tử, có thể khiến cho được nhiều báu công đức. Đó gọi là Phương Tiện Thắng Trí Ba la mật nhân. Ví như vầng trăng viên mãn sạch trong. Tâm thứ tám như vậy, tất cả cảnh giới thanh tịnh đầy đủ. Đó gọi là Nguyện Ba la mật nhân. Ví như vua Chuyển Luân Thánh làm chủ Binh bảo thần (bề tôi) thì xử lý phân công theo như ý. Tâm thứ chín như vậy, khéo có thể trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh, công đức thấm nhuần khắp, lợi ích rộng rãi cho tất cả. Đó gọi là Lực Ba la mật nhân. Ví như hư không và Chuyển Luân Thánh Vương. Tâm thứ mười như vậy, đối với tất cả cảnh giới đều thông đạt, đối với tất cả pháp tự tại, đến được địa vị quán đảnh. Đó gọi là Trí Ba la mật nhân - Đức Phật dạy - Này thiện nam tử ! Như vậy là mười thứ nhân của tâm Bồ Đề của Đại Bồ tát.
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Nương theo năm thứ pháp để thành tựu Đàn Ba la mật của Đại Bồ tát. Những gì là năm ? Một là tín căn, hai là từ bi, ba là không lòng cầu dục, bốn là nhiếp thọ tất cả chúng sinh, năm là nguyện cầu trí Nhất Thiết Trí. Thiện nam tử này nương theo năm pháp đó thì Đàn Ba la mật có thể được thành tựu - Đức Phật dạy - Này thiện nam tử ! Nương theo năm pháp, Đại Bồ tát thành tựu Thi Ba la mật. Những gì là năm ? Một là ba nghiệp thanh tịnh. Hai là chẳng vì tất cả chúng sinh tạo tác nhân duyên phiền não. Ba là cắt đứt các con đường ác, mở cửa đường lành. Bốn là qua khỏi địa vị của Thanh Văn, Duyên Giác. Năm là tất cả nguyện công đức thỏa mãn đầy đủ. Này thiện nam tử ! Nương theo năm pháp này thì Thi Ba la mật có thể được thành tựu.
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Lại nương theo năm pháp, Đại Bồ tát có thể thành tựu Sằn đề Ba la mật. Những gì là năm ? Một là điều phục phiền não tham, sân. Hai là quán chỉ tức chẳng tiếc thân mạng, chẳng sinh ra an lạc. Ba là suy nghĩ nghiệp xưa. Bốn là muốn thành thục thiện căn công đức của tất cả chúng sinh nên phát tâm từ bi. Năm là vì muốn được Vô sinh pháp nhẫn thậm thâm. Này thiện nam tử ! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Sằn đề Ba la mật (nhẫn nhục độ vô cực).
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Lại nương theo năm pháp, Đại Bồ tát thành tựu Tỳ lê gia Ba la mật. Những gì năm ? Một là cùng các phiền não chẳng được ở chung. Hai là phước đức chưa đủ chẳng được an vui. Ba là tất cả việc khó làm chẳng sinh lòng nhàm chán. Bốn là vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh nên thành tựu đại từ đại bi để nhiếp thọ. Năm là nguyện cầu Bất Thoái Chuyển địa. Này thiện nam tử ! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Tỳ lê gia Ba la mật (Tinh tấn độ vô cực).
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Lại nương theo năm pháp, Bồ tát Mahatát thành tựu Thiền Ba la mật. Những gì là năm ? Một là tất cả thiện pháp nhiếp trì chẳng tan mất. Hai là giải thoát hai chỗ sinh tử chẳng nhiễm trước. Ba là nguyện được thần thông vì thành tựu thiện căn của chúng sinh. Bốn là phát tâm làm sạch sẽ pháp giới vì lòng thanh tịnh. Năm là cắt đứt cội rễ tất cả phiền não của chúng sinh. Này thiện nam tử ! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Thiền Ba la mật.
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Lại có năm pháp, Đại Bồ tát thành tựu Bát nhã Ba la mật. Những gì là năm ? Một là đối với tất cả chư Phật Bồ tát thông tuệ đại trí thì cúng dường thân cận lòng không chán đủ. Hai là các đức Phật Như Lai nói pháp thậm thâm, lòng thường ưa nghe không có chán đủ. Ba là Chân tục thắng trí. Bốn là thấy, nghĩ phiền não mà như vậy thắng trí có thể phân biệt cắt đứt. Năm là đối với pháp ngũ minh của thế gian đều thông đạt. Này thiện nam tử ! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Bát nhã Ba la mật -
Đức Phật dạy :
- Này thiện nam tử ! Lại nương theo năm pháp, Đại Bồ tát thành tựu phương tiện thắng trí Ba la mật. Những gì là năm ? Một là đối với ý dục và tâm hành phiền não của tất cả chúng sinh đều thông đạt. Hai là vô lượng những pháp môn đối trị tâm đều hiểu rõ. Ba là Đại từ đại bi vào ra tự tại. Bốn là Đại Ba la mật có thể tu hành thành thục, nguyện cầu đều thỏa mãn đầy đủ. Năm là tất cả Phật pháp liễu đạt nhiếp thọ đều nguyện cầu. Này thiện nam tử ! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu phương tiện Thắng trí Ba la mật.
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Lại có năm pháp, Đại Bồ tát thành tựu nguyện Ba la mật. Những gì là năm ? Một là đối với tất cả pháp bản lai chẳng sinh chẳng diệt, chẳng có chẳng không, lòng trụ an lạc. Hai là quan sát tất cả các pháp tối diệu, tất cả cấu bẩn thanh tịnh tâm được an trụ. Ba là qua tất cả tướng, tâm Như Như, không tác, không hành, chẳng khác, chẳng động, an tâm với Như. Bốn là vì việc lợi ích chúng sinh, ở trong tục đế, được an tâm trụ. Năm là đối với Xa ma tha, Tỳ bát xá na (chỉ quán) đồng thời có thể trụ. Này thiện nam tử ! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Nguyện Ba la mật.
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Nương theo năm pháp sau đây Đại Bồ tát thành tựu Lực Ba la mật. Những gì là năm ? Một là tâm hạnh hiểm ác của tất cả chúng sinh, trí lực có thể giải được. Hai là có thể khiến cho tất cả chúng sinh vào với pháp thậm thâm. Ba là tất cả chúng sinh qua lại sinh tử theo nhân duyên của họ, thấy biết được như vậy. Bốn là đối với ba nhóm trí lực của tất cả chúng sinh có thể phân biệt biết. Năm là lý Như là chủng tử là thành thục, là giải thoát. Như vậy nói pháp đều chính là trí lực. Này thiện nam tử ! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Lực Ba la mật.
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Lại có năm pháp, Đại Bồ tát tu hành thành tựu Trí Ba la mật. Những gì là năm ? Một là đối với tất cả pháp phân biệt thiện ác đầy đủ trí năng. Hai là đối với hắc pháp bạch pháp xa lìa hay nhiếp lấy đầy đủ trí năng. Ba là đối với sinh tử, Niết Bàn chẳng chán, chẳng mừng đầy đủ trí năng. Bốn là hạnh đại phước đức, hạnh đại trí tuệ được độ rốt ráo đầy đủ trí năng. Năm là tất cả pháp bất cộng.v.v.... của chư Phật và trí Nhất Thiết trí đầy đủ quán đỉnh trí năng. Này thiện nam tử ! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Trí Ba la mật
Đức Phật dạy :
- Này thiện nam tử ! Cái gì là nghĩa của Ba la mật ? Hành đạo thắng lợi là nghĩa của Ba la mật. Đầy đủ trí đại thậm thâm là nghĩa của Ba la mật; hành chẳng hành pháp lòng chẳng chấp trước là nghĩa của Ba la mật; tội lỗi của sinh tử, công đức của Niết Bàn, chánh giác, chánh quán là nghĩa của Ba la mật; kẻ ngu người trí đều nhiếp thọ hết là nghĩa của Ba la mật; có thể hiện đủ thứ pháp bảo trân diệu là nghĩa của Ba la mật; trí vô ngại giải thoát đầy đủ là nghĩa của Ba la mật; pháp giới, chúng sinh giới phân biệt biết là nghĩa của Ba la mật; Đàn (bố thí).v.v.. trí có thể khiến cho đi đến Bất Thoái Chuyển địa là nghĩa của Ba la mật; có khả năng làm đầy đủ Vô sanh pháp nhẫn, là nghĩa của Ba la mật; thiện căn công đức của tất cả chúng sinh có thể khiến cho thành thục là nghĩa của Ba la mật; ở đạo tràng thanh lương thành tựu Phật tuệ, mười lực, bốn vô úy, pháp bất cộng.v.v... là nghĩa của Ba la mật; sinh tử, Niết Bàn đều là vọng kiến có thể độ không còn nữa là nghĩa của Ba la mật; tế độ tất cả là nghĩa của Ba la mật; tất cả người ngoài đến vấn nạn nhau mà giỏi có thể giải thích, khiến cho họ hàng phục là nghĩa của Ba la mật; có thể chuyển mười hai bánh xe hành pháp là nghĩa của Ba la mật; không sở trước, không sở kiến, không hoạn lụy, không suy nghĩ khác là nghĩa của Ba la mật.
Này thiện nam tử ! Bồ tát Sơ địa là tướng hiện trước, vô lượng vô biên đủ thứ vật báu tàng trữ trong ba ngàn đại thiên thế giới đều tràn đầy. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử ! Bồ tát Nhị địa là tướng hiện trước. Đất ba ngàn đại thiên thế giới bằng phẳng như bàn tay, vô lượng vô số đủ thứ diệu sắc, báu thanh tịnh, đồ trang nghiêm. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử ! Bồ tát Tam địa là tướng hiện trước. Tự thân dũng kiện, áo giáp, binh khí trang nghiêm, tất cả oán địch đều có thể tiêu diệt hàng phục. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử ! Bồ tát Tứ địa là tướng hiện trước. Bốn phương phong luân đủ thứ hoa đẹp đều tung rải tròn đầy trên đất. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử ! Bồ tát Ngũ địa là tướng hiện trước. Như người con gái báu với tất cả trang nghiêm. Trên đỉnh thân cô ấy tung nhiều hoa Đa La, chuỗi báu đẹp trang sức suốt từ thân đến đầu. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử ! Bồ tát Lục địa là tướng hiện trước : Ao hoa thất bảo có bốn đường thềm, cát vàng đầy khắp, thanh tịnh không bẩn. Nước tám công đức đều đầy tràn. Hoa Uất ba la, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi... trang nghiêm ao ấy. Ở chỗ ao hoa tự thân du hí, khoái lạc thanh tịnh, mát mẻ không gì so sánh. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử ! Bồ tát Thất địa là tướng hiện trước : Bên trái, bên phải đáng đọa địa ngục nhưng do lực của Bồ tát nên trở lại được chẳng đọa, không có tổn thương, không có thống não. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử ! Bồ tát Bát địa là tướng hiện trước : Bên trái, bên phải, sư tử lông ức dài, vua loài thú, tất cả mọi loài thú đều sợ hãi. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử ! Bồ tát Cữu địa là tướng hiện trước : Vua Chuyển Luân Thánh với vô lượng ức chúng vây quanh cúng dường. Trên đỉnh đầu bảo cái trắng trang nghiêm bằng vô lượng mọi thứ báu, để che ở trên. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử ! Bồ tát Thập địa là tướng hiện trước : Thân Như Lai sắc vàng sáng rực, vô lượng tịnh quang đều viên mãn, vô lượng ức Phạm vương vây quanh cung kính cúng dường, chuyển bánh xe diệu pháp Vô Thượng. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử ! Sao Sơ địa mà gọi là Hoan hỷ ? Vì được ra đời, điều chưa được của tâm ngày xưa mà hôm nay mới được đại sự, đại dụng, sở nguyện như ý đều thành tựu, rất vui mừng khánh lạc vậy. Vậy nên sơ địa gọi là Hoan Hỷ địa. Tất cả tội vi tế, tội lỗi phá giới đều thanh tịnh. Vậy nên Nhị địa gọi là Vô Cấu địa.
Vô lượng Trí Tuệ Quang Minh tam muội, chẳng thể khuynh động, không thể tiêu diệt hàng phục, nghe trì Đà la ni lấy làm căn bản. Vậy nên Tam địa gọi là Minh địa.
Có thể thiêu cháy phiền não, dùng lửa trí tuệ tăng trưởng ánh sáng, đạo phẩm tu hành này nương làm xứ sở. Vậy nên Tứ địa gọi là Diệm địa (Diệm tuệ địa). Việc tu hành phương tiện thắng trí tự tại này khó được, nhìn thấy, suy nghĩ phiền não chẳng thể điều phục. Vậy nên Ngũ địa gọi là Nan Thắng địa. Hành pháp nối tiếp nhau tỏ rõ hiển hiện vô tướng, nhiều suy nghĩ hiện tiền. Vậy nên Lục địa gọi là Hiện Tiền địa.
Vô lậu, vô gián, vô tướng, tư duy giải thoát tam muội, xa tu hành. Địa này thanh tịnh không chướng ngại. Vậy nên Thất địa gọi là Viễn Hành địa.
Vô tướng, chánh tư duy, tu được tự tại, các hạnh phiền não chẳng thể làm cho động. Vậy nên Bát địa gọi là Bất Động địa.
Nói tất cả chủng loại pháp mà được tự tại không hoạn lụy, tăng trưởng trí tuệ tự tại không ngăn ngại. Vậy nên Cữu địa gọi là Thiện Tuệ địa.
Pháp thân như hư không, trí tuệ như mây lớn có thể khiến cho che đầy khắp tất cả. Vậy nên Thập địa gọi là Pháp Vân địa.
Sơ địa muốn hành đạo hữu tướng là vô minh chướng ngại, sợ hãi sinh tử là vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Sơ Địa Chướng.
Tội lỗi vi tế là nhân vô minh, đủ thứ tướng nghiệp hành là nhân vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Nhị Địa Chướng.
Điều xưa chưa được thắng lợi nay được nên vọng động trào dâng là nhân vô minh, chẳng nghe, trì đủ Đà la ni là nhân vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Tam Địa Chướng.
Mùi thiền định ưa sinh lòng ái trước là nhân vô minh, yêu thích pháp tịnh vi tế là nhân vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Tứ Địa Chướng.
Một ý suy nghĩ muốn vào Niết Bàn, một ý suy nghĩ vào sinh tử. Suy nghĩ Niết Bàn này, suy nghĩ sinh tử này chính vô minh là nhân. Sinh tử Niết bàn không bình đẳng, suy nghĩ vô minh làm nhân. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Ngũ Địa Chướng.
Hành pháp nối tiếp nhau tỏ rõ hiển hiện chính vô minh là nhân, pháp tướng đôi lúc hành đến tâm chính vô minh là nhân. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Lục Địa Chướng.
Các tướng vi tế hoặc hiện hay chẳng hiện là do vô minh, tư duy một vị thuần thục muốn đoạn nhưng chưa được phương tiện là do vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Thất Địa Chướng.
Đối với pháp vô tướng dùng nhiều công lực là do vô minh, chấp tướng tự tại khó có thể được độ là do vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Bát Địa Chướng.
Nói pháp không lường, danh xưng, mùi vị, câu cú không lường, trí tuệ phân biệt không lường mà chưa thể nhiếp trì là do vô minh. Bốn vô ngại biện chưa được tự tại là do vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Cữu Địa Chướng.
Thần thông tối đại chưa được như ý là do vô minh. Bí mật tạng vi diệu tu hành chưa đủ là do vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Thập Địa Chướng.
Tất cả cảnh giới vi tế ngăn ngại trí là nhân vô minh. Vị lai ngăn ngại này chẳng lại sinh mà chưa được chẳng lại sinh ra trí thì chính vô minh là nhân. Đó là Như Lai Địa Chướng.
Này thiện nam tử ! Đối với Bồ tát Sơ địa thì tu hành hướng về Đàn Ba la mật (Bố thí độ vô cực).
Đối với Nhị địa thì tu hành hướng về Thi Ba la mật (Trì giới độ vô cực).
Đối với Tam địa thì tu hành hướng về Sằn đề Ba la mật (Nhẫn nhục độ vô cực).
Tứ địa tu hành hướng về Tỳ lê gia Ba la mật (Tinh tấn độ vô cực).
Ngũ địa tu hành hướng về Thiền Na Ba la mật (Thiền định độ vô cực).
Lục địa tu hành hướng về Bát nhã Ba la mật (Trí tuệ độ vô cực).
Thất địa tu hành hướng về Phương tiện thắng trí Ba la mật.
Bát địa tu hành hướng về Nguyện Ba la mật.
Cữu địa tu hành hướng về Lục Ba la mật.
Thập địa tu hành hướng về Trí Ba la mật.
Này thiện nam tử ! Đại Bồ tát sơ phát tâm gọi là diệu bảo khởi Tam ma đề nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ hai thì khả ái trụ ở Tam ma đề nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ ba thì Nan động Tam ma đề nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ tư thì Bất Thoái Chuyển tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ năm thì Bảo Hoa tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ sáu thì Nhật Viên Quang Diệm tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ bảy thì Nhất Thiết Nguyện Như Ý Thành Tựu tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ tám thì Hiện Tại Phật Hiện Tiền Chứng Trụ tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ chín thì Trí Tạng tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ mười thì Thủ Lăng Nghiêm Ma Dà tam muội nhiếp thọ được sinh.
Này thiện nam tử ! Đó gọi là mười thứ phát tâm của các Đại Bồ tát. Này thiện nam tử ! Đại Bồ tát ở Sơ địa này nương theo lực công đức gọi là Đà la ni được sinh.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói chú rằng :
Đát điệt tha (1) Phú lâu ni (2) Na la đệ (3) Đầu hống đầu hống đầu hống (4) Na bạt tu lý dủ (5) Ô bà ta chỉ (6) Na bạt chiên đổ lỗ (7) Đệ dũ đa chỉ (8) Đa bạt đạc lạc sam (9) Đãn địa ba lý ha lam (10) Câu lưu (11) Tỏa ha (12).
Này thiện nam tử ! Đà la ni này gọi là Hơn một hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Sơ địa tụng trì chú Đà la ni này, được độ thoát tất cả sự sợ hãi, tất cả ác thú, tất cả ác quỉ, những sự não hại, tai ương của người chẳng phải người.v.v... giải thoát năm chướng ngại, chẳng quên nghĩ đến Sơ địa.
Này thiện nam tử ! Những Đại Bồ tát khéo an trụ ở Nhị địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Uất tọa ly (2) Chỉ lý chỉ lý (3) Uất thụ la (4) Thụ la nam (5) Thiền đẩu thiền đẩu uất tọa ly (6) Hống liễu hống liễu (7) Tỏa ha (8).
Này thiện nam tử ! Đà la ni này gọi là hơn hai lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Nhị địa trì tụng chú Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú, tất cả ác quỉ và oán tặc, tai ương, các não hại của người chẳng phải người.v.v... giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Nhị địa.
Này thiện nam tử ! Những Đại Bồ tát ở Nan Thắng Đại Lực Tam địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Đãn đãi chỉ (2) Bát đãi chỉ (3) Kha la trí (4) Cao lại trí (5) Chỉ do ly (6) Đãn chỉ ly (7) Tỏa ha (8).
Này thiện nam tử ! Đà la ni này gọi là hơn ba lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Tam địa trì tụng chú Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử...,, tất cả ác quỉ, những oán tặc, tai ương và những não hại của người chẳng phải người, giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Tam địa.
Này thiện nam tử ! Đại Bồ tát ở đại lợi ích khó hoại Tứ địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Thi lý thi lý (2) Đà di ni đà di ni (3) Đà lý đà lý ni (4) Thi lý thi lý ni (5) Tỳ xả la bà tế (6) Ba thỉ na (7) Bàn đà ha mị để (8) Tỏa ha (9).
Này thiện nam tử ! Đà la ni này gọi là Hơn bốn lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Tứ địa trì tụng Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử, tất cả ác quỉ, những oán tặc, tai ương và những độc hại của người chẳng phải người.v.v... giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Tứ địa.
Này thiện nam tử ! Đại Bồ tát đối với đủ thứ công đức trang nghiêm Ngũ địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Ha lý ha lý ni (2) Già lý già lý ni (3) Kha la ma ni (4) Tăng kha la ma ni (5) Tam hà ha sa ni (6) Diệm bà ha ni (7) Đam bà ha ni (8) Mô ha ni (9) Tá diễm bộ hống bệ (10) Tỏa ha (11).
Này thiện nam tử ! Đà la ni này gọi là hơn năm lần hằng hà sa số chư Phật làm cứu hộ. Bồ tát Ngũ địa trì tụng Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả cọp, sói, sư tử độc hại, tất cả ác quỉ và oán tặc, tai ương, những sự não hại của người chẳng phải người.v.v... giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Ngũ địa.
Này thiện nam tử ! Đại Bồ tát đối với Viên trí.v.v... Lục địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Tỳ đầu ly tỳ đầu ly (2) Ma lý ni (3) Kha lý kha lý (4) Đầu dụ ha để (5) Lưu lưu lưu lưu (6) Châu liễu châu liễu (7) Đỗ lỗ bà đỗ lỗ bà (8) Xả xả xả giả (9) Bà lật sa (10) Tát hoạt tư để (11) Tát bà tát đỏa nam (12) Tất trì hà đẩu (13) Mạn đa la ba thả (14) Tỏa ha (15).
Này thiện nam tử ! Đà la ni này gọi là hơn sáu lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Lục địa trì tụng Đà la ni này, được độ tất cả sợ hãi, tất cả cọp, sói, sư tử... độc hại, tất cả ác quỉ và oán địch, tai ương, những sự não hại của người chẳng phải người.v.v... giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Lục địa.
Này thiện nam tử ! Đại Bồ tát đối với pháp Thắng hạnh Thất địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Xà ha xà ha lậu (2) Xà ha xà ha xà ha lậu (3) Tỳ liễu chỉ tỳ liễu chỉ (4) A mật đa la dà ha ni (5) Bà lực sái ni (6) Tỳ liễu sỉ chỉ (7) Bà liễu bà để (8) Tỳ đề hỷ chỉ (9) Tần đà tỳ lý ni (10) Mật lát đát để chỉ (11) Bồ hô trửu dậu bồ hô trửu dậu (12) Tỏa ha (13).
Này thiện nam tử ! Đà la ni này gọi là quá bảy lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Thất địa trì tụng chú Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử, tất cả ác quỉ và những oán tặc, độc hại, tai ương của người chẳng phải người.v.v... giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Thất địa.
Này thiện nam tử ! Đại Bồ tát đối với Vô tận tạng Bát địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Thỉ lý thỉ lý (2) Thi lý (3) Mị để mị để (4) Kha lý kha lý (5) Ha lý ha lý (6) Ế liễu ế liễu (7) Chu liễu chu liễu (8) Bàn đà ha mị (9) Tỏa ha (10).
Này thiện nam tử ! Đà la ni này gọi là quá tám lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Bát địa trì tụng Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử..., tất cả ác quỉ và oán tặc, độc hại, tai ngược của người, chẳng phải người.v.v... giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Bát địa.
Này thiện nam tử ! Đại Bồ tát đối với vô lượng môn Cữu địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Ha lý chiên địa lý chỉ (2) Câu lam bà la thê (3) Đẩu la tử (4) Bạt tra bạt tra tử (5) Thỉ lý thỉ lý (6) Kha thi lý (7) Kha tỷ thi lý (8) Tát hoạt tư để (9) Tát bà tát đỏa nam (10) Tỏa ha (11).
Này thiện nam tử ! Đà la ni này gọi là quá chín lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Cữu địa trì tụng Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử..., tất cả ác quỉ và oán tặc độc hại, tai ngược của người, chẳng phải người.v.v... giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Cữu địa.
Này thiện nam tử ! Đại Bồ tát đối với Phá hoại kiên cố Kim Cương sơn Thập địa này gọi là Đà la ni được sinh :
Đát điệt tha (1) Tất đề ế (2) Tu tất đề ế (3) Mỗ giả nỉ (4) Mỗ sai nỉ (5) Tỳ mục để (6) A ma lị (7) Tỳ ma lị (8) Niết ma lị (9) Măng dà lị (10) Hỷ lại nhã kiệt thứ bệ ế (11) Hà thứ na kiệt thứ bệ ế (12) Bà mạn đa bạt khát đệ lị (13) Tát bà lại tha ta đà ha nỉ (14) Ma na tử (15) Ma ha ma na tử (16) Át bộ hống để (17) Át triết bộ hống để (18) Bà la đệ (19) Tỳ la thị (20) Át chu để (21) A mỹ lý để (22) A la thị (23) Tỳ la thị (24) Bà lam ha mể (25) Bà làm ma tu lị (26) Phú lâu nỉ (27) Phú lâu na ma nộ la thể (28) Tỏa ha (29).
Này thiện nam tử ! Câu Đà la ni Quán đảnh Cát tường này gọi là quá mười lần hằng hà sa số chư Phật làm cứu hộ. Bồ tát Thập địa trì tụng chú Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử..., tất cả ác quỉ và oán địch, độc hại, tai ngược của người, chẳng phải người.v.v... giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Thập địa.
Lúc đó, Bồ tát Sư Tử Tướng Vô Ngại Quang Viêm liền đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật, liền dùng kệ tụng mà khen ngợi đức Phật rằng :
Kính lễ đấng Vô Tỷ (không gì ví được)
Nói nghĩa vô tướng thâm
Chúng sinh mất chánh kiến
Tế độ Phật hay làm.
Phật nhãn của Thế Tôn
Không thấy một pháp tướng
Pháp nhãn vô thượng tôn
Thấy chẳng nghĩ bàn nghĩa.
Một pháp chẳng thể sinh
Cũng chẳng diệt một pháp
Vì bình đẳng kiến nên
Ngài đến chỗ Vô thượng !
Chẳng tổn sinh tử nên
Niết Bàn nguyện ngài chứng !
Quá khỏi hai pháp kiến
Nên tịch tịnh viên thành.
Trí Thế Tôn một vị
Sạch hay chẳng sạch trong
Chẳng phân biệt giới hạn.
Được thanh tịnh không trên(vô thượng).
Thế Tôn thân vô biên.
Chẳng nói một ngôn tự (một lời, một chữ)
Chúng đệ tử Thế Tôn
No đầy mưa pháp vũ.
Suy nghĩ tướng chúng sinh
Mọi thứ đều không có
Khốn khổ các chúng sinh
Thế Tôn cứu tế khắp.
Khổ, vui, thường, vô thường
Có ngã hay không ngã...
Như vậy nhiều nghĩa hơn
Tuệ Thế Tôn vô trước.
Chẳng một khác thế gian
Như hang rỗng tiếng vang
Chẳng độ cũng chẳng diệt
Chỉ Phật biết rõ ràng.
Pháp giới không phân biệt
Vậy nên không thừa khác
Vì độ chúng sinh nên
Nói ba thừa phân biệt.
Lúc đó, Đại tự Tại Phạm Vương, ở giữa đại hội, đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Hy hữu khó lường ! Nghĩa vi diệu của Kinh Kim Quang Minh này rốt ráo đủ đầy đều có thể thành tựu tất cả Phật pháp, tất cả Phật ân !
Đức Phật dạy rằng :
- Đúng vậy ! Đúng vậy ! Này thiện nam tử ! Đúng như lời ông nói ! Này thiện nam tử ! Nếu được nghe Kinh Kim Quang Minh này thì tất cả Bồ tát chẳng thoái Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì Bồ tát bất thoái địa thành thục thiện căn này, Đệ nhất ấn này, vua mọi Kinh, kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này được lắng nghe, thọ trì, đọc tụng. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì nếu tất cả chúng sinh chưa gieo trồng căn lành, chưa thành thục căn lành, chưa gần gũi các đức Phật thì chẳng được nghe Kinh Kim Quang Minh này. Này thiện nam tử ! Do lắng nghe, thọ trì Kinh Kim Quang Minh này nên tất cả tội chướng của thiện nam tử, thiện nữ nhân đó đều có thể trừ diệt, được thanh tịnh cực cùng, thường được thấy Phật, chẳng lìa khỏi Thế Tôn, thường nghe diệu pháp, thường thính Chánh pháp, sinh Bất Thoái địa, người thắng sư tử mà được thân cận chẳng xa lìa nhau, Vô tận vô giảm hải ấn xuất diệu công đức Đà la ni, Vô tận vô giảm Chúng Sinh Ý Hành ngôn ngữ thông đạt Đà la ni, Vô tận vô giảm nhật viên vô cấu tướng quang Đà la ni, Vô tận vô giảm mãn nguyệt tướng quan Đà la ni, Vô tận vô giảm năng phục nhất thiết hoặc sự công đức lưu Đà la ni, Vô tận vô giảm phá hoại kiên cố Kim cương sơn Đà la ni, Vô tận vô giảm thuyết bất khả tư nghị nhân duyên tạng Đà la ni, Vô tận vô giảm chân thật ngữ ngôn pháp tắc âm thanh thông đạt Đà la ni, Vô tận vô giảm hư không vô cấu tâm hành ấn Đà la ni, Vô tận vô giảm vô biên Phật thân năng hiển hiện Đà la ni, này thiện nam tử ! Những Đà la ni như vậy đều được thành tựu. Những Đại Bồ tát, ở mười phương tất cả cõi Phật, các đức Phật hóa thân nói đủ thứ Chánh Pháp Vô Thượng, các vị đối với Pháp Như Như chẳng động, chẳng đi, chẳng lại, giỏi có thể thành thục căn lành của tất cả chúng sinh mà cũng chẳng thấy tất cả chúng sinh có thể thành thục, nói đủ thứ các pháp mà đối với các ngôn từ chẳng động, chẳng đi, chẳng đứng, chẳng lại, có thể hiện sinh diệt hướng về không sinh diệt, nói các hành pháp không chỗ đi lại, tất cả pháp không khác.
Nói Kinh Kim Quang Minh này rồi thì ba vạn ức Đại Bồ tát được Vô Sanh Pháp Nhẫn, vô lượng các Bồ tát chẳng thoái tâm Bồ Đề, vô lượng vô biên Tỳkheo được Pháp Nhãn Tịnh, vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ Đề. Khi đó, đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Đạo ngược dòng tử sinh
Thậm thâm diệu khó thấy
Tham dục che chúng sinh
Tối tăm ngu chẳng thấy.
Lúc đó, chúng của đại hội đứng dậy, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch rằng :
- Nếu có bất cứ chỗ nào tuyên giảng Kinh Kim Quang Minh này thì đại chúng của hội này đều đến chỗ đó để làm thính chúng (những người nghe). Thầy nói pháp này có đủ thứ lợi ích, an vui không chướng ngại, thân tâm sảng khoái. Chúng con đều sẽ tận tâm cúng dường thầy và làm cho các thính chúng yên ổn khoái lạc. Đất nước có tuyên giảng pháp này không có các oán tặc, nạn khủng bố, không nỗi sợ đói kém, không nỗi sợ loài chẳng phải người, nhân dân hưng thịnh. Chỗ nói pháp này, tất cả chư thiên, người chẳng phải người và các chúng sinh chẳng được từ trên mà đi qua làm thấm bẩn chỗ nói pháp. Vì sao vậy ? Vì chỗ nói pháp tức là Tháp của Kinh ấy. Thiện nam tử, thiện nữ nhân cần phải dùng những hương hoa, lụa là ngũ sắc, tràng phan, bảo cái để cúng dường chỗ nói pháp đó. Chúng con vì họ làm cứu hộ, đem lợi ích tiêu trừ tất cả chướng ngại, theo sự cần dùng của họ mà cung cấp đầy đủ như ý.
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Đúng vậy ! Các ông cần phải tinh cần tu hành đúng như Kinh điển này thì pháp sẽ trụ thế lâu dài.
KINH KIM QUANG MINH HỢP BỘ
- Quyển thứ ba hết –
Ghi chú
(Ghi chú để tham chiếu thêm phần Chướng ngại từ Sơ địa đến Thập địa ở trang 374 Kinh Kim Quang Minh Hợp Bộ - Đại chính Tân Tu).
Sinh tử bố úy vô minh là chướng của Sơ địa. Tội lỗi vi tế là nhân vô minh, đủ thứ nghiệp hành tướng là nhân vô minh. Đó là chướng của Nhị địa. Chỗ nghiệp chưa được thắng lợi mà được nên vọng động trào ra là nhân vô minh, chẳng nghe trì đủ Đà la ni là nhân vô minh. Hai vô minh đó là chướng của Tam địa. Mùi vị thiền định ưa sinh lòng ái trước thì vô minh là tác nhân. Đó là chướng của Tứ địa. Một ý suy nghĩ muốn vào Niết Bàn, một ý suy nghĩ muốn vào sinh tử. Suy nghĩ Niết Bàn đó và suy nghĩ sinh tử đó chính vô minh là nhân. Suy nghĩ chẳng bình đẳng về sinh tử và Niết Bàn chính vô minh là nhân. Đó là chướng của Đệ Ngũ địa. Hành pháp tướng tiếp nối tỏ rõ hiển hiện thì vô minh là nhân, tướng pháp đôi lúc đi đến với tâm chính vô minh là nhân. Đó là chướng của Đệ Lục địa. Các tướng vi tế hoặc hiện hay chẳng hiện chính vô minh là nhân. Một vị thuần thục suy nghĩ muốn đoạn mà chưa được phương tiện chính vô minh là nhân. Đó là chướng của Thất địa. Đối với pháp vô tướng dùng nhiều công lực chính vô minh là nhân, chấp tướng tự tại khó có thể được độ chính vô minh là nhân. Nương theo hai thứ tâm thô lậu đó là chướng của Bát địa. Nói pháp vô lượng, danh xưng, mùi vị, câu cú vô lượng, trí tuệ phân biệt vô lượng mà chưa có thể nhiếp trừ thì vô minh là nhân, bốn vô ngại biện chưa được tự tại chính vô minh là nhân. Nương theo hai thứ tâm thô lậu đó là chướng của Đệ Cữu địa. Tối đại thần thông chưa được như ý chính vô minh là nhân, tạng bí mật vi diệu tu hành chưa đủ chính vô minh là nhân. Nương theo hai thứ tâm thô lậu đó là chướng của Đệ Thập địa. Tất cả cảnh giới vi tế mà trí bị ngăn ngại thì vô minh là nhân. Vị lai ngăn ngại này chẳng sinh mà chưa được chẳng sinh ra trí thì chính vô minh là nhân. Đó là chướng của Như Lai địa. Ghi chú thêm mười bài chú của bản
Đại Tạng đời Minh để tham khảo :
1- Đát điệt tha (1) Phú lâu nỉ (2) Na la đề (3) Đậu hống đậu hống đậu hống (4) Gia bạt tu lý du (5) Ô bà ta để (6) Gia bạt chiên đà lỗ (7) Đề du đa để (8) Đá bạt dịch lạc sám (9) Đàn địa ba lý ha lam (10) Câu lưu (11) Tá ha (12).
2- Đa điệt tha (1) Uất toa ly (2) Chỉ lý chỉ lý (3) Uất xã la (4) Xã la nam (5) Thiền đẩu thiền đẩu (6) Uất tọa ly (7) Hống liễu hống liễu (8) Tá ha (9).
3- Đá điệt tha (1) Đàn địa chỉ (2) Bát đà chỉ (3) Kha la trí (4) Cao lại trí (5) Chỉ do lị (6) Đàn tri lị (7) Tá ha (8).
4- Đá điệt tha (1) Thi lị thi lị (2) Đà di nị đà di nị (3) Đà lý đà lý nị (4) Thi lý thi lý nị (5) Bệ xả la bà tế (6) Ba thỉ na (7) Bà đa ha mị để (8) Tá ha (9).
5- Đá điệt tha (1) Ha lý ha lý nị (2) Già lý già lý nị (3) Ca la ma nị (4) Tăng ca la ma nị (5) Tam ba ha sa nị (6) Diễm bà ha nị (7) Tất đam bà ha nị (8) Mô ha nị (9) Tá diễm bộ hống bệ (10) Tá ha (11).
6- Đá điệt tha (1) Tỳ đầu lị tỳ đầu lị (2) Ma lý nị (3) Kha lý kha lý (4) Bật đầu dụ ha để (5) Lưu lưu lưu lưu (6) Chu liễu chu liễu (7) Đỗ lỗ bà đỗ lỗ bà (8) Già già già giả (9) Bà lật sa (10) Hoạt kỳ để (11) Tát bà tát đỏa nam (12) Tất trì hà đẩu (13) Mạn đa la ba thí (14) Tá ha (15).
7- Đá điệt tha (1) Xà ha xà ha lậu (2) Xà ha xà ha lậu (3) Tỳ liễu chỉ tỳ liễu chỉ (4) A mật đa la dà ha nỉ (5) Bà lực sái nỉ (6) Tỳ liễu sĩ chỉ (7) Bà liễu ba để (8) Tỳ đề hỷ chỉ (9) Tần đà tỳ lý nỉ (10) Mật lát đát để chỉ (11) Bồ hô trữu dậu bồ hô trữu dậu (12) Tá ha (13).
8- Đá điệt tha (1) Tử lý tử lý (2) Thỉ ly ni (3) Mị để mị để (4) Kha lý kha lý (5) Ha lý ha lý (6) Ế liễu ế liễu (7) Chu liễu chu liễu (8) Bạn đà ha mi (9) Tá ha (10).
9- Đá điệt tha (1) Ha lý chiên đà lý chỉ (2) Câu lam bà la thê (3) Đẩu la tử (4) Bạt tra bạt tra tử (5) Tử lý tử lý (6) Kha tử lý (7) Kha tỷ tu lý (8) Tát hoạt tát hoạt kỳ để (9) Tát bà tát đỏa nam (10) Tá ha (11).
10- Đá điệt tha (1) Tất đề ế (2) Tu tất đề ế (3) Mỗ giả ni (4) Mỗ sai nê (5) Tỳ mục để (6) A ma lị (7) Tỳ ma lị (8) Niết ma lị (9) Măng dà lị (10) Hỷ lại nhã cạt lạt bệ ế (11) Hà lạt na cạt lạt bệ ế (12) Ta mạn đa bạt cạt đề lị (13) Tát bạt lạt tha ta đà ha nê (14) Ma na tử (15) Ma ha ma na tử (16) Át bộ hống để (17) Át triết bộ hống để (18) Bà la đề (19) Tỳ la đề (20) Át chu để (21) A mỹ lý để (22) A la thị (23) Tỳ la thị (24) Bà lãm ha mị (25) Bà lãm ma tu lị (26) Phú lâu nê (27) Phú lâu na ma nộ la thể (28) Tá ha (29).
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.149.243.29 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.