Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó.
Kinh Pháp cú
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
BÀI TỰA KINH KIM QUANG MINH HỢP BỘ
Sa môn Thích Ngạn Tông - Chùa Nhật Nghiêm - Thuật
Kinh Kim Quang Minh là lời dạy cùng cực, đầy đủ chữ nghĩa, trống vàng đánh trong mơ; lý cực chân không, Bảo tháp vọt lên trên đất. Quả đủ ba thân, đền đáp báo xưa không thiếu; nhân mười địa tròn, hiển hiện túi Kinh đầy đủ. Sở dĩ hiệu Kinh Vương được xưng đến thế thì mới biết người hay khen ngợi rộng ! Địa vị ấy khó lường lắm vậy !
Sa môn Thích Bảo Quí ở chùa Đại Hưng Thiện tiếp cận với chân thế Đạo An thần túc, khâm phục sự sáng giỏi, thật đáng gọi là bậc lương tài, học tập nghiên cứu nhiều Kinh, chưa từng hở tay, đáng gọi là thân tử của Cù Đàm, Nhan Uyên của Khổng Thị vậy. Nhưng Quí tôi nhìn thấy Sa môn Chi Mẫn Độ ở triều Tấn xưa hợp hai Chi hai Trúc, năm bản Thủ Lăng Nghiêm của Bạch ngũ gia làm một bộ, phân làm tám quyển. Lại hiệp một Chi, hai Trúc, ba bản Duy Ma của ba nhà làm một bộ, phân làm năm quyển. Nay Sa môn Tăng Tựu lại hiệp hai Sấm, La Thập, Gia Xá, bốn bản đại tập của bốn nhà làm một bộ phân làm sáu mươi quyển. Chẳng phải chỉ gom dòng nhỏ thêm cho biển cả mà cũng là tụ hạt cải, bồi đắp núi cao. Những hiệp Kinh này, văn nghĩa đều sáng rõ đầy đủ. Ấy đã là dấu tích để lại của những bậc tiên triết. Quí tôi liền nương thừa theo và lấy làm qui củ mà thấy có ba bản Kinh Kim Quang Minh : Đầu tiên, tại đời Lương có ngài Đàm Vô Sấm dịch làm bốn quyển, chỉ có mười tám phẩm. Tiếp đến đời Châu, ngài Xà Na Quật Đa dịch làm năm quyển, thành hai mươi phẩm. Sau đến đời Lương, ngài Chân Đế Tam Tạng, ở Kiến Khang dịch bốn phẩm : Tam thân phân biệt, Nghiệp chướng diệt, Đà la ni tối tịnh địa. Y Không mãn nguyện.v.v... tìm ra cái mất bổ túc phần trước phân làm hai mươi hai phẩm. Tuần tự ấy quả thật rằng, pháp sư Đàm Vô Sấm xưng là Kinh Kim Quang Minh, về thiên, phẩm có phần khuyết lậu. Thường lần theo văn mà đoán nghĩa thì cho là lời nói này có chứng cớ nhưng so sánh với các Kinh thì không ổn định. Khi thức, lúc ngủ, Bảo Quí tôi ôm mãi trong lòng và thường than, Kinh này bí mật thâm áo, làm sao phần sau tìm không thấy phẩm Chúc Lụy ? Trước tuy ba người dịch mà nghi chưa cùng, mãi tưởng đến Phạm văn, nguyện rằng được gặp.
Đại Tùy ngự ở, Kinh mới liền đến, vua lệnh cho sở, ty tiếp nối nhau phiên dịch, đến năm Khai Hoàng thứ mười bảy, một thời nọ Pháp tịch khuyến thỉnh : Tam Tạng Pháp Sư nước Kiền Đà La của Bắc Thiên Trúc, đây là bậc chí đức, một lần nữa tìm hậu bản thì quả có phẩm Chúc Lụy, lại còn được phẩm Ngân Chủ Đà la ni. Vậy nên biết, nguồn pháp điển phân tán, phái riêng phân nhánh, thừa rót cuối dòng, lý khó toàn đủ. Nhờ Tam Tạng Pháp Sư Tuệ Tĩnh xung minh (sáng hơn người), học nghiệp ưu viễn (cao xa), Kinh luận trong ngoài nhiều chỗ bác thông, ở chùa Đại Hưng Thiện tại kinh đô, liền vì phiên dịch, đồng thời hợp với những phẩm ra trước làm thành hai mươi bốn phẩm, chép làm tám quyển. Học sĩ Phí Trường Phòng ở thành đô chấp bút, Sa môn thông Phạm văn Thích Ngạn Tông chùa Nhật Nghiêm hiệu đính. Ngọc báu đã đủ, mừng rỡ kính sâu, nguyện đèn pháp này truyền kiếp vĩnh viễn. HỢP BỘ KINH KIM QUANG MINH
PHẨM THỨ NHẤT : TỰ (tựa)
Tôi nghe như vầy, một thuở đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại đại thành Vương Xá. Lúc đó đức Như Lai đang du hành ở vô lượng pháp tính thậm thâm, chỗ các đức Phật du hành, vượt hơn sở hành thanh tịnh của các Bồ tát. Đó là Kim Quang Minh, vua của các Kinh. Nếu có người nghe thì có tư duy nghĩa thậm thâm vi diệu vô thượng. Kinh điển như vậy thường được sự hộ trì của bốn đức Phật trong bốn phương. Đó là :
Phương Đông : Phật A Súc
Phương Nam : Phật Bảo Tướng
Phương Tây : Phật Vô Lượng Thọ
Phương Bắc : Phật Vi Diệu Thanh
Ta nay sẽ nói pháp Sám Hối.v.v... việc sinh ra công đức của pháp này là không có gì trên, có thể hoại tan các khổ, diệt hết nghiệp bất thiện.
Nhất thiết chủng trí
Lấy làm gốc căn
Vô lượng công đức
Là cái trang nghiêm.
Diệt trừ các khổ
Cùng vui không lường.
Các căn chẳng đủ
Thọ mạng hao tàn
Bần cùng khốn khổ
Lìa bỏ chư thiên
Gần gũi đấu tụng
Vương pháp gia thêm
Mỗi mỗi tranh giận
Tổn hao của tiền
Lo buồn kinh sợ
Tai (ương) lạ sao hung
Mọi tà cổ đạo (phái sử dụng chất độc)
Biến quái nối liền
Ngủ thấy ác mộng
Ngày thì buồn phiền.
Phải tắm gội sạch
Nghe Kinh này nên
Chí tâm thanh tịnh.
Mặc áo sạch tinh
Chuyên nghe Kinh đó
Chỗ đi thậm thâm
Kinh này uy đức
Có thể làm tan
Những ác như vậy.
Khiến kia (người trì kinh) Niết Bàn (tịch diệt).
Bốn vua Hộ Thế
Đem các thuộc quan
Cùng Dạ xoa chúng
Số nhiều không lường
Đều đến ủng hộ
Người thọ trì kinh.
Thiên thần Đại Biện
Thần sông Ni Liên
Thần quỉ Tử Mẫu
Thần đất chắc bền
Tôn thiền Đại Phạm
Tam Thập Tam Thiên
Vua rồng thần lớn
Khẩn na la vương
Ca Lâu La chúa
A Tu La vương
Cùng quyến thuộc họ
Đều đến đó chung
Ủng hộ người đó
Chẳng rời ngày đêm.
Nay lời ta nói :
Chư Phật Thế Tôn
Thậm thâm bí mật
Vi diệu hành xử (cung cách hành động)
Ức trăm ngàn kiếp
Rất khó được gặp.
Nếu được nghe Kinh
Hoặc vì người nói
Hoặc lòng vui mừng
Hoặc bày cúng dường
Thì người như vậy
Ở kiếp không lường
Thường được chư thiên
Tám bộ chúng kính.
Như vậy tu hành
Thì sinh công đức
Được chẳng nghĩ bàn
Vô lượng phước tụ
Cũng được mười phương
Chư Phật Thế Tôn
Thâm hạnh Bồ tát
Ủng hộ giữ gìn.
Mặc y phục sạch
Dùng thượng diệu hương
Từ tâm cúng dường
Luôn chẳng lìa khỏi
Thân ý sạch trong
Không có cấu bẩn
Hoan hỷ vui mừng
Ưa sâu Kinh đó
Nếu được nghe Kinh
Phải biết sẽ được
Nhân đạo, nhân thân
Và cả chánh mạng.
Sám hối nghe xong
Chấp trì trong lòng
Là căn thượng thiện
Được chư Phật khen. PHẨM THỨ HAI : THỌ LƯỢNG (Thời lượng sống lâu)
Lúc bấy giờ, trong thành Vương Xá, có vị Đại Bồ tát tên là Tín Tướng, đã từng cúng dường vô lượng ức Nadotha trăm ngàn các đức Phật đời quá khứ và gieo trồng các thiện căn. Vị Bồ tát Tín Tướng này suy nghĩ rằng : “Vì nhân gì, duyên gì mà thọ mạng của đức Thích Ca Như Lai ngắn ngủi chỉ tám mươi năm ?”. Ông lại nghĩ rằng : “Như lời đức Phật nói, có hai nhân duyên làm cho thọ mạng được dài. Những gì là hai ? - Một là chẳng giết hại, hai là thí thực (cho ăn). Nhưng mà đức Thế Tôn của ta ở trong vô lượng trăm ngàn ức nadotha atăngkỳ kiếp, đã tu giới chẳng giết hại, đầy đủ mười thiện, đồ ăn thức uống ban cho chẳng thể hạn lượng. Thậm chí cả thân mình, xương tủy, máu thịt... làm no đủ sung mãn cho chúng sinh đói khát huống là đồ ăn, thức uống khác ?” Vị Đại Sĩ chí tâm nghĩ về đức Phật như vậy. Khi suy nghĩ nghĩa này thì nhà vị ấy tự nhiên rộng lớn ra với những việc trang nghiêm : lưu ly xanh biếc, đủ thứ những báu xen lẫn vào nhau tạo thành đất nơi ấy, giống như nơi ở thanh tịnh của đức Như Lai. Có hương thơm vi diệu hơn cả hương thơm của chư thiên, khói mây buông xuống khắp đầy gian nhà ấy. Bốn mặt của ngôi nhà ấy đều có bốn tòa ngồi cao thượng diệu quí báu tự nhiên xuất hiện, thuần dùng thiên y mà làm đồ trải. Trên tòa ngồi vi diệu này đều có hoa và mọi thứ báu hợp thành làm chỗ ngồi cho các đức Phật. Ở trên hoa sen có bốn đức Như Lai :
Phương Đông hiệu A Súc
Phương Nam hiệu Bảo Tướng
Phương Tây Vô Lượng Thọ
Phương Bắc Vi Diệu Thanh.
Bốn vị Như Lai này tự nhiên mà ngồi trên tòa Sư Tử, phóng ra ánh sáng lớn chiếu soi thành Vương Xá và ba ngàn đại thiên thế giới này cho đến thế giới chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương. Trời mưa xuống những hoa trời, tấu lên kỹ nhạc nhà trời... Lúc bấy giờ, chúng sinh sở hữu của ba ngàn đại thiên thế giới, nhờ thần lực của đức Phật, hưởng thụ khoái lạc của trời. Những kẻ các căn chẳng đủ liền được đầy đủ... Nói tóm lại, tất cả lợi ích sở hữu của thế gian, những việc chưa từng có đều xuất hiện đầy đủ.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Tín Tướng thấy các đức Phật và những việc hy hữu này vui mừng hớn hở, cung kính chắp tay hướng về các đức Thế Tôn, chí tâm niệm Phật mà suy nghĩ rằng : “Đức Thích Ca Như Lai công đức không lường, chỉ trong sự sống lâu là làm cho lòng sinh nghi hoặc ! Sao thọ mạng của đức Như Lai mới có tám mươi năm như vậy ?”
Lúc bấy giờ, bốn đức Phật do Chính Biến Tri nên bảo Bồ tát Tín Tướng rằng :
- Này thiện nam tử ! Ông nay chẳng nên suy nghĩ về thọ mạng ngắn ngủi của đức Như Lai ! Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì chúng ta chẳng thấy chư thiên, người đời, ma chúng, Phạm chúng, Sa môn, Bà la môn, người và chẳng phải người có thể suy nghĩ, tính toán về thời lượng sống lâu của Như Lai và biết giới hạn của sự sống lâu ấy, chỉ trừ chính Như Lai!
Bốn đức Như Lai sắp muốn tuyên nói cặn kẽ việc được thọ mạng của đức Thích Ca Văn Phật thì Chư thiên, rồng, quỉ thần, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già của Dục giới, Sắc giới và vô lượng trăm ngàn ức nadotha Đại Bồ tát, nhờ thần lực của Phật, đều đến tụ tập ở tại nhà của Đại Bồ tát Tín Tướng. Lúc bấy giờ, bốn đức Phật, ở giữa đại chúng, sơ lược dùng kệ dụ nói về thời lượng thọ mạng sở đắc của đức Thích Ca Như Lai mà làm bài tụng rằng :
Nước những biển sông
Có thể tính giọt
Nhưng không thể tính
Thọ mạng Thích Tôn !
Tu Di các núi
Có thể cân lường
Không có thể lượng
Thọ mạng Thích Tôn !
Tất cả đại địa
Biết được bụi trần
Không thể tính toán
Thọ mạng Thích Tôn !
Hư không chia cõi
Còn thể tận biên
Không thể kể hạn
Thọ mạng Thích Tôn !
Không thể tính kiếp
Ức trăm ngàn muôn
Phật thọ như vậy
Vô lượng vô biên !
Do nhân duyên đó
Nên nói hai duyên :
Chẳng hại mạng vật,
Thí ăn không lường
Nên thọ Đại sĩ
Chẳng thể tính lường
Vô biên vô lượng
Giới hạn cũng không.
Vậy nay ông hãy
Với Phật chẳng nên
Sinh lòng nghi hoặc :
Thọ mạng không lường !
(Theo Chân bản năm hàng sau cùng không có)
Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Tín Tướng nghe bốn vị Phật này tuyên nói về thọ mạng không lường của đức Như Lai thì thân tâm tín giải vui mừng hớn hở. Khi nói Phẩm Thọ Mạng của Như Lai này thì vô lượng vô biên atăngkỳ chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bốn vị Phật bỗng nhiên biến mất. (Đoạn sau này do ngài Quật Đa dịch bổ sung).
Lúc bấy giờ, Bồ tát Tín Tướng ở bên các đức Phật đó nghe nói về thọ mạng của đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rồi, bạch với các đức Phật đó rằng:
- Thưa các đức Thế Tôn ! Tại sao đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai kia hiển thị thọ mạng ngắn ngủi như vậy ?
Nói như vậy rồi thì các đức Thế Tôn kia bảo Bồ tát Tín Tướng rằng :
- Nhưng khi đức Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ở đời ngũ trược thì ở trong cõi đời sống lâu trăm tuổi, đối với chúng sinh tín giải thấp, chúng sinh thiếu căn lành, ngã kiến, chúng sinh kiến, mạng kiến, dưỡng dục phú dà la kiến, tà kiến, ngã, ngã sở, chấp trước.v.v... vì lợi ích các chúng sinh phàm phu và ngoại đạo Ni kiền tử, Ba lê bà xà ca.v.v... nên đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai hiển thị thọ lượng ngắn ngủi như vậy để thành thục chúng sinh.
Này thiện nam tử ! Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai kia hiển thị thọ lượng ngắn ngủi như vậy mà những chúng sinh cõi đó, nếu biết đức Như Lai vào Niết Bàn rồi thì phát sinh khổ tưởng, hy hữu tưởng, vị tằng hữu tưởng, ưu sầu tưởng mà mau chóng sẽ thọ nhận những Kinh điển, sẽ gìn giữ đọc tụng, sẽ chẳng hủy báng. Vậy nên đức Như Lai hiển thị thọ lượng ngắn ngủi như vậy. Những chúng sinh đó, nếu thấy đức Như Lai chẳng vào Niết Bàn thì chẳng sinh ra hy hữu tưởng, ưu sầu tưởng, vị tằng hữu tưởng mà họ sẽ chẳng thọ nhận các Kinh điển đã nói của đức Như Lai cũng sẽ chẳng giữ gìn, đọc tụng. Sở dĩ vì sao ? Vì cho là thường thấy vậy. Này thiện nam tử ! Ví như có một trượng phu mà cha mẹ có nhiều quả báo tiền tài. Nhưng các con của vị trượng phu đó biết tài tụ rồi thì chẳng sinh hy hữu tưởng, vị tằng hữu tưởng. Sở dĩ vì sao ? Vì cho là quả báo nhiều vậy. Này thiện nam tử ! Đúng vậy ! Đúng vậy ! Những chúng sinh đó, nếu biết Như Lai chẳng vào Niết Bàn rồi, chẳng sinh hy hữu tưởng, vị tằng hữu tưởng, nan đắc tưởng. Sở dĩ vì sao ? Vì cho là thường thấy. Này thiện nam tử ! Ví như có một trượng phu, cha mẹ nghèo cùng có ít quả báo, những người đó, hoặc đến trong nhà của vua và đại thần của vua. Những người đó ở chỗ kia thấy kho lẫm đầy, đủ thứ những báu. Những người đó ở chỗ kia được hy hữu hạnh, được vị tằng hữu tưởng, sẽ sinh ra nan đắc tưởng và cũng vì của cải đó mà cần cù phát sinh ý tinh tấn, muốn được số của cải đó. Sở dĩ vì sao ? Vì cho là ít quả báo vậy.
Này thiện nam tử ! Đúng vậy ! Đúng vậy ! Những chúng sinh kia nếu thấy đức Như Lai đã vào Niết Bàn thì sẽ được việc hy hữu, được việc chưa từng có, sẽ sinh ra khổ tưởng. Vào lúc không lường các đức Phật Thế Tôn mới xuất hiện ở đời, ví như hoa Ưu Đàm Bát La vào lúc không lường mới sẽ xuất hiện ở đời. Đúng vậy ! Đúng vậy ! Các đức Phật Thế Tôn vào lúc không lường mới sẽ ra đời thì những chúng sinh kia được hạnh hiếm có, được thấy việc chưa từng có nên sẽ được vui sướng. Những người đó thấy đức Như Lai rồi thì sẽ tin tưởng hướng về. Nếu khi nghe lời thật ngữ của đức Như Lai thì sẽ thọ nhận những kinh điển như vậy, sẽ chẳng ganh đua sai trái. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên đức Như Lai trụ thế chẳng lâu, sẽ mau chóng Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Các đức Phật Thế Tôn dùng phương tiện khéo léo như vậy để thành thục chúng sinh.
Lúc ấy, những đức Phật Thế Tôn kia biến mất.
Bấy giờ, Bồ tát Tín Tướng cùng vô lượng trăm ngàn Bồ tát và vô lượng câu trí nadotha trăm ngàn chúng sinh đi đến chỗ đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Chánh Biến Tri trong núi Kỳ Xà Quật. Đến nơi rồi, họ đảnh lễ dưới chân đức Phật, lùi về trụ ở một bên. Trụ ở một bên xong, Đại Bồ tát Tín Tướng bạch với đức Phật những việc như đã nói ở trên. Rồi đến những đức Phật Thế Tôn kia, đi tới chỗ đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai trong núi Kỳ Xà Quật. Đến nơi rồi, các vị mỗi mỗi đều theo phương hướng mà ngồi vào từng tòa ngồi của mình. Lúc bấy giờ, các đức Phật Thế Tôn, mỗi mỗi đều bảo Bồ tát thị giả rằng :
- Này thiện nam tử ! Ông hãy đi đến chỗ đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai ! Đến nơi rồi, ông vì chúng ta thăm hỏi ngài rằng : “Ngài có ít bệnh, đi đứng nhẹ nhàng, khí lực an vui chăng ?” Lại nói tiếp lời này : “Hay thay ! Thưa đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai ! Hôm nay ngài muốn nói pháp bổn Kim Quang Minh, chúng con sẽ tùy hỷ !”
Lúc bấy giờ, những vị Đại Bồ tát đó đi đến chỗ đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Đến nơi họ đảnh lễ dưới chân đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Lễ rồi, lùi về trụ ở một bên, trụ một bên xong, những vị Đại Bồ tát kia bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Bốn đức Phật Thế Tôn ở bốn phương hỏi thăm đức Thế Tôn có ít bệnh, đi đứng có nhẹ nhàng, khí lực có an lạc không ?
Rồi những vị Bồ tát đó lại bạch rằng :
- Hay thay ! Thưa đức Thế Tôn ! Nguyện xin ngài nói pháp bản kinh Kim Quang Minh làm cho các chúng sinh lợi ích an lạc, cho đến trừ diệt đói khát, hiểm nguy.v.v...
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai khen các chúng Bồ tát rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Này các thiện nam tử ! Các ông mới có thể vì các chúng sinh khuyển thỉnh Như Lai !
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ rằng :
Ta chẳng rời khỏi núi (Kỳ Xà Quật)
Kinh báu này nói luôn
Vì thành thục sinh chúng
Thị hiện Bát Niết Bàn
Kiến phàm phu nhiễm trước(Nhận thức của phàm)
Lời ta nói chẳng tin
Những người đó thành thục
Ta hiện Bát Niết Bàn.
Lúc đó, đại hội có người Bà la môn họ Kiều Trần Như tên là Thánh Ký, ở giữa đại chúng, lòng xét nét an tọa, với vô lượng trăm ngàn chúng Bà la môn vây quanh trước sau mà chung cung kính cúng dường đức Như Lai. Nghe thọ mạng của đức Phật Thế Tôn, tám mươi tuổi ứng vào Niết Bàn, ông ấy rơi lệ buồn khóc, cùng với trăm ngàn chúng Bà la môn đều đứng dậy đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu đức Phật Như Lai thương xót lợi ích tất cả chúng sinh mà ngài Đại từ đại bi muốn khiến cho họ đều được đại an lạc thì ngài vì chúng sinh làm cha mẹ chân thật tối thượng vô đẳng và vô đẳng đẳng, vì thế gian làm chỗ qui y che chở hộ trì khiến cho các chúng sinh khoái lạc thanh lương như vầng trăng tròn đầy trong sạch tạo ra ánh sáng lớn, như mặt trời soi rọi đến núi Ưu Đà Diên. Nếu đức Phật Thế Tôn xem chúng sinh bình đẳng như La Hầu La thì nguyện xin đức Phật vì con ban cho một ân đức !
Lúc đó đức Như Lai mặc nhiên chẳng đáp. Ở trong hội này có đồng tử con của vua nước Lật Xa Tỳ tên là Nhất Thiết Chúng Hỷ Kiến, ở giữa đại chúng, đầy đủ biện từ, giỏi hay hỏi đáp. Lúc đó, vương tử thừa thần lực của đức Phật, nói với Bà la môn Kiều Trần Như rằng :
- Thưa Đại Bà la môn ! Ngài cầu ân đức gì ở đức Thế Tôn ? Ta có thể vì ông thi ân như ý muốn !
Vị Bà la môn nói rằng :
- Hay thay ! Thưa vương tử ! Chúng tôi nguyện muốn cung kính cúng dường thân của đức Thế Tôn ! Vậy nên chúng tôi muốn được xá lợi của đức Như Lai, dù là như hạt cải. Sở dĩ vì sao ? Vì theo như tôi nghe, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân cung kính cúng dường xá lợi của đức Như Lai thì làm đế chúa sáu trời, giàu sang an lạc ắt được vô cùng!
Lúc đó vương tử liền đáp rằng :
- Thưa Đại Bà la môn ! Ngài hãy một lòng lắng nghe ! Nếu ngài muốn nguyện cầu công đức không lường và quả báo sáu trời thì vua của các Kinh Kim Quang Minh này, khó nghĩ khó giải nhưng phước báo không cùng, điều chẳng thể biết của hàng Thanh Văn, Duyên giác. Kinh nay nhiếp trì hết công đức như vậy và vô biên phước báo chẳng thể nghĩ bàn. Tôi nay vì ông lược nói điều đó vậy.
Vị Bà la môn nói rằng :
- Hay thay ! Thưa vương tử ! Như vậy, Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh công đức vô biên, khó giải, khó giác ngộ... cho đến như Kinh này chẳng thể nghĩ bàn ! Những Bà la môn bên cạnh nước của chúng ta đều nói như vầy : “Nếu thiện nam tử và thiện nữ nhân được xá lợi của đức Phật như hạt cải, đặt trong tháp nhỏ, tạm thời lễ bái cung kính cúng dường thì công đức vô biên. Người này mạng chung làm chủ sáu trời, thọ niềm vui thượng diệu chẳng thể cùng tận”. Ông nay làm sao mà chẳng ưa nguyện cúng dường xá lợi cầu quả báo này vậy ? Như vậy, thưa vương tử ! Do nhân duyên này, tôi nay theo đức Phật muốn cầu xin một ân huệ !
Lúc đó vương tử liền dùng kệ đáp ông Bà la môn rằng :
Trong dòng sông chảy nhanh
Sinh được hoa Câu vật
Xá lợi thân Thế Tôn
Rốt ráo chẳng thể có.
Giả sử quạ màu hồng
Câu chỉ la hình trắng
Thân chân thật Thế Tôn
Chẳng thể thành Xá lợi,
Giả sử Diêm phù thọ (cây)
Hay sinh trái Đa La
Những cây Khư Thọ La
Chuyển sinh Am la quả
Như Lai vô diệt thân
Chẳng thể sinh Xá lợi.
Giả sử rùa có lông
Khả dĩ dệt quần áo
Chẳng phải dối, Phật thân
Trọn không có Xá lợi
Giả sử chân muỗi mòng
Khả dĩ làm thành quách (lâu)
Như Lai tịch tịnh thân
Không có việc Xá lợi.
Ví con “thủy chí trùng”
Trong miệng sinh răng trắng
Như Lai giải thoát thân
Trọn không trói buộc sắc.
Sừng thỏ làm bậc thềm
Lên đến trời từ đất
Xá lợi mà nghĩ càn (quấy)
Công đức không chỗ đó.
Chuột leo thềm sừng thỏ
Nguyệt thực trừ Tu la
Nương Xá lợi hết hoặc(mê hoặc)
Giải thoát không chỗ ra.
Như con ruồi say rượu
Chẳng thể tạo ổ hang
Với Phật không chánh hạnh
Ba thừa chẳng thể mong
Như lừa chỉ no đủ
Trọn không có kỹ năng
Ca múa khiến người thích
Là nhị thừa phàm tục,
Hay nói và hay làm
Tự, tha không chỗ đó.
Giả sử ngạc cùng quạ (ngạc : Loài chim chân có màn sống trên nước)
Đồng thời đậu một cành (cây)
Hòa hợp nhau ái niệm
Thể Như Lai thật chân
Thân Xá lợi hư vọng
Những điều đó đều không
Như lá Ba la nại
Mưa gió, chẳng thể ngăn
Với Phật khởi hư vọng
Sinh tử chẳng diệt tan.
Như thuyền lớn trên biển
Chở của báu đầy tràn
Sức con gái mới lớn
Nắm giữ, điều nay không !
Pháp thân không bờ cõi
Đất bất tịnh não phiền
Như Lai, chẳng thể nhiếp
Nghĩa ấy cũng như trên (vậy).
Ví như loài chim sẻ
Chẳng thể ngậm Hương Sơn
Phiền não nương pháp thân
Chẳng bị phiền não động.
Như vậy Như Lai thân
Thậm thâm khó nghĩ lường
Nếu chẳng như pháp quán
Sở nguyện khó được thành.
Vị Bà la môn nghe nghĩa này rồi liền dùng kệ đáp vương tử rằng:
Hay thay ! Hay thay !
Ông chân Phật tử
Người đại cát tường
Thiện xảo phương tiện
Với lý chẳng động
Chánh ký đã thành
Vương tử nghe tôi
Nay lần lượt nói :
Chỗ nương độ đời
Phật đức khó nghĩ
Cảnh giới Như Lai
Người không thể biết.
Tất cả chư Phật
Chẳng chung cùng người (khác).
Tất cả chư Phật
Tịch tịnh xưa nay
Tất cả chư Phật
Tu hành như nhau.
Tất cả chư Phật
Thường trụ đời sau
Tất cả chư Phật
Một thể đồng nhau.
Những nghĩa như vậy
Là pháp Như Lai.
Thân thật Như Lai
Chẳng phải tạo tác
Vì sao như thế ?
Vì Phật vô sinh
Kim cương chẳng hoại
Trong ngoài không ngăn (vô ngại)
Thị hiện tướng thân
Theo hóa sinh chúng.
Như Lai Đại tiên
Không có sắc tượng
Như vậy là thân
Chẳng phải máu thịt
Làm sao mà được
Xá lợi đó còn ?
Vì hóa sinh chúng
Phương tiện hiện lên
Tất cả chánh giác
Chân pháp là thân.
Pháp giới thanh tịnh
Là Như Lai tên !
Vương tử phải biết
Như vậy Phật thân
Đúng như Phật nói
Nghĩa lý như vậy
Tôi nghe biết rồi.
Vì thỉnh Như Lai
Rộng nói phân biệt
Nghĩa lý chân thật
Xá lợi cầu xin
Mở phương tiện môn !
Lúc đó, ba vạn hai ngàn thiên tử trong hội nghe nói nghĩa thọ lượng thậm thâm như vậy của Như Lai rồi, tất cả đều đối với Đạo Bồ Đề Vô Thượng phát tâm kiên cố, vui mừng hớn hở, khác miệng đồng âm, nói kệ khen rằng :
Tất cả chư Phật
Chẳng Bát Niết Bàn
Tất cả chư Phật
Thân không hoại tan.
Chỉ vì thành thục
Các chúng sinh nên
Phương tiện thắng trí
Thị hiện Niết Bàn
Như Lai đời trước
Chẳng thể nghĩ bàn
Như Lai hậu tế
Thường, không hoại tan
Như Lai trung tế
Đủ thứ nghiêm trang.
Chúng sinh pháp giới
Đều vì lợi tha !
Lúc đó, Bồ tát Tín Tướng theo các đức Như Lai và hai Đại sĩ nghe nói ý nghĩa thọ mạng của đức Thích Ca rồi thì được thỏa mãn sở nguyện, lòng không nghi hoặc, hớn hở vui mừng, thân tâm khoái lạc, trong ngoài cùng khắp.
Bấy giờ có vô lượng atăngkỳ những loài chúng sinh nghe nghĩa này thì đối với đạo Vô thượng, đều được phát tâm. Bốn đức Như Lai bỗng nhiên biến mất, trong đại hội này chỉ còn lại đức Thích Ca Như Lai. PHẨM THỨ BA : BA THÂN PHÂN BIỆT
Hán dịch : Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế - Đời Lương
Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hư Không Tạng, ở tại trong đại chúng, đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật, dùng hoa Kim bảo thượng diệu, tràng phan, bảo cái để cúng dường mà bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Đối với các đức Như Lai, Đại Bồ tát làm sao theo đúng như chánh pháp
tu hành ?
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nam tử ! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Suy nghĩ kỹ càng ! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Này thiện nam tử ! Tất cả Như Lai có ba thứ thân mà Đại Bồ tát đều nên phải biết. Cái gì là ba ? Một là hóa thân, hai là ứng thân, ba là pháp thân. Như vậy ba thân nhiếp thọ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Làm sao Bồ tát liễu biệt hóa thân ? Này thiện nam tử ! Như Lai xưa ở trong vùng đất tu hành, vì tất cả chúng sinh tu đủ thứ pháp. Từ những pháp tu này đến tu hành mãn. Nhờ tu hành lực mà được tự tại. Nhờ lực tự tại nên theo chúng sinh tâm, theo chúng sinh hạnh, theo chúng sinh giới, hiểu rõ phân biệt nhiều thứ, chẳng đời thời, chẳng quá thời mà xứ sở tương ứng, thời gian tương ứng, hành động tương ứng, nói pháp tương ứng hiện đủ thứ thân. Đó gọi là hóa thân.
Này thiện nam tử ! Các đức Phật Như Lai này vì các Bồ tát được thông đạt nên nói chân đế. Vì thông đạt sinh tử Niết Bàn một vị, bản thân thấy nỗi kinh sợ niềm mừng vui của chúng sinh. Vì Phật pháp vô biên mà tạo tác căn bản, Như Lai tướng ứng Như Như, nguyện lực trí Như Như. Thân này được hiện đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vầng sáng tròn sau cổ. Đó gọi là ứng thân.
Này thiện nam tử ! Làm sao Đại Bồ tát liễu biệt pháp thân ? Vì muốn diệt trừ tất cả những chướng phiền não.v.v..., vì muốn đầy đủ tất cả những thiện pháp thì chỉ có Như Như, trí Như Như. Đó gọi là pháp thân. Hai thứ thân trước là giả danh có, thân thứ ba này gọi là chân hữu (có chân thật). Thân này vì hai thân trước tạo tác căn bản. Vì sao vậy ? Vì lìa khỏi pháp Như Như, lìa khỏi trí không phân biệt thì tất cả chư Phật không có trí nào khác. Vì sao vậy ? Vì tất cả chư Phật trí tuệ đầy đủ, tất cả phiền não diệt tận rốt ráo, được Phật địa thanh tịnh. Vậy nên pháp Như Như trí Như Như nhiếp lấy tất cả Phật pháp.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Tất cả chư Phật lợi ích cho mình, cho người đã đến chỗ rốt ráo. Lợi ích của mình tức là pháp Như Như. Lợi ích người khác tức là trí Như Như. Ở chỗ lợi ích mình và người mà được tự tại đủ thứ, vô biên công dụng. Vậy nên phân biệt Phật pháp vô lượng vô biên đủ thứ vậy. Này thiện nam tử ! Ví như nương vào suy nghĩ vọng tưởng nói đủ thứ phiền não, nói đủ thứ nghiệp, nói đủ thứ quả báo. Nương như vậy vào pháp Như Như, trí Như Như nói đủ thứ Phật pháp, nói đủ thứ Duyên giác pháp, nói đủ thứ Thanh Văn pháp. Nương vào pháp Như Như, nương vào Như Như trí tất cả Phật pháp được tự tại thành tựu. Đó là điều chẳng thể nghĩ bàn thứ nhất. Ví như vẽ vào chỗ trống không làm đồ trang nghiêm cũng khó nghĩ bàn. Như vậy đối với pháp Như Như và Như Như trí nhiếp lấy, thành tựu Phật pháp cũng khó nghĩ bàn.
Này thiện nam tử ! Thế nào là pháp Như Như ? Như Như trí ? Hai thứ không phân biệt mà được sự tự tại ? Này thiện nam tử ! Ví như đức Như Lai đã Bát Niết Bàn mà nguyện tự tại nên đủ thứ việc chưa hết nên pháp Như Như như vậy nhờ Như Như trí mà được việc tự tại.
Lại nữa, Đại Bồ tát vào Vô Tâm định nương vào nguyện lực trước, từ thiền định khởi sự. Như vậy hai pháp không có phân biệt, được việc tự tại vậy. Này thiện nam tử ! Ví như mặt trời, mặt trăng không có phân biệt, cũng như gương nước (soi) không có phân biệt, ánh sáng cũng không phân biệt, ba thứ hòa hợp nên được có bóng (ảnh). Như vậy pháp Như Như, Như Như trí cũng không phân biệt, do nguyện tự tại nên chúng sinh có cảm mà ứng hóa hai thân như bóng của mặt trời mặt trăng do hòa hợp mà sinh ra. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như vô lượng vô biên gương nước nương vào ánh sáng nên bóng rỗng không, được hiện đủ thứ dị tướng. Rỗng không tức là vô tướng.
Này thiện nam tử ! Như vậy mọi người chịu sự giáo hóa, các đệ tử.v.v... chính là hình bóng của pháp thân. Do nguyện lực nên ứng vào hai thân, hiện đủ thứ tướng mạo. Ở pháp thân địa không có dị tướng. Này thiện nam tử ! Nương vào hai thân này tất cả chư Phật nói Hữu dư Niết Bàn. Nương vào pháp thân chư Phật nói Vô Dư Niết Bàn. Vì sao vậy ? Vì tất cả cái còn rốt ráo hết vậy. Nương vào ba thân này, tất cả chư Phật nói Vô Trụ Xứ Niết Bàn. Vì sao vậy ? Vì hai thân nên chẳng trụ Niết Bàn. Lìa khỏi pháp thân không có Phật khác. Vì sao hai thân chẳng trụ Niết Bàn?. Vì hai thân là giả danh chẳng thật, từng niệm từng niệm diệt chẳng trụ, một đôi lúc xuất hiện do bất định vậy, còn pháp thân thì chẳng vậy. Vậy nên hai thân chẳng trụ Niết Bàn. Pháp thân thì chẳng hai nên chẳng trụ ở Bát Niết Bàn. Vậy nên nói nương vào ba thân là Vô Trụ Xứ Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Tất cả phàm phu vì ba tướng nên có trói buộc, có chướng ngại, xa lìa ba thân, chẳng đi đến với ba thân. Cái gì là ba ? Một là tướng tư duy phân biệt, hai là tướng y tha khởi, ba là tướng thành tựu. Như vậy các tướng chẳng thể hiểu, chẳng thể diệt, chẳng thể tịnh nên chẳng được đến với ba thân. Với ba tướng này có thể hiểu, có thể diệt, có thể tịnh nên các đức Phật đầy đủ ba thân. Này thiện nam tử ! Những người phàm phu chưa thể bạt trừ được ba tâm nên xa lìa ba thân, chẳng đến với ba thân. Cái gì là ba tâm ? Một là khởi sự tâm, hai là y căn bản tâm, ba là căn bản tâm. Nương theo các đạo điều phục thì tâm khởi sự hết, nương theo pháp đoạn đạo thì tâm y căn bản hết, nương theo thắng bạt đạo thì tâm căn bản hết. Tâm khởi sự diệt nên được thân hiển hóa, tâm y căn bản diệt nên được thân hiển ứng, tâm căn bản diệt nên được đến pháp thân. Vậy nên tất cả Như Lai đầy đủ ba thân. Này thiện nam tử ! Tất cả chư Phật đối với thân thứ nhất cùng chư Phật đồng sự, đối với thân thứ hai cùng chư Phật đồng ý, đối với thân thứ ba cùng chư Phật đồng thể. Này thiện nam tử ! Thân Phật đầu tiên này, theo ý chúng sinh có nhiều thứ nên hiện đủ thứ tướng. Vậy nên nói là nhiều. Thân Phật thứ hai này, theo đệ tử một ý nên hiện một tướng. Vậy nên nói là một. Thân Phật thứ ba này qua khỏi tất cả các thứ tướng, chẳng phải cảnh giới chấp tướng. Vậy nên nói là chẳng một, chẳng hai. Này thiện nam tử ! Thân thứ nhất này nương vào ứng thân nên được hiển hiện. Những ứng thân này nương vào pháp thân nên được hiển hiện. Pháp thân này là chân thật hữu, không chỗ nương. Này thiện nam tử! Ba thân như vậy do có nghĩa mà nói đến thường, do có nghĩa nên nói đến vô thường. Hóa thân thì hằng chuyển pháp luân, nơi nơi Như Như phương tiện nối tiếp nhau chẳng đoạn dứt. Vậy nên nói là Thường, chẳng phải là căn bản. Tất cả các dụng chẳng hiện đầy đủ nên nói là vô thường. Ứng thân thì từ vô thỉ sinh tử nối tiếp nhau chẳng dứt đoạn, pháp bất cộng của tất cả chư Phật có thể nhiếp trì, chúng sinh chưa hết thì công dụng cũng chẳng tận. Vậy nên nói là thường, chẳng phải là căn bản. Do dụng đầy đủ chẳng hiển hiện nên nói là vô thường. Pháp thân thì chẳng phải là hành pháp, không có khác và khác, là từ căn bản nên giống như hư không. Vậy nên nói là thường. Này thiện nam tử ! Lìa vô phân biệt trí lại Vô Thắng trí, lìa pháp Như Như, cảnh giới vô thắng là pháp Như Như, là Như Như trí. Hai thứ Như Như này Như Như chẳng một, chẳng khác. Vậy nên pháp thân là tuệ thanh tịnh, là diệt thanh tịnh. Do hai thanh tịnh này nên pháp thân đầy đủ thanh tịnh. Lại nữa, này thiện nam tử ! Phân biệt có bốn thứ thân : Có hóa thân chẳng phải ứng thân, có ứng thân chẳng phải hóa thân, có hóa thân cũng là ứng thân, có chẳng phải hóa thân cũng chẳng phải ứng thân. Hóa thân nào chẳng phải ứng thân ? Như Lai đã Bát Niết Bàn nhưng do nguyện tự tại nên để lại thân này. Thân như vậy tức là hóa thân. Ứng thân chẳng phải hóa thân là thân gì ? Là thân trước của đất này. Hóa thân cũng là ứng thân là thân gì ? Là thân Như Lai trụ ở Hữu Dư Niết Bàn. Chẳng phải hóa thân chẳng phải ứng thân là thân gì ? Là pháp thân của Như Lai.
Này thiện nam tử ! Pháp thân này là hai Vô sở hữu hiển hiện. Những gì gọi là hai vô sở hữu ? Đối với pháp thân này thì tướng và tướng xứ cả hai đều không, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải một chẳng phải hai, chẳng phải số chẳng phải phi số, chẳng phải sáng chẳng phải tối. Như vậy trí Như Như chẳng thấy tướng và tướng xứ, chẳng thấy chẳng phải có chẳng phải không, chẳng thấy chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng thấy chẳng phải số chẳng phải phi số, chẳng thấy chẳng phải sáng chẳng phải tối. Vậy nên cảnh giới thanh tịnh, trí tuệ thanh tịnh, chẳng thể phân biệt không, có và trung gian, chính là căn bản của Diệt đạo. Ở pháp thân này hiển hiện Như Lai. Này thiện nam tử ! Quả báo, xứ sở, cảnh giới, nhân duyên của thân này mà nương vào gốc (căn bản) thì khó suy nghĩ đo lường. Nếu đứng về liễu nghĩa mà nói thì thân này tức là Đại thừa, là Như Lai tính, là Như Lai tạng. Nương vào thân này được phát tâm ban đầu, tu hành trung tâm mà được hiển hiện, tâm bất thoái địa cũng đều được hiện, tâm nhất sinh bổ xứ, tâm Kim Cương, tâm Như Lai cũng đều hiển hiện, vô lượng vô biên diệu pháp của Như Lai đều hiển hiện. Nương vào pháp thân này thì chẳng thể nghĩ bàn Đại Tam muội được hiển hiện. Nương vào pháp thân này được hiện tất cả Đại Trí. Vậy nên hai thân nương vào tam muội, nương vào trí tuệ mà được hiển hiện. Như pháp thân này nương vào tự thể nói thường, nói thật, nương vào Đại Tam muội nên nói đến lạc, nương vào Đại Trí nên nói thanh tịnh. Vậy nên Như Lai thường trụ, tự tại, an lạc, thanh tịnh. Nương vào Đại Tam muội, tất cả thiền định, Thủ Lăng Nghiêm.v.v... tất cả niệm xứ, đại pháp niệm.v.v... Đại từ Đại bi, tất cả Đà la ni, tất cả sáu thần thông, tất cả tự tại, tất cả pháp bình đẳng.v.v... nhiếp thọ thì như vậy Phật pháp đều xuất hiện. Nương vào Đại trí này thì mười lực lớn của Phật, bốn vô sở úy, bốn vô ngại biện, một trăm tám mươi pháp bất cộng, tất cả pháp hy hữu chẳng thể nghĩ bàn đều hiển hiện. Ví như nương vào ngọc báu Như ý phát ra thì vô lượng vô biên đủ thứ những báu đều được hiện. Như vậy nương vào báu Đại Tam muội, nương vào báu Đại Trí Tuệ thì phát ra đủ thứ vô lượng vô biên những báu diệu pháp của Phật. Này thiện nam tử ! Như vậy trí tuệ tam muội của pháp thân qua khỏi tất cả tướng, chẳng chấp trước ở tướng, chẳng thể phân biệt, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn. Đó gọi là Trung đạo. Tuy có phân biệt những không có phân biệt thể, tuy có ba số mà không có ba thể, chẳng tăng, chẳng giảm giống như mộng huyễn, cũng không sở chấp, cũng không năng chấp, pháp thể Như Như chính là chỗ giải thoát, qua khỏi cảnh giới tử vương (vua chết), vượt khỏi tối tăm sinh tử, chỗ chẳng thể đến của tất cả chúng sinh chẳng thể tu hành, nơi trú xứ của tất cả các đức Phật Bồ tát. Này thiện nam tử ! Ví như có người nguyện muốn được vàng, tìm kiếm khắp nơi nơi, liền thấy quặng vàng. Đã thấy quặng rồi liền phá vỡ quặng, tuyển chọn lấy vàng cho vào bên trong lò luyện, rồi nấu chảy, gạn lọc thì được vàng ròng. Rồi tùy ý trở lại làm thành những vòng, xuyến... đủ thứ đồ trang sức. Tuy nhiều những công dụng nhưng tính vàng chẳng đổi. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân cầu thắng giải thoát, tu hành việc thiện ở đời thì được thấy Như Lai và chúng đệ tử, được gần gũi rồi mà bạch đức Phật rằng: “Thưa đức Thế Tôn ! Cái gì là thiện ? Cái gì là bất thiện ? Cái gì là chính tu hành ? Mà được thanh tịnh, lìa khỏi bất tịnh ?”. Chư Phật Như Lai và chúng đệ tử suy nghĩ như vầy : “Thiện nam tử, thiện nữ nhân này muốn cầu thanh tịnh, muốn nghe chính pháp !”. Biết như vậy rồi, chư Phật liền nói chính pháp. Thiện nam tử, thiện nữ nhân đó nghe chính pháp rồi thì chính niệm ghi nhớ, giữ gìn, phát tâm tu hành, được tinh tấn lực, phá trừ chướng ngại lười biếng. Phá chướng lười biếng rồi thì diệt trừ tất cả tội chướng. Phá tội chướng rồi thì ở chỗ Bồ tát học phá chướng không tôn trọng. Phá chướng không tôn trọng rồi thì phá tâm trạo hối. Phá tâm trạo hối rồi thì vào được sơ địa. Nương vào sơ địa bứng bỏ chướng lợi ích. Bứng bỏ chướng lợi ích rồi thì được vào Nhị địa. Nương vào Nhị địa phá chướng chẳng bức bách phiền não khốn khổ. Phá chướng này rồi thì vào đến Tam địa. Nương vào Tam địa này phá chướng nhuyến tịnh của tâm. Phá chướng nhuyến tịnh của tâm rồi thì vào đến Tứ địa. Nương vào Tứ địa này phá chướng thiện phương tiện. Phá chướng thiện phương tiện rồi thì vào với Ngũ địa. Nương vào Ngũ địa này phá chướng thấy chân tục. Phá chướng thấy chân tục rồi thì vào với Lục địa. Nương vào Lục địa này phá chướng thấy hành tướng. Phá chướng thấy hành tướng rồi thì vào với Thất địa. Nương vào Thất địa này phá chướng chẳng thấy diệt tướng. Phá chướng chẳng thấy diệt tướng rồi thì vào với Bát địa. Nương vào Bát địa này phá chướng chẳng thấy sinh tướng. Phá chướng chẳng thấy sinh tướng rồi thì vào với Cữu địa. Nương vào Cữu địa này phá chướng Lục thông. Phá chướng lục thông rồi thì vào với Thập địa. Nương vào Thập địa này phá chướng Nhất thiết sở tri. Phá Nhất thiết sở tri chướng rồi thì bạt trừ bản tâm, vào Như Lai địa. Như Lai địa tức là ba thứ thanh tịnh nên được cực thanh tịnh. Những gì là ba ? Một là phiền não tịnh, hai là khổ tịnh, ba là tướng tịnh. Ví như có người luyện trị nước vàng nấu chảy, đã đốt, đã đập rồi thì không còn bụi bẩn làm hiển hiện thể của vàng vốn thanh tịnh. Vàng này thanh tịnh chẳng là không có vàng ? Ví như thủy giới lắng đọng thanh tịnh không đục bẩn nữa vì hiển bày tính nước thanh tịnh chẳng là không nước ? Như vậy pháp thân mà phiền não vốn khởi lên đều thanh tịnh. Phá thân này thanh tịnh chẳng là không thể (hình thể) ? Ví như trong không khói, mây, bụi, mù đều đã sạch. Hư không thanh tịnh này chẳng là không hư không ? Như vậy tất cả các khổ của pháp thân đều diệt hết nên nói thanh tịnh chẳng là vô thể. Ví như có người trong khi nằm ngủ mơ thấy nước lớn chảy lênh láng thân mình, vận tay động chân, ngược dòng nước mà lên. Do tâm lực chẳng lười biếng thoái lui ấy nên từ bờ này đến được bờ kia. Mơ đã tỉnh rồi chẳng thấy có nước và bờ kia, bờ này. Sinh tử vọng tướng đã diệt hết rồi thì giác ngộ thanh tịnh chẳng là vô giác ? Như vậy tất cả vọng tưởng của pháp giới thanh tịnh chẳng lại sinh ra nên nói là thanh tịnh thì chẳng là vô thể mà nói là thanh tịnh ? Lại nữa, này thiện nam tử ! Pháp thân này thì, phiền não chướng thanh tịnh nên có thể hiện Ứng thân, nghiệp chướng thanh tịnh nên có thể hiện Hóa thân, Trí chướng thanh tịnh nên có thể hiện Pháp thân. Ví như nương vào hư không sinh ra chớp, nương vào chớp phát ra ánh sáng. Như vậy nương vào Pháp thân nên sinh ra Ứng thân, nương vào Ứng thân nên sinh ra Hóa thân. Vậy nên tính cực thanh tịnh nhiếp thọ Pháp thân, trí tuệ thanh tịnh nhiếp thọ Ứng thân, Tam muội thanh tịnh nhiêp thọ Hóa thân. Ba thanh tịnh này là pháp Như Như, là chẳng khác Như Như, là Nhất vị Như Như, là Giải thoát Như Như, là cứu cánh Như Như. Vậy nên thể của chư Phật là một chẳng khác. Này thiện nam tử ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nói với Như Lai là đại sư của ta thì phải biết thiện nam tử, thiện nữ nhân đó đều biết, đều thấy thân Như Lai không có thân khác. Này thiện nam tử! Vậy nên đối với tất cả cảnh giới chẳng chánh tư duy đều đoạn trừ mà đối với pháp này không có hai tướng không có phân biệt. Việc tu hành của bậc Thánh đối với Như Như không có hai tướng trong pháp tu hành vậy. Đúng vậy ! Đúng vậy! Tất cả mọi thứ chướng đều trừ diệt. Như Như tất cả chướng diệt ! Đúng vậy ! Đúng vậy ! Pháp Như Như, Như Như trí rất được thanh tịnh. Như Như pháp giới trí tuệ thanh tịnh. Đúng vậy ! Đúng vậy ! Tất cả tự tại nhiếp thọ đầy đủ, được tất cả tự tại thì tất cả các chướng đều diệt trừ, tất cả mọi thứ thanh tịnh. Tướng trí Như Như này nếu thấy như vậy thì đó gọi là Thánh Kiến, đó gọi là chân thật thấy Phật. Vì sao vậy ? Vì Như Như được thấy Như Như vậy ! Vậy nên Như Lai thấy tất cả Như Lai ! Vì sao vậy ? Vì Thanh Văn, Duyên Giác đã ra khỏi ba cõi, tìm kiếm cảnh giới chân thật nên chẳng thể thấy biết. Sự chẳng thấy biết của thánh nhân như vậy, tất cả phàm phu đều sinh nghi hoặc, phân biệt điên đảo, chẳng thể được độ, ví như con thỏ muốn bơi qua biển cả. Vì sao vậy ? Vì chẳng thể thông đạt pháp Như Như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Tất cả Như Lai không phân biệt tâm. đối với tất cả pháp được sự thấy đại tự tại vô ngại thanh tịnh trí tuệ, chính là cảnh giới của mình chẳng chung với người khác. Vậy nên ở vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp chẳng tiếc thân mạng có thể làm việc khó làm vì được thân này. Như thân này tối thượng vô tỷ, là chỗ tối thắng, chẳng thể nghĩ bàn, quá giới hạn của lời nói, là nơi tịch tịnh vượt qua tất cả sợ hãi. Này thiện nam tử ! Như vậy thấy biết Như Như chẳng sinh, chẳng già, chẳng chết, thọ mạng vô hạn, không có nằm ngủ, không có ăn uống, thân tâm luôn tại định, không có dao động tán loạn. Nếu đối với Như Lai mà khởi lòng tranh tụng thì chẳng thể được thấy Như Lai. Lời nói của Như Lai đều có thể lợi ích, có người lắng nghe đều được ân giải thoát. Nếu có người ác, voi ác, cầm thú ác.v.v... thì chẳng gặp gỡ nhau. Đối với Như Lai mà khởi nghiệp thì quả báo vô biên. Tất cả Như Lai không việc gì không ghi (ký). Tất cả cảnh giới lòng không muốn biết. Sinh tử Niết Bàn không có dị tâm. Lời ký của Như Lai không gì chẳng quyết định. Các đức Phật Như Lai, trong bốn uy nghi không gì chẳng phải trí nhiếp trì ! Tất cả các pháp không có gì chẳng làm ! Việc nhiếp lấy bằng từ bi không gì chẳng làm ! Lợi ích cho tất cả chúng sinh !
Này thiện nam tử ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân đối với kinh Kim Quang Minh này mà lắng nghe, tín giải thì chẳng đọa vào đường địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, a tu la, thường sinh lên cõi người trời chẳng làm hạng hạ liệt, hàng thân cận các đức Phật Như Lai, thính thọ chánh pháp, thường sinh ra ở các đất nước Phật thanh tịnh. Vì sao vậy ? Vì pháp thậm thâm này được vào tai. Thiện nam tử này Như Lai đã thấy, đã thọ ký sẽ được chẳng thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thiện nam tử này được pháp thậm thâm như vậy kinh qua tai thì phải biết người đó chẳng bài báng Như Lai, chẳng bài báng chánh pháp, chẳng bài báng thánh tăng, tất cả chúng sinh chưa gieo trồng căn lành khiến cho họ gieo trồng, kẻ đã gieo trồng căn lành thì khiến cho tăng trưởng thành tựu, chúng sinh sở hữu của tất cả thế giới đều có thể tu hành sáu ba la mật.
Lúc đó Bồ tát Hư Không Tạng, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, các thiên chúng.v.v... liền đứng dậy, trật áo vai phải, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có đất nước mà nơi nơi giảng nói Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này thì ở đất nước ấy có bốn thứ lợi ích. Những gì là bốn ? Một là quân chúng của quốc vương cường thịnh, không có các oán địch, lìa khỏi dịch bệnh, thọ mệnh lâu dài, cát tường an lạc, chánh pháp hưng long. Hai là phụ tướng, đại thần không tranh sự ái kính của vua. Ba là Sa môn, Bà la môn và nhân dân trong thôn ấp của đất nước tu hành chánh pháp, nhiều sự lợi ích, tuổi thọ dài lâu, giàu có an vui, đối với những ruộng phước được sửa lập. Bốn là trong ba mùa, bốn đại điều hòa thích hợp, được chư thiên tăng gia thủ hộ, lòng từ bi bình đẳng không gây hại làm tổn thương, khiến cho tất cả chúng sinh thành tâm quy ngưỡng đều tu hành hạnh Bồ Đề. Bốn thứ công đức lợi ích như vậy, chúng con đều sẽ vì chúng sinh làm lợi ích khắp nơi nơi !
Đức Phật dạy rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Đúng vậy ! Đúng vậy! Các ông cần phải như vậy mà tu hành đúng như kinh điển này thì pháp trụ thế lâu dài.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.117.78.215 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.