Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận.
Kinh Pháp cú
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
PHẨM CĂN BẤT-TỊNH THỨ 54
Hỏi: Các căn là định, hay là bất định?
Đáp: Thế nào gọi định, thế nào gọi bất định?
Hỏi: Do cảnh bị biết, và nhân của mắt thảy các căn. Đấy gọi là định.
Đáp: Nếu như vậy căn chẳng phải định. Tại vì sao? Vì các căn chẳng phải cảnh bị biết và nhân của mắt thảy.
Hỏi: Tròng mắt lưỡi và thân, đem mắt thấy được; còn tai và mũi ở trong nên không thể thấy được.
Đáp: Người chết cũng có tròng mắt lưỡi thân mà thật không có căn.
Hỏi: Tròng mắt có hai thứ: căn và phi căn. Người chết diệt mất căn có tròng, phi căn còn lại.
Đáp: Căn có tròng không thể thấy nó được. Cho nên chẳng phải bị được của mắt thảy. Như trong kinh nói: “Năm căn là sắc khá thấy mà có đối”. Nếu như khá thấy mà phân biệt được: Tròng mắt này là căn, tròng mắt này là phi căn.
Hỏi: Như trong kinh nói: “Nhân tứ-đại-thành sắc thanh tịnh, gọi là năm căn”. Thế sao lại nói năm căn là sắc chẳng khá thảy mà có đối ư?
Đáp: Vì vậy nên đáng nghi. Nghiệp lực bất khả-tư-nghì. Vì nghiệp lực nên tứ-đại biến thành căn. Phật sợ các đệ tử cho năm căn này do từ nghiệp mà sinh, nên mới nói đấy là sắc. Lại vì ngoại đạo nói năm căn từ ngã mà sinh; ngã tức chẳng phải có sắc; lại nói năm căn biết lớn biết nhỏ, nên chẳng quyết định. Người nầy cũng cho vô sắc là căn, vậy nên Phật nói các căn là sắc, nhân sắc thảy thành; hoặc bảo nhân sắc thảy mà thành, lẽ phải khá thấy nên mới nói “Chẳng khá thấy”, cũng chẳng phải bị được của tai thảy các căn. Hoặc bảo nếu vậy thời lẽ ra không đối, cho nên nói “có đối”, vì đối với các trần vậy. Nếu sắc có hình có đối, đấy gọi là thô sắc, chỉ bị thấy của mắt. Lại vì ngoại đạo nói: “Các số lượng: Nhất dị, hiệp ly, tốt xấu, tác nghiệp, tổng tướng biệt tướng, và đà-la-phiêu tuy chẳng phải sắc pháp, nhưng cũng là thấy được”. Cho nên Phật nói rằng: Với những trong ấy, chỉ có sắc thấy được mà thôi, kỳ dư chẳng gì thấy được. Ngăn ngại nơi tay thảy, gọi là có đối.
Hỏi: Nếu như vậy đều phải bị xúc?
Đáp: Tuy đều ngăn ngại, nhưng chẳng phải tất cả chỗ đều sinh; thân thức tùy mà sinh biết, nên phân biệt được các căn. Lại nữa, các căn thật chẳng quyết định. Tại vì sao? Vì pháp nếu quyết định, như tay lấy vật, duy một tay lấy chớ mắt năng thấy lớn nhỏ, nên chẳng quyết định. Lại như vật quyết định, đụng thời có tác hại, như đụng lửa thời cháy, đụng dao thời đứt, còn mắt xa mà năng thấy, nếu chẳng quyết định. Lại nếu pháp quyết định, thời ngăn pháp quyết định, như tay ngăn tay, mà mắt đối với trong thủy tinh, mây mù thảy, cũng chẳng ngăn ngại, nên chẳng quyết định. Lại căn nếu như quyết định, lẽ phải ở trong thân, vì ở trong thân nên tuy hiệp với ý, lẽ chẳng thấy trần cảnh bên ngoài, mà thật năng thấy, nên chẳng quyết định. Lại pháp nếu quyết định, thời số danh là năm căn, mắt tai mũi đều hai mà lưỡi cùng thân mỗi cái chỉ một cọng thành có tám, nên chẳng quyết định. Chỉ chỗ ở có nhất định, mà căn chẳng định vậy. Lại mắt tả thấy, mắt hữu cũng biết, chẳng phải thấy khác biết khác, vì căn không tướng tả hữu, nên chẳng quyết định. Lại vì pháp căn trần hiệp chẳng khá được, nên không quyết định. Lại được quyết định thời pháp sắc thảy chẳng năng giác, mà được căn thời có giác, nên chẳng quyết định.
Hỏi: Ánh sáng mắt năng thấy lớn nhỏ và cũng năng đi xa thấy sắc không bị ngăn ngại, in như ánh sáng mặt Nhật lìa thân năng thấy; ánh sáng của hai mắt nầy nhờ chỗ ở quyết định nên hiệp ánh sáng làm một, mới năng thấy sắc. Lại mắt là một, tai mũi ở tại trong, nên chẳng khá phân biệt. Vậy nên ông nói thấy khác biết khác, lời nầy bị phá hoại. Lại Thần biết chứ chẳng phải căn, căn là sở dụng mà thôi. Lại ông nói pháp hiệp chẳng khá được ấy. Việc nầy đã đáp, nghĩa là ánh sáng mặt nhựt thảy, tai thảy các căn,vì hòa hiệp kín, nên cũng chẳng khá được; như đường hiệp cây sát kín xem chẳng biết được vậy. Lại vì nhân Thần nên giác chẳng phải các căn; và căn do tứ đại mà thành, vì tứ-đại không giác nên các căn cũng không giác. Lại như bình nhân vi trần mà thành, vì vi trần không giác nên bình cũng không giác. Lại “chẳng biết” nói khác với trần, cho nên biết không có giác.
Đáp: Ngươi nói vì ánh sáng đi, nên căn là quyết định. Ngươi cho ánh sáng là căn, nhưng ánh sáng chẳng phải quyết định nên căn cũng chẳng quyết định.Lại ánh sáng nầy không có đoạn trước đã phá rồi. Lại ngươi nói một mắt. Việc nầy chẳng phải lẽ. Một mắt thấy khác hai mắt thấy khác. Nếu hư một mắt thời thấy chẳng rõ ràng. Mắt tả hữu này trước đã đáp rồi.
Hỏi: Nếu một mắt năng thức ấy thời hai mắt lẽ chỉ cần một mắt, chứ dùng mắt thứ hai làm gì?
Đáp: Vì sống mũi ngăn cách nên chẳng được là một; dù không ngăn cách cũng chẳng được một, như các ngón tay thảy. Ngươi nói là sở dụng của Thần. Việc nầy trước phá rồi. Thần chẳng dụng được. Ánh sáng mặt Nhật thảy, trước cũng phá rồi. Người nói hòa hiệp kín nên chẳng thấy. Việc nầy cũng chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì pháp nếu quyết định thời không hòa hiệp, vì thể khác nhau vậy, như hiệp cây tuy kín mà cũng vẫn thấy đường kẻ; căn trần hòa hiệp chẳng thấy như vậy. Ngươi nói vì Thần nên giác. Phẩm vô Thần sau sẽ nói. Ngươi nói các đại thành căn. Việc nầy chẳng phải lẽ. Vì nghiệp-lực biến đại làm căn nên có sai khác.
Hỏi: Căn là quyết định. Tại vì sao? Vì tứ-đại làm thành mà tứ-đại là quyết định nên căn cũng quyết định. Lại vì mắt thảy các căn là quyết định, nên đại thảy năng làm lợi ích. Lại đại biến làm căn, vì đại quyết định nên pháp bị biến cũng phải là quyết định. Lại đối căn có trần, đối trần có căn, nên chẳng quyết định, chẳng đối nhau được, lẽ như ý pháp. Nên biết quyết định. Lại người đời đối với tròng mắt thảy trong pháp quyết định gọi tên các căn. Lại căn biết năm món pháp quyết định, chẳng phải như ý thảy, nên gọi quyết định. Lại căn biết hiện lượng, nên gọi quyết định. Lại căn biết cảnh hiện có, ý biết cả cảnh không có, như biết quá khứ thảy. Lại căn trần hòa hiệp với sinh căn biết pháp, lẽ phải cho căn quyết định đôi trần quyết định. Cho nên biết quyết định.
Đáp: Người nói căn do đại thành gọi là quyết định ấy. Tuy đều do các đại mà có căn và phi căn, như vậy hoặc có quyết định hoặc chẳng quyết định. Ngươi nói lợi ích. Lợi ích với biết, chứ chẳng phải giúp căn vậy. Lại nói đại biến thành căn. Biến cũng là biết, chứ chẳng lợi ích cho căn. Lại tứ-đại thanh-tịnh gọi là căn, nên chẳng quyết định. Ngươi nói “căn trần đối nhau” cũng là ý, vì định căn là phi trí, nên các thứ kia đều là sai biết ý lực.Lại tuy nói sáu thức, nhưng cốt do ý-thức mới quyết liễu, như khi thấy tứ-đế hiện biết các pháp chính quán pháp tính đều do ý thức. Lại như vòng lửa xoay tròn, trò huyễn hóa ánh hồng thành quách Càn-thát-bà đều là không mà vọng thấy có, thấy sắc cũng vậy. Vậy nên mắt thảy đều là tà duyên. Người nói: “Căn trần hiệp nên sinh biết”. Hoặc đến nên biết hay chẳng đến mà biết, đều trước đã đáp rồi. PHẨM SẮC NHẬP TƯỚNG THỨ 55
Lại nói xanh vàng các sắc gọi là sắc nhập. Như trong kinh nói: Nhãn -nhập diệt sắc tướng rời, chỗ nầy cần biết.
Hỏi: Có kẻ nói nghiệp-lượng cũng là sắc nhập. Tại vì sao? Như trong kinh nói: đen trắng dài ngắn, thô tế các sắc?
Đáp: Hình thảy là sai biệt của sắc. Tại sao biết được? Vì nếu rời sắc thời chẳng sinh tâm biết hình lượng thảy. Nếu hình thảy khác màu, rời sắc cũng ưng sinh tâm, mà thật chẳng sinh. Cho nên biết chẳng khác.
Hỏi: Trước sinh tâm biết sắc, sau mới sinh tâm biết hình. Tại vì sao? Vì tâm biết đen trắng vuông tròn chẳng đồng thời sinh?
Đáp: Vì các tướng dài ngắn đều duyên nơi sắc nên sinh trong ý thức, như trước thấy sắc nhiên hậu ý thức mới sinh nghiệp tướng nam nữ; cũng vì các pháp hữu-vi niệm niệm diệt nên không có diệt pháp nào chẳng đi, vì đi nên gọi là nghiệp.
Hỏi: Đi gọi là thân nghiệp, nếu không đi thời không thân nghiệp?
Đáp: Vì danh tự thế-tục nên có thân nghiệp, chẳng phải đệ-nhất-nghĩa.
Hỏi: Nếu không thân-nghiệp trong đệ-nhất-nghĩa ấy. Trong đệ-nhất-nghĩa cũng không có tội phước. Vì không tội phước nên cũng không quả báo?
Đáp: Pháp khi khởi với chỗ khác, hoặc lợi người khác hay hại thành có tội phước, chẳng nên nạn vậy. PHẨM THANH TƯỚNG THỨ 56
Hỏi: Vì sao chẳng nói nhân tiếng thành đại?
Đáp: Tiếng rời sắc thảy, sắc thảy chẳng rời nhau, vậy nên chẳng nói. Lại tiếng chẳng như sắc thảy thường nối nhau; lại cũng chẳng cùng sắc thảy đồng sinh. Lại cùng sắc thảy sinh khác. Tại vì sao? Vì sắc thảy sinh nhau lần lữa rễ mộng thứ lớp mà có, tiếng chẳng như vậy. Lại tiếng từ vật được tên, như nói tiếng bình, chẳng nói tiếng trong bình. Lại người hoặc nói thấy bình, hoặc nói thấy sắc bình, trước chẳng nói nghe bình, mà chỉ nói nghe tiếng bình. Lại vì đời trước chúng-sinh trồng nghiệp, nhân yên lặng. Nếu muôn vật đều có tiếng động, thời không lúc nào tạm lặng. Vậy nên tiếng chẳng phải nhân thành đại.
Hỏi: Vật đều có tiếng. Tại sao biết? Vì động thời tiếng phát, các đại thường động nhau, nên tất cả đều phải có tiếng?
Đáp: Chẳng phải muôn vật động nhau đều là nhân của tiếng. Tại vì sao? Vì mắt thấy hai ngón tay động nhau mà chẳng sinh tiếng được.
Hỏi: Trong ấy sinh tiếng,vì nhỏ nên chẳng biết?
Đáp: Chẳng sinh, cho đến tiếng nhỏ cũng chẳng nghe có. Nếu nói có tiếng, thời không hiện tín được. Người khác cũng có thể nói trong nước có tiếng, vì nhỏ nên chẳng nghe: Trong lửa có vị, trong gió trong không, đều có sắc thảy mà thật không có. Vậy nên chẳng phải tất cả động nhau đều năng sinh tiếng.
Hỏi: Người đời thường nói tiếng là cầu-na của hư không. Nay do đâu mà biết là tứ-đại sinh?
Đáp: Nay hiện thấy tiếng sinh từ tứ-đại, nên chúng tôi chỉ tin hiện thấy. Lại nói tiếng chuông tiếng trống, cho nên biết là tiếng chuông trống. Lại vì tứ-đại khác nên có tiếng sai khác, như tiếng chuông trống. Lại vì tứ-đại khác nên có tiếng sai khác, như tiếng chuông trống khác nhau. Lại như đánh đồng khí thời đều có tiếng động, tay nắm là đều dứt tiếng, nên phải biết đồ động tiếng cũng như thế. Lại sắp muốn có tiếng, tất chuẩn bị chất tượng tứ-đại. Nên biết tiếng tứ-đại mà sinh. Lại vì nghiệp nhân-duyên nên tiếng có sai khác, như tiếng chúng-sinh hoặc hay hoặc dở, chẳng nên vì nghiệp duyên mà sinh cầu-na hư không. Vậy nên chẳng phải. Lại vì nhân nhau. Nhân nhau ấy là tùy theo pháp nào đó nên mới có tức gọi là nhân. Như vậy nhân đại có tiếng, không thời không tiếng, như có lửa thời nóng, không lửa không nóng; phải biết do lửa có nóng; do đại sinh tiếng cũng lại như vậy. Như hư-không có nóng hư không vẫn tồn tại, mà khi nóng hoặc khi không. Phải biết hư không chẳng phải nhân của nóng, tiếng cũng như thế. Như có hư không có tiếng, hư không vẫn tồn tại, mà tiếng hoặc khi không có. Cho nên biết chẳng phải nhân. Lại tiếng là hư-không cầu na, đây không thể tin được, vì trong hiện sự trước chẳng thấy nhân của tiếng, với hư không cũng không lấy gì so sánh để biết, vì trong ấy không so sánh được. Lại trong các kinh thơ phần nhiều trái nhau, như vậy không một điều nào đáng tin, nên biết chẳng phải lẽ. PHẨM HƯƠNG TƯỚNG THỨ 57
Hỏi: Hương Chiên-đàn thảy và các thứ hương hiệp lại, vì hương gốc khác nhau, nên các hương nầy lại sinh hương khác chăng?
Đáp: Bởi hòa-hiệp nên sinh hương khác, như sắc xanh vàng trộn lại sinh sắc lục. Lại vì nhiều món nghiệp nhân duyên, nên sinh nhiều món hương.
Hỏi: Đệ tử phái Ưu-Lầu-Khê bảo hương chỉ là cầu-na của đại tức mùi nương, việc ấy thế nào?
Đáp: Không có đà-la-phiêu, việc nầy đã nói rõ, nên biết chẳng phải lẽ. Lại như người phái Vệ-thế-sư bảo: hàn-the, chì, thiếc, vàng, bạc và đồng thảy, đều là hỏa vật, mà trong ấy có hương. Cho nên biết chẳng phải chỉ địa mới có.
Hỏi: Hàn the các thứ hiệp cùng với địa, nên có hương?
Đáp: Chẳng phải khách hương. Tại vì sao? Vì trong các vật kia trước ngửi chẳng nghe thấy hương ấy. Nếu đã từng nghe nên nói là khách, như trước nghe hương hoa, sau nghe trong áo, nên gọi là khách, mà hương hàn-the thảy chẳng phải như vậy. Vậy nên chẳng phải nhân. Lại hàn-the thảy lúc không hương chẳng nên nói là khách. Lại chúng tôi cũng có thể nói trong nước thảy không có sắc thảy, chỉ cùng đất hiệp nên mới có sắc thảy. Nếu ngươi nói trong nước thảy tự có sắc ấy. Chúng tôi cũng nói trong hàn-the tự có hương. Lại như trong vật có pháp chẳng rời nhau, tức là hương của vật ấy. Lại trong nước thảy, nếu có hương, mà vì nhỏ nhiệm cho nên chẳng biết có, thời có lỗi gì? Như nói trong trăng có lửa, lửa quyết định nóng. Lại ngươi nói hơi ấm trong nhà là do lửa diệt, còn thừa khí nóng nên có chút sắc; cũng nói trong nước nóng có chút tướng lạnh, hương trong nước cũng vậy. Trong ấy không có nhân quyết định nói nước không hương. Lại các đà-la-phiêu của ngươi không tướng quyết định. Tại vì sao? Vì ngươi tự nói: “Trong đất có hương, mà kim cương, pha lê thảy đốt thời biến khác, nên đều là vật của đất, mà đều không hương”. Lại ngươi nói “tướng nước quyết định lạnh, tướng sữa thảy cũng như vậy, mà bơ thảy có hương, nên gọi là vật của đất”. Lại trăng thảy thật lạnh mà ngươi nói là vật của lửa. Vì các cớ nầy, nên các đà-la-phiêu không có tướng quyết định. Vậy nên hương chỉ đất có, việc nầy chẳng phải lẽ; ngươi cho hàn-the thảy là vật của lửa cũng chẳng phải nữa. Tại vì sao? Vì không có quyết định nóng vậy. Các đệ-tử phái Ưu-lầu-khê nói lửa quyết định nóng, mà hàn-the thảy không nóng.
Hỏi: Vật hàn-the thảy nóng ở trong quả, chẳng ở trong xúc?
Đáp: Bơ quả lạnh lẽ phải là vật của nước, mà ngươi cho là quyết định của hương, nên gọi là vật của đất. Cho nên nói quả, chẳng gọi là dụng-nhân. Lại như trái Ha-Lê-Lặc, khi còn là quả quyết định nóng nên là vật của lửa, mà thật có hương, có năm vị nên chẳng gọi vật của lửa, vì nói quả chẳng phải nhân vậy. Hàn-the thảy chẳng phải vật của lửa; và tướng lửa nhẹ, hàn-the thảy nặng, sắc lửa trắng mà hàn-the thảy sắc khác. Lại hàn-the thảy với lửa không có đồng tướng có thể biết được là vật của lửa. Lại hàn-the thảy với lửa trái nhau. Tại vì sao? Vì gặp nóng là tiêu mất. Nếu là vật của lửa, gặp được lửa lẽ phải tăng thêm, mà thật chẳng tăng, nên chẳng phải vật lửa. Các ngươi chẳng khéo suy nghĩ nên cho hương chỉ là vật của đất. Mà hương nầy là đều ở trong bốn món. PHẨM VỊ TƯÓNG THỨ 58
Vị là ngọt, chua, mặn, cay, đắng và lạt thảy; sáu vị nầy đều tùy theo vật mà sai khác, chẳng bởi tứ-đại lệch nhiều mà có. Như nói đất nước nhiều nên ngọt. Việc nầy chẳng phải lẽ. Vì như vị ngọt có vô-lượng sai khác. Nên phải biết vật sinh tự có sai khác hẳn.
Hỏi: Có ông thầy thuốc nói: chỉ có sáu vị. Việc ấy thế nào hiệp, hoặc ba hoặc bốn, như vậy nhiều vô-lượng, chẳng vì ngọt chua hiệp mà gọi vị ngọt chua. Ngọt chua hòa hiệp lại sinh vị khác. Như vậy nhiều vô-lượng. Lại vì tùy thế tục nên các vị sai khác, như người cho là ngọt, tức gọi là ngọt. Lại khi các vị chín đều tự nương nhau, như khi vị ngọt chín, hoặc ngọt hoặc biến khác, các vị khác cũng vậy. Vậy nên biết các pháp có sức như vậy, chứ chẳng phải chỉ có sáu mà thôi. PHẨM XÚC TƯỚNG THỨ 59
Xúc là: cứng mềm, nặng nhẹ, mạnh yếu, lạnh nóng, rít trơn, khô ướt, khoái vui, mệt mỏi, chẳng mệt mỏi, bệnh hoạn, lành mạnh, thân lợi, thân độn, biếng nhác, tối tăm, nhức đầu, tê thấp, rên rỉ, đói khát, no nê, thèm chua, chẳng thèm chua và mờ mịt thảy.
Hỏi: Có kẻ nói xúc có ba thứ: lạnh, nóng, chẳng lạnh chẳng nóng. Việc ấy thế nào?
Đáp: Với trong cứng thảy mà sinh biết. Nếu lìa cứng thảy thời không biết lạnh nóng.
Hỏi: Ưu-Lầu-Khê nói xúc vào đất là chẳng lạnh chẳng nóng, xúc gió cũng vậy, xúc nước lạnh, xúc lửa nóng. Việc ấy thế nào?
Đáp: Trước đã nói không có quyết định nghĩa là bơ thảy định lạnh, hàn the thảy không nóng. Lại trước nói ba xúc, nếu gió là khách, thời gió không có xúc riêng, nên không có tướng quyết định. Lại trong nước nóng tướng lạnh chẳng khá được, nên nước chẳng phải quyết định tướng lạnh.
Hỏi: Trong nước nóng tướng lạnh có ít vì lửa thắng nên chẳng biết Tại sao biết được? Vì nếu khi thế lửa hết thời nước trở lại như thường?
Đáp: Hàn-the thảy, bơ thảy vật cứng hiệp cùng lửa thời cháy. Nếu tướng cứng chẳng mất, mà có tướng chảy, thời tướng cứng tức là tướng chảy. Nếu mất tướng cứng mà có tướng chảy, ấy là xúc lạnh diệt rồi lại sinh xúc lạnh, như xúc đất là chẳng lạnh chẳng nóng, khi hiệp cùng lửa, xúc hoặc chẳng mất thời chẳng gọi chín biến. Nếu mất xúc nầy, lại sinh xúc khác. Như thế thời xúc lạnh mất rồi lại sinh xúc lạnh. Như vậy các cầu na trong nước cũng ưng chín biến. Ngươi nói tráo trở có lỗi. Lại sinh pháp trái nhau, nên phải biết các tướng vô thường như lửa hiệp thời tướng cỏ thảy diệt mất. Nếu bảo xúc nóng che xúc lạnh ấy, người ta cũng có thể nói tướng sữa chẳng mất, chỉ bị tướng bơ che. Nên không thể được. Nếu ngươi bảo chẳng thấy sữa thành lại sữa. Vậy thì không có chính kiến. Tại vì sao? Vì từ trong vô-thủy sinh tử đến nay, vật gì mà chẳng bị lửa dốt cháy! Lại cũng tìm thấy được trong lòng đất có bùn đen. Phải biết đó cũng do chín biến mà có lại. Như vậy thời xúc lạnh mất, lại sinh xúc lạnh. Hoặc có vật hiệp cùng với lửa nên sắc đen diệt mất, sinh lại sắc đen; sắc đỏ mất, sinh lại sắc đỏ. Như vậy xúc lạnh diệt rồi, lửa sinh lại, ấy có lỗi chi? Lại như người phái Vệ-thế-sư nói: Chỉ có đất có tướng chín biến, trong nước thảy không có. Mà các ông thầy thuốc nói, nếu uống thuốc nóng thời được kết quả khác. Nếu trong nước nóng sắc thảy chẳng mất, đâu có quả khác. Cho nên biết nước thảy cũng có chín biến. Như vì lửa đốt vật cháy mất bản tướng, nên mới có tướng khác. Vậy nên biết vật có tướng khác, nước cũng như vậy. Lại các tướng nầy trái nhau nên vô thường, như nước năng diệt lửa, lửa năng tiêu nước; sức lửa không vật gì chẳng làm tiêu, huống là hiệp với nước mà xúc lạnh chẳng diệt? Vậy nên kinh Vệ-thế-Sư nói nước quyết định lạnh. Việc nầy chẳng phải lẽ. PHẨM LẬP VÔ SỐ TRONG THỨC LUẬN NHÓM KHỔ ĐẾ THỨ 60
Tâm-ý-thức thể một mà danh khác. Nếu pháp năng duyên ấy gọi là tâm.
Hỏi: Nếu vậy thời thọ-tưởng-hành thảy và các tâm-số pháp, cũng gọi là tâm? Vì đều năng duyên vậy?
Đáp: Thọ tưởng hành thảy đều là tên sai biệt của tâm. Như trong Đạo phẩm nói một “niệm” có năm tên: niệm xứ, niệm căn, niệm lực, niệm giác chính và niệm tinh tấn thảy cũng như vậy. Lại một vô lậu huệ mà có khổ tập trí thảy nhiều tên sai khác. Lại trong một Định pháp mà cũng gọi là thiền, giải thoát trừ nhập. Như vậy tâm một, chỉ vì theo thời nên có tên sai khác. Cho nên biết chỉ là nhất tâm. Tại vì sao? Vì như trong kinh nói: “Người nầy tâm dục lậu được giải thoát, tâm hữu lậu, vô-minh lậu được giải thoát”. Nếu riêng có tâm-số, lẽ phải nói tâm-số được giải thoát. Lại trong kinh nói: “Phật, nếu biết chúng-sinh tâm vui mừng, tâm mềm mại, tâm đều hòa kham nổi được giải thoát, nhiên hậu mới vì nói pháp-tứ-chân-đế”. Trong đây chẳng nói tâm số. Lại trong kinh nói: “Vì tâm dơ nên chúng-sinh dơ, lại vì tâm sạch nên chúng-sinh sạch”. Lại nói: “Nếu Tỳ-kheo vào trong tứ thiền được tâm thanh tịnh bất động, nhiên hậu như thật biết khổ-thánh-đế, tập-diệt-đạo đế”. Lại trong 12 nhân duyên nói hành duyên thức. Lại nói sáu món là người. Lại nói nhẹ nhõm dễ chuyển không gì bằng tâm. Lại trong kinh nói: “Kẻ sứ đến chủ trong thành tấu bày sự thật, tấu rồi trở về.” Chủ tức là tâm. Lại nói trong có thức-thân mà chẳng nói có tâm-số. Lại nói vì ba món hòa-hiệp nên gọi là xúc. Nếu có tâm-số thời chẳng gọi là ba, mà thật nói ba. Vậy nên biết chỉ có tâm, không riêng có tâm-số. PHẨM LẬP HỮU SỐ THỨ 61
Hỏi: Tâm khác, tâm-số pháp khác. Tại vì sao? Vì tâm và tâm-số pháp chung tương ưng vậy. Nếu không có tâm-số thời không có tương ưng, mà thật có tương ưng. Cho nên biết có tâm-số pháp. Trong ý ông, nếu bảo tâm cùng tâm khác tương ưng. Việc này chẳng lẽ. Tại vì sao? Vì trong kinh nói: “Tâm đi riêng, đi xa, ẩn kín, không hình.” Trong đây chỉ ngăn đồng tính, tuy cùng tâm-số chung đi, nhưng cũng gọi là đi riêng. Như nói Tỳ-kheo ở riêng, tuy có loài trùng thú, nhưng vì không đồng loại nên cũng gọi ở riêng một mình. Cho nên biết tâm chẳng cùng tâm khác tương-ưng, mà thật có tương-ưng. Vậy nên biết có tâm-số. Lại tâm nhiếp thuộc về bảy giới một nhập một ấm, còn tâm-số nhiếp thuộc một giới một nhập ba ấm. Lại tâm làm chỗ nương ở cho tâm-số. Như trong kinh nói: “Tâm-số pháp nầy đều nương tâm hành”. Lại nếu không tâm-số thời không ngũ-ấm, vậy là không thể được. Lại hai tâm nầy sinh khác nhau: Do từ hai sinh tâm; từ ba sinh tâm-số. Như trong kinh nói: “Nhân nhãn duyên sắc sinh nhãn-thức, ba việc hòa-hiêp gọi là xúc; xúc nhân duyên sinh thọ”. Lại nói: “Danh-sắc nhóm nên thức nhóm; xúc thọ nhóm nên thọ nhóm”. Lại tâm số pháp tương ưng với chỗ bị nương, vì đồng chung một cảnh duyên. Ở trong một đời tâm chẳng phải như vậy, vì là sai khác. Vậy nên biết tâm khác tâm số pháp khác. Lại trong tứ-y nói: Y trí chẳng y thức. Trí nếu là thức, làm sao nói y? Cho nên biết trí chẳng phải thức vậy. Lại Phật nói tâm-số pháp. Như nói từ tâm sinh, nương ở nơi tâm thời gọi là tâm-số. Lại Phật chẳng nói nghĩa này là duy độc có tâm là không có tâm số. Người khác cũng có thể nói chỉ có tâm-số mà không có tâm.
Nếu ông đem danh-tự để phá tâm-số, thời tôi cũng đem danh-tự mà phá lại tâm. Lại vì chỗ sở-tác khác, nên tướng các pháp khác, như nước năng thấm ướt, lửa năng đốt cháy. Như vậy thọ thảy vì sở-tác khác nên biết có tướng khác. Lại trong các kinh đều nói: Trong tâm sinh giác. Nên biết tâm-số khác với tâm. Vì chẳng lẽ trong tâm tự sinh tâm vậy. Lại như nói vì tâm dơ nên chúng-sinh dơ; tâm sạch nên chúng-sinh sạch. Nếu chỉ là tâm, thời không nhân đâu mà có dơ sạch; người nầy chẳng bởi vô-minh nên dơ, huệ-minh nên sạch, lẽ tự dơ tự sạch ấy thời không thể được. Vậy nên có tâm-số pháp. PHẨM PHI VÔ-SỐ THỨ 62
Tuy ngươi: Nói năng duyên pháp gọi là tâm, tâm sai khác gọi là số, như trong Đạo phẩm nói. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì trong kinh nói: “Tướng tâm khác, tướng tâm-số khác”. Năng liễu biệt là tướng Thức; cảm giác khổ vui là tướng Thọ; biết riêng là tướng Tưởng; khởi tác là tướng Hành. Cho đến biết tâm khác, tâm-số cũng khác. Ngượi nói tâm được giải thoát. Việc nầy chẳng phải lẽ. Vì trong các kinh đều nói rời vô-minh, nên huệ được giải thoát, chẳng những nói tâm được giải thoát. Lại vì tâm thắng nên chỉ nói tâm. Lại vì người đời phần nhiều đều biết tâm, mà chẳng biết đến tâm-số pháp, nên Phật nói tâm nhiều hơn. Lại trong kinh Phật có lời bất-tận ngữ, chính là lời này vậy. Lại như trong kinh nói: “Các ngươi Tỳ-kheo! Năng dứt một pháp, Ta bảo đảm các ngươi được đạo A-Na-Hàm”. Chỗ gọi là tham dục, mà thật chẳng phải chỉ riêng dứt tham dục. Việc nầy cũng vậy. Tâm vui mừng thảy đều lấy đây đáp. Ngươi nói trong ngoài hai pháp. Việc này cũng chẳng phải lẽ. Nói ngoài có danh sắc, tức nói tâm số, vì nhiếp từ ngoài vào nên gọi là ngoài. Lại trong đây Phật nói ba món: Trong có thức thân, tức nói thức với căn; ngoài có danh sắc, tức là nói trần. Ngươi nói có thức-thân. Việc nầy cũng chẳng phải lẽ. Trong kinh nầy nói: “Tất cả tướng ngoài, tức là tâm-số”. Ngươi nói ba món hòa hiệp gọi là xúc. Việc này chẳng phải lẽ. Xúc với thọ thảy làm nhân cho tâm-số, vậy nên riêng nói. PHẨM PHI HỮU SỐ THỨ 63
Đáp: Ngươi nói vì tương ưng nên có tâm số pháp. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì các pháp đi riêng (ra sau sẽ nói rộng) nên không có tương ưng. Tâm này đi riêng, cũng lấy đây mà đáp, chẳng phải ngăn đồng tính mà ngăn tâm số pháp. Ngươi nói nhiếp thuộc khác, nên có tâm-số. Kẻ làm ra kinh nầy, tự lập danh tự, chớ trong kinh Phật chẳng nói nhiếp nhau. Vậy nên chẳng phải. Ngươi nói y xứ ấy. Như ý-thức ngươi y nơi tâm, chẳng phải vì y mà bèn gọi là tâm số. Như vậy tâm y nơi tâm chẳng được gọi tên khác. Ngươi nói không ngũ-ấm ấy. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tôi cho vì tâm sai khác nên có khi gọi là thọ, có khi gọi là tưởng thảy. Ngươi cho tâm số riêng là ba ấm. Tôi cũng cho tâm riêng là ba ấm. Ngươi nói sinh khác. Việc nầy chẳng phải lẽ. Vì nếu tâm với tâm số pháp chung sinh, sao còn nói “hai sinh tâm, ba sinh tâm số”. Nếu chỉ nói tâm thời còn có lý. Tại vì sao? Vì người nầy khi trước nói biết, sau mới nói tưởng thảy. Ngươi nói tương ưng duyên đời, nên biết có khác. Việc nầy trước đã phá rồi, không tương ưng vậy. Ngươi nói y trí chức chẳng phải y thức ấy. Tôi nói tâm có hai thứ: Một gọi là trí, hai gọi là thức; cho nên tâm y trí, chẳng y thức vậy. Ngươi nói Phật nói y tâm sinh pháp gọi là tâm số ấy. Tâm sinh ra pháp gọi là tâm số, vì tâm do tâm sinh nên gọi là tâm số.
Ngươi nói Phật cũng chẳng nói không tâm số ấy. Tôi cũng chẳng nói không tâm số pháp, nhưng chỉ nói vì tâm sai biệt nên gọi là tâm số. Lại nói có đạo lý, thời chẳng khá nói cũng gọi là nói; nếu không đạo lý dù có nói cũng như chẳng nói. Vậy nên chẳng khá lấy “nói” làm nhân. Lại chúng tôi sẽ nói nghĩa sanh tự tâm tâm số pháp. Vì nhóm khởi thân đời sau, vì tương đồng với tâm, nên cũng gọi là tâm. Lại tâm với tâm số vì đều do tâm sinh, nên gọi là tâm số. Nếu người nói chỉ có tâm-số-pháp, thời người ấy cần phải thuyết minh danh nghĩa của tâm-số-pháp, mà thật chẳng khá thuyết được. Vậy nên phi-nhân. Ngươi nói sở-tác khác với tâm sinh giác, đều lấy đây mà đáp. Tại vì sao? Vì tôi cho tâm sai biệt nên nghiệp sở-tác khác, rồi cũng trong tâm sinh tâm, gọi là tâm sinh giác. Ngươi nói dơ sạch không nhân. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tuy không có tâm-số pháp, mà có dơ sạch. Lại vì không tướng khác nên không có tâm-số pháp. Tại vì sao? Vì ngươi cho tâm tương-ưng nên gọi là tâm-số, mà pháp tương-ưng không có (Ra sau sẽ nói rộng) cho nên chẳng do tâm riêng có tâm-số pháp. PHẨM MINH VÔ SỐ THỨ 64
Ngươi nói tướng khác nên có Tâm-số. Việc nầy chẳng phải lẽ Tại vì sao? Vì hoặc thức hoặc giác là các tướng đồng không có sai biệt. Như tâm thức sắc, tức gọi là giác, cũng gọi là tưởng thảy. Như người đời nói ngươi thức người này tức gọi là biết; do cảm thọ khổ vui cũng tức là biết. Nên phải biết thức tức là thọ tưởng. Nếu các pháp này có định tướng khác nhau, nay cần phải nói, mà thật chẳng nói được, nên biết không có tướng khác. Ngươi nói huệ được giải thoát. Việc này chẳng phải lẽ, vì không duyên do vậy. Tùy theo tâm có nhiễm cũng có vô-minh; tâm này trong nhóm nhiễm và vô-minh đều cùng tương-ưng với nhau. Nếu nói vô-minh làm dơ huệ, nhiễm làm dơ tâm ấy, thời không có duyên do. Như vậy vì lìa vô-minh nên huệ được giải thoát. Vì lìa nhiễm-dơ nên tâm được giải thoát, cũng đều không không duyên do. Lại gọi kinh nầy là bất liễu-nghĩa. Như trong kinh nói: “Vì lìa ba món lậu nên tâm được giải thoát”. Cho nên biết cũng do lìa vô-minh tâm được giải thoát. Nếu như nói do lìa nhiễm tâm được giải thoát, lời này là ngăn đoạn. Nếu do lìa nhiễm nên tâm được giải thoát, là rốt ráo đoạn. Nếu do từ nhiễm nên tâm được giải thoát; từ vô-minh nên nên huệ được giải thoát. Vậy thời do lìa giận dữ thảy là cái vật gì được giải thoát, việc nầy cần phải đáp. Nên phải biết lìa tâm không được giải thoát, cho nên chỉ có tâm. Ngươi nói vì tâm thù-thắng nên chỉ nói tâm ấy. Tâm có nghĩa là gì mà thù-thắng còn huệ thảy các pháp lại không có? Ngươi nói người đời phần nhiều biết tâm, nên chỉ nói tâm ấy. Người đời cũng Thức nhiều khổ vui, cần nên nói thọ thảy.
Ngươi nói có các kinh ấy. Cớ sao chẳng chỉ tâm-số, mà chỉ nói tâm. Ngươi nói chỉ đoạn một pháp, lời nầy có lý, vì Phật tùy chúng-sinh nào phiền não nhiều hơn, hoặc thường che nơi tâm, mới nói một pháp nầy, vì đoạn được pháp ấy, thời các pháp kia tự đoạn. Vậy nên phi nhân. Ngươi nói vì nói danh tướng tức là nói tâm-số. Ngươi tự nhớ tưởng phân-biệt, chứ kinh nầy chẳng nói nghĩa ấy. Nếu ngươi tự sinh nhớ tưởng phân biệt, sao chẳng nói bởi danh tướng nên nói tâm duyên, thời có lý. Ngưoi nói xúc và thọ thảy làm nhân cho tâm-số. Lời nói nầy bị nhiều lỗi, vì đều là pháp tương-ưng mà nói xúc làm nhân thọ thảy, chứ chẳng phải thọ thảy làm nhân cho xúc có các lỗi như vậy. Cho nên biết chỉ có tâm, mà không riêng có tâm-số. PHẨM VÔ TƯƠNG-ƯNG THỨ 65
Không có pháp tương ưng. Tại vì sao? Vì không có tâm-số pháp thời tâm tương ưng với cái gì? Lại các tướng thọ thảy chẳng được đồng thời. Lại nhân-quả chẳng cùng lúc. Thức là nhân của tưởng thảy các pháp. Pháp nầy chẳng phải đồng có một thời, nên không có tương ưng. Lại Phật nói trong pháp nhân-duyên thẳm sâu; vì việc nầy sinh nên việc kia được sinh. Lại như hột giống, mộng, cây, nhánh, lá, hoa và trái thảy, hiện thấy nhân-quả lần lữa nhau. Cho nên thức thảy cũng cần thứ lớp mà sinh. Nếu ý ngươi bảo tham thảy các phiền não cùng sắc chung nhau nên đồng sinh ấy. Việc nầy chẳng phải lẽ. Vì sắc không có tính liễu trí, nên chẳng phải năng duyên. Còn tâm và tâm-số có duyên có liễu-tri, cho nên một thời chẳng được đồng có, vì không có nhiều liễu tri vậy. Lại do một thân gọi là chúng-sinh, vì một liễu tri vậy. Nếu trong một niệm có nhiều tâm-số pháp, thời có nhiều liễu-tri, vì có nhiều liễu-tri nên lẽ phải nhiều người, việc ấy không thể được. Cho nên trong một niệm không có các pháp thọ thảy. Lại cớ sao sáu thức chẳng cùng sinh một lúc.
Hỏi: Các thức đều đợi thứ lớp duyên sinh, nên chẳng một lúc?
Đáp: Bởi các chi ngăn nên duyên một thứ lớp mà thứ lớp chẳng được sinh sáu thức ư? Phải biết nhân trước quả sau thứ lớp sinh vậy. Lại trong kinh nói: “Mắt thấy sắc chẳng thấy tướng”. Lấy tướng tức là nghiệp của tưởng. Nếu như Phật cho nghiệp thức mà ngăn nghiệp tưởng, thời phải biết hoặc có thức mà không tưởng. Nếu người lấy tướng, là thấy này đã lấy, thời chẳng phải còn khi thấy, cho nên biết thức thảy thứ lớp mà sinh. Lại trong kinh nói: “Mắt thấy sắc rồi tùy theo vui suy nghĩ”. Trong đây cũng trước nói nghiệp thức sau nói thọ thảy. Lại trong kinh nói: “ Thấy cái thấy thảy”. Cho nên biết chẳng phải tất cả tâm đều có thọ thảy. Lại bởi tướng năm thức. Việc nầy khá rõ. Tại vì sao? Vì nếu người với trong nhãn-thức không thể lấy tướng kẻ oan, người thân và tướng kẻ chẳng oan thân, thì là không tưởng, cũng không buồn vui, vì không phân biệt vậy. Hoặc có người nói: “Trong đây cũng không có tham thảy các phiền não”. Cho nên biết không suy nghĩ; Vì năng tìm cầu thân đời sau, nên gọi là suy nghĩ. “Việc này ra sau sẽ nói” cho nên biết năm thức cũng không suy nghĩ vậy. Lại các người nói năm thức không thể phân biệt. Trong đây làm sao mà có giác quán? Vì suy nghĩ phân biệt trước thô sau tế, nên gọi là giác quán. Lại nếu trong năm thức có giác quán ấy, như nói muốn ta biết ngươi, là gốc đều do nghĩ giác mà sinh. Vậy thời khi giác không muốn, khi biết làm sao có giác? Cho nên phải công nhận chịu năm thức không tưởng, không giác, không quán. Tại vì sao? Vì trong năm thức không có phân biệt là trai hay gái, cũng không phân biệt thọ thảy, thời trong đây phân biệt những gì?
Lại các ngươi nói: “Năm thức thứ lớp sinh ý thức, vì năm thức không phân biệt vậy”. Nếu trong năm thức có phân biệt ấy cần gì thứ lớp sinh ý thức ư? Lại giác quán chẳng phải sinh trong một tâm niệm, vì thô tế trái nhau vậy. Thí như rung linh tiếng đầu là giác, các tiếng tiếp sau là quán. Dụ kia cũng vậy. Nếu trong năm thức có giác quán ấy, cần nói hành nghiệp nó, mà thật chẳng nói được. Nên phải biết tâm và tâm-số pháp thứ lớp mà sinh. Lại si và huệ trái nhau chẳng lẽ cùng có đồng lúc, thì làm sao trong một niệm có cũng biết, cũng chẳng biết. Lại trong một tâm niệm chẳng dung có hai nghi. Tại vì sao? Vì hoặc cây trụi hoặc người chẳng được hiện hành trong một tâm niệm, vì tâm nghiệp không có sức ấy vậy. Lại có người nói trong tâm-số pháp nhớ duyên đi đời quá-khứ. Thì tâm hiện tại làm sao có được? Lại như nghĩ người nầy là bạn tri thức của ta, vì đã từng làm lợi ích cho ta; nghĩ rồi sinh vui. Việc ấy thế nào ở trong một tâm niệm? Lại muốn, chẳng muốn làm sao ở trong một tâm-niệm? Như trong kinh nói: “Nếu các Tỳ-kheo vui muốn Pháp Ta, thời Pháp tăng-trưởng, nếu chẳng vui muốn thời pháp tổn giảm.” Làm sao có được một tâm niệm? lại như trong một tâm niệm có tâm-số pháp thời pháp lầm lộn. Tại vì sao? Vì với trong một tâm có: biết chẳng biết, nghi chẳng nghi, tin chẳng tin, tinh tấn, biếng nhác… Có các lỗi như vậy. Lại tất cả tâm-số nên đều ở trong một tâm, vì do cái gì ngăn, mà khổ vui tham giận thảy chẳng ở trong một tâm? Nếu ngươi bảo vì khổ vui thảy trái nhau nên chẳng ở trong một tâm ấy. Thời biết và chẳng biết thảy cũng trái nhau, nên lẽ ra cũng chẳng ở trong một tâm? Nên không tương-ưng.
Lại trong kinh thất Bồ-Đề phận Phật thứ lớp nói tâm-số pháp: “Nếu Tỳ-kheo tu tứ niệm xứ; bấy giờ mới tu tập niệm Bồ-Đề phận được; tâm ở trong niệm, chọn lựa các pháp; vì chọn lựa các pháp nên sinh tinh-tấn; vì nhờ sức tinh-tấn nên năng nhóm pháp lành, tâm sinh mừng trong sạch; vì tâm mừng nên được khoan-khoái; vì được khoan-khoái nên tâm nhiếp; vì tâm nhiếp nên được định; vì được định nên năng bỏ tham buồn”. Vì bỏ tham buồn, nên mới biết tâm-số thứ lớp mà sinh. Lại trong Bát-đạo-phận cũng thứ lớp nói: “Nếu được chính-kiến, thời từ chính-kiến sinh chính tư-duy cho đến chính-định”. Lại trong kinh thứ lớp Phật bảo A-Nan rằng: “Người trì-giới tâm chẳng nên nguyện muốn không lo buồn, ăn năn; Vì tâm pháp người trì-giới là không lo buồn ăn năn; kẻ không lo, buồn ăn năn chẳng cần nguyện muốn nên tâm được vui tươi; tâm không lo, buồn ăn năn pháp ưng vui tươi; vui tươi thời tâm mừng; tâm mừng thời thân được khoái; thân khoái thời thọ vui; thọ vui thời tâm nhiếp; tâm nhiếp thời được thật trí; được thật-trí thời nhàm lìa; nhàm lìa thời giải thoát”. Nên mới biết tâm pháp thứ lớp mà sinh.
Lại trong kinh Bát-đại-nhân-giác cũng thứ lớp nói: “Nếu Tỳ-kheo tu thiểu dục thời tri-túc; tri-túc thời xa lìa; xa-lìa thời tinh-tấn; tinh-tấn thời chính-nghĩ-nhớ; chính-nghĩ-nhớ thời tâm nhiếp; tâm nhiếp thời được huệ; được huệ thời dứt hí luận”. Lại trong kinh Thất-tịnh cũng thứ lớp nói: “Giới-tịnh là tâm-tịnh; tâm-tịnh là kiến-tịnh; kiến-tịnh là độ-nghi-tịnh; độ-nghi-tịnh là đạo phi-đạo tri-kiến tịnh; đạo phi-đạo tri-kiến tịnh là hành tri-kiến tịnh; hành tri-kiến tịnh là hành-đoạn tri-kiến tịnh”. Lại trong kinh Nhân-duyên cũng thứ lớp nói: “Nhân mắt duyên sắc mới sinh si phần nghĩ nhớ bậy” Trong đây si là vô-minh. Chỗ sở cầu của kẻ si tức là ái; chỗ sở-tác của kẻ-ái là nghiệp. Tất cả là như thế.
Lại trong kinh Đại-nhân cũng thứ lớp nói Ái đứng đầu trong chín pháp: “Nhân ái sinh cầu, nhân cầu nên được, nhân được nên so sánh, nhân so sánh nên sinh nhiễm, nhân nhiễm nên tham đắm, nhân tham đắm nên lấy, nhân lấy sinh lòng tham rít, nhân lòng tham rít nên giữ-gìn, nhân giữ-gìn nên mới có roi gậy tranh kiện là bao nhiêu khổ-não”. Lại trong pháp Tu-Đà-Hoàn cũng thứ lớp nói: “Nên gần gũi người lành được nghe chánh-pháp, vì nghe chánh-pháp nên năng sinh chánh-niệm, nhờ nhân-duyên chánh-niệm năng tu hành Đạo” Lại trong kinh nói: “Nhân nhãn duyên sắc sinh nhãn-thức, ba món hòa hiệp nên gọi là xúc”. Nếu nói tâm và tâm-số pháp sinh cùng một lúc ấy, thời không có ba món hòa hiệp. Nếu nói mỗi mỗi sinh riêng thời có ba món hòa-hiệp. Vì các duyên cớ trên đây nên không có tương-ưng. PHẨM HỮU TƯƠNG-ƯNG THỨ 66
Hỏi: Có pháp tương-ưng. Tại vì sao? Vì như người thấy thọ là Thần, thức là tâm nương vào đó, vì có tương-ưng vậy. Tưởng-ấm thảy cũng như thế. Nếu không tương-ưng, do đâu có thế? Lại trong kinh người nói: “Bởi nhãn duyên sắc sinh nhãn-thức; ba món hòa-hiệp sinh xúc, chung sinh thọ, tưởng, hành thảy”. Với trong pháp này có nhiều thứ tên, chỗ gọi chúng-sinh, trời, người, trai, giá, lớn, nhỏ các tên như thế đều bởi các ấm. Nếu nói tâm và tâm-số pháp thứ lớp sinh ấy. Thời nhân hai ấm. Có người, chẳng nên nhân năm ấm. Tại vì sao? Vì chẳng khác nhân các ấm quá-khứ vị-lai mà gọi là người. Ông nói hiện tại không có năm ấm ấy, làm sao nói nhân nâm ấm gọi trời người thảy. Mà trong đây nhân các ấm, chứ chẳng những hai ấm vậy. Cho nên năm ấm có tên chúng-sinh. Lại trong kinh nói có lới tương-ưng nghĩa là có căn trí tương-ưng tín. Lại trong kinh nói: Xúc tức cùng thọ tưởng tư đồng sinh. Lại nói năm chi nhánh Sơ-thiền. Cũng nói thọ thảy là chỗ thức trụ. Nếu thức không tương ưng làm sao thức trụ trong pháp thọ thảy được? Trụ nầy gọi là trụ-nương dựa. Tại vì sao? Vì chẳng nói thức là chỗ thức trụ vậy. Lại trong knh nói: Tâm cùng pháp nầy đều từ tâm sinh, rồi nương đậu nơi tâm. Lại nói tâm chúng-sinh trong đêm dài bị tham giận thảy làm dơ bẩn. Nếu không tương-ưng làm sao dơ được! Lại vì tâm và tâm-số pháp tính yếu ớt, nên nương nhau mới duyên được, dụ như bó tre nương nhau mới đứng vững. Lại trong kinh nói: “Khi tâm rung động chẳng nên tu ba món giác là: Trạch pháp, tinh-tấn và hỷ, vì lại thêm động vậy. Mà nên tu ba món giác-ý là: Khoái, định và xả, vì ngăn phát động vậy. Còn món Niệm năng khắp đều-hòa . Nếu tâm nhát chìm thời chẳng nên tu ba món giác là: Khoái, định và xả, vì thêm lui chìm vậy. Cần nên tu ba giác là:Trạch-pháp, tinh-tấn và hỷ, vì năng tâm phát khởi vậy. Niệm năng khắp đều-hòa. Lại có Luận-sư nói: Nên đồng thời tu tập pháp trợ Bồ-Đề, chẳng được lìa nhau. Cho nên biết có tương ưng. PHẨM PHI TƯƠNG-ƯNG THỨ 67
Ngươi nói thấy thọ là Thần. Việc nầy chẳng phải lẽ. Kẻ phàm phu si-hoặc, quấy sinh thấy ấy chẳng năng phân biệt đấy là thọ, đây là thức nương ở. Người này, nếu năng phân biệt như thế cũng có thể vào được lý “Không”. Người này thấy tâm tương-tục chẳng phân-biệt được, chỉ lấy lời nói, nên mới nói như vậy, là lời si-hoặc chẳng khá tin vậy. Ngươi nói nhân các ấm nên gọi là người ấy. Là nhân năm ấm nối nhau gọi là người, nên nói là các ấm. Như người đời nói: Người vui, người khổ và người chẳng vui khổ; chẳng phải đồng thời có ba thọ ấy các ấm cũng vậy. Ngươi nói có căn trí tương-ưng tín. Trong kinh cũng nói các việc tương-ưng: như nói hai Tỳ-kheo tương ưng với trong một việc làm. Lại nói óan tương-ưng là khổ, ân-ái chia lìa là khổ. Trong pháp của ngươi sắc không tương-ưng. Mà đây vì thế tục, nên cũng gọi tương-ưng. Trí tín cũng vậy. Tín năng tin vô thường thảy; huệ tùy tâm hiểu rõ, chung thành một việc, nên gọi tương-ưng. Ngươi nói do xúc liền có thọ thảy chúng-sinh. Việc này chẳng phải lẽ. Thế-gian có việc tuy có chút trái nhau, cũng gọi là đồng chung, như nói với đệ-tử chung đi; cũng như nói Vua Đảnh-Sinh, sinh tâm nghĩ, liền đến trên trời. Việc nầy cũng vậy. Kẻ phàm phu khi thức đến cảnh duyên, quyết thứ lớp sinh thức, kế thức sinh tưởng; kế tưởng sinh thọ; kế thọ sinh nghĩ, rồi nghĩ và buồn mừng thảy từ đây sinh tham, giận, si. Cho đến nói liền sinh. Ngươi nói năm chi nhánh Sơ-thiền. Trong bực thiền này có năm chi, chẳng phải nhất thời, như cõi Dục có ba món thọ. Tại vì sao? Vì trước nói pháp, sau nói bực vậy. Lại giác-quán chẳng tương ưng nhau được, trước đã đáp rồi. Ngươi nói thức xứ ấy. Trong kinh nầy nói thức duyên xứ, chẳng nói y xứ. Tại sao biết được? Tức trong kinh này nói thức duyên sắc vui thấm nên mới trụ. Ngươi tuy nói thức duyên thức trụ. Thời lẽ phải có năm thức xứ. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Là vì khi thức chút biết, thức biết việc rồi tâm mới sinh trưởng thảy; rồi trong ấy khởi ái, do nhân duyên khởi ái mới nói là thức-xứ. Vậy nên chẳng nên nói thức là thức xứ. Lại trong thất thức-xứ cũng nói thức là thức-xứ. Lại nên cần suy nghĩ kinh này, đừng chỉ cheo lời nói, như nói tin năng qua sông, là lời nói bất tận. Mà thật nhờ huệ mới qua được. Việc nầy cũng cần như vậy.
Ngươi nói tâm-số pháp nương nơi tâm. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tâm trước biết việc sau sinh tưởng thảy. Lại trong kinh nói: “Thọ thảy nương tâm”. Chứ chẳng phải như bức vẽ nương nơi vách mà gọi là tâm-số nương tâm. Ngươi nói tâm-số nương nhau như bó tre ấy. Cùng các kinh trái nhau. Vì tại sao tâm-số nương tâm, mà tâm chẳng nương tâm-số? Nếu ngươi bảo: Vì tâm sinh trước lớn nên tâm-số pháp phải nương nhờ, thời là thành lập nghĩa của tôi rồi, vì tâm khi sinh không có tâm-số pháp vậy. Ngươi nói vì phiền não nhiễm tâm nên biết có tương-ưng. Đấy không đạo lý gì cả. Nếu tâm trước sạch mà bị tham thảy đến làm nhiễm dơ, tức là tịnh pháp khá dơ, thời hại cho pháp tướng. Cũng như trước có nói tâm tính vốn sạch mà bị khách trần đến làm dơ, vì tâm sạch nên chúng-sinh sạch. Vậy thời chúng-sinh cũng cần tương-ưng? Nếu chúng-sinh chẳng tương-ưng được, thời tham thảy cũng chẳng tương-ưng được. Vì hiện hành trong tâm nối nhau sinh uế thảy tâm dơ các nối nhau, nên mới nói nhiễm-tâm. Như nói từ nhiễm-tâm được giải thoát. Trong tâm nối nhau nầy, nếu tịnh tâm sinh được gọi giải thoát. Việc này cũng vậy. Như mây mù thảy tuy chẳng tương ưng với mặt trời trăng, nhưng cũng có thể làm mờ. Tham thảy cũng vậy, tuy chẳng tương ưng với tâm, nhưng cũng năng làm nhơ bẩn. Lại vì khói mây mù thảy năng che trời trăng nên gọi là mờ. Tham thảy cũng vậy, năng chướng tịnh tâm nên gọi là dơ.
Hỏi: Mây mù trời trăng chỉ trong một giây lát, chớ phiền não với tâm chẳng phải như vậy, nên dụ nầy chẳng nhằm.
Đáp: Vì đồng ngăn ngại vậỵ, việc nầy đã thành, nên không có lỗi, phiền não nầy năng làm dơ tâm tương-tục, nên gọi là nhiễm. Ngươi nói tâm-số từ tâm sinh rồi nương chung nơi tâm ấy. Việc nầy trước là đáp. Ngươi nói tâm và tâm-số pháp tính yếu ớt ấy. Vì niệm niệm diệt, nên gọi yếu ớt, chứ chẳng phải giúp nhau mới năng hành nơi cảnh duyên. Nếu giúp nhau thời lẽ ra được chút dừng trụ lại, mà thật chẳng thấy có. Nếu có sức giúp nhau, cần gì phải tương-ưng? Ngươi nói bảy giác ý hợp nhau. Lời nầy tùy thời nên tu ba giác, chẳng phải trong một niệm. Như Xá-Lợi-Phất nói: “Tôi với bảy giác, tự tại năng vào”. Nếu tâm lay động bây giờ nên tu khoái thảy ba giác. Lại Phật cũng nói giác pháp thức lớp. Người nói đồng thời tu Bồ-Đề phận. Việc này chẳng phải lẽ. Nếu đồng thời tu 37 phẩm thời nên đồng thời tu hai món tín và năm niệm thảy. Nếu ý ngươi bảo tùy được chỗ tu tức là ly-tu. Lại tùy theo kẻ khác tu được như Nhị-thiền thảy, nên gọi là bất ly. Lại đồng thời 37 phẩm thời không đạo lý. Tại vì sao? Vì trong một niệm không thể tu được nhiều pháp như vậy. PHẨM ĐA-TÂM THỨ 68
Hỏi: Đã biết không có riêng tâm-số, cũng không có tương ưng nữa. Nay tâm này là một hay là nhiều? Có người bảo tâm là một, mà tùy sinh nên nhiều?
Đáp: Nhiều tâm. Tại vì sao? Vì biết gọi là tâm, mà sắc biết khác, hương thảy biết khác, cho nên nhiều tâm. Lại nhãn thức sinh khác, nghĩa là đợi ánh sáng, hư không và các duyên, nhĩ thức chẳng phải vậy. Ba thức trần đến mới sinh; ý thức do nhiều duyên sinh. Cho nên biết chẳng phải một. Lại thức biết trần tướng thường như vậy, thời làm sao lại biết món trần khác? Nếu nhiều tâm sinh thời mới có thể biết được nhiều; như tà chính biết khác, hoặc quyết định hoặc nghi ngờ, hoặc lành, chẳng lành, hoặc cũng lành cũng chẳng lành đều biết sai khác. Trong điều lành lại có thiền định giải thoát và bốn vô lượng, thần thông thảy khác. Trong điều chẳng lành cũng có tham dục, giận dữ, ngu si thảy khác. Trong điều lành chẳng lành cũng có khứ lai thảy khác. Có biết năng khởi thân nghiệp khẩu nghiệp. Có khởi oai nghi, hoặc hiệp hoặc ly, bởi thứ lớp duyên tăng thưọng, mỗi mỗi sai khác, nên các tâm cũng khác.
Lại sạch chẳng sạch các món thọ sai khác, nên tâm cũng khác. Lại sở tác sai khác nên tâm có khác. Lại sạch chẳng sạch tâm tính đều khác; nếu tâm tính sạch thời chẳng bị dơ, như ánh sáng mặt nhật vốn trong sạch quyết chẳng dơ được. Nếu tính chẳng sạch chẳng khá khiến sạch, như lông nhỏ của những thú tính đen đều chẳng khá khiến trắng. Mà trong bố thí thảy thật có tịnh tâm. Trong pháp sát-sinh thảy thật có bất tịnh-tâm. Cho nên tâm chẳng phải một. Lại tùy các thọ khổ vui sai khác, nên tâm cũng chẳng phải một; như nói Tỳ-kheo dùng thức để biết việc gì đó, nghĩa là biết khổ vui và chẳng khổ vui. Lại nếu tâm là một, thời một thức nên năng lấy tất cả trần. Mà nói nhiều tâm ấy, là tùy căn sinh thức, vậy nên không thể lấy tất cả trần. Nếu tâm là một, thời vì cái gì ngăn mà chẳng lấy tất cả trần được? Cho nên biết nhiều tâm. Lại pháp khá bị lấy khác, nên năng lấy cũng khác. Như người nói hoặc tự biết tâm mình, làm sao tự biết tự thể được? Như mắt chẳng tự thấy, dao chẳng tự cắt, ngón tay chẳng tự xúc, nên tâm chẳng một. Lại trong kinh Hầu dụ nói: “Thí như khỉ đột bỏ một nhánh liền vịn lấy một nhánh khác”. Tâm cũng như thế, sinh diệt mới luôn. Lại nếu tâm là một, mà nói có cả sáu thức, thời lời nầy bị hoại. Lại trong kinh nói: “Thân hoặc trụ mười năm, mà tâm, niệm niệm sinh diệt”. Lại nói: “Phải quán trụ tâm vô thường”. Tâm này mà nói là trụ, vì nối nhau niệm niệm chẳng dừng. Lại như một nghiệp khá lấy lần thứ hai, thức cũng như vậy, chẳng trùng tại duyên cảnh. Lại như lửa cỏ chẳng dời được đến củi. Như vậy nhãn thức chẳng đen trong tai. Cho nên biết có nhiều tâm. PHẨM NHẤT-TÂM THỨ 69
Hỏi: Tâm là một. Tại vì sao? Như trong kinh nói: “Tâm nầy đêm dài bị tham thảy làm dơ”. Nếu tâm khác áy, chẳng gọi là dơ. Lại trong kinh Anh-lạc nói: “Nếu tâm thường tu tín, giới, thí, văn và huệ, thời chết sinh lên”. Lại trong kinh thiền nói: “Kẻ được sơ-thiền, vì tâm đều hòa mềm mại, nên có thể từ sơ-thiền đến đệ-nhị-thiền”. Lại trong Tâm-phẩm nói “Tâm nầy thường động, như cá mất nước, vậy nên các ngươi phải phá quân ma”. Nên biết tâm một, động ở đây chạy đến kia. Lại trong Tạp-tạng Tỳ-kheo nói: “Trong hang năm cửa, khỉ đột nhảy múa, khỉ chút đứng yên, đừng cho như xưa”. Nên biết một tâm, ở trong hang thân năm căn cửa cựa động, nay tức là xưa, cho nên mới nói: “Đừng cho như xưa”. Lại nói tâm này đi khắp như ánh sáng mặt nhật soi. Kẻ trí năng trị, như móc trị voi. Nên biết tâm là một, chạy rông duyên trong các cảnh. Lại vì vô-ngã, nên tâm mới khởi nghiệp, vì tâm là một nên năng khởi các nghiệp, rồi chịu quả-báo; tâm chết tâm sống, tâm buộc mở, vốn tự chịu lấy. Tâm năng nghĩ nhớ, nên biết tâm một. Lại vì tâm là một, nên năng tu nhóm, nếu niệm niệm diệt, thời không sức nhóm. Lại Phật-Pháp là vô-ngã, vì tâm một nên gọi tướng chúng-sinh. Nếu tâm nhiều thời chẳng phải chúng-sinh. Lại tả thấy hữu biết, chẳng lẽ thấy khác biết khác? Cho nên biết tâm một, tự thấy tự biết, PHẨM PHI ĐA TÂM THỨ 70
Ông tuy nói sắc thảy biết khác. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì nếu tâm là một, làm nhiều thứ nghiệp, như một người ở trong nhà năm hướng, khắp chỗ lấy trần, tức tâm này trụ ở trong mắt, đợi các duyên sáng thảy mới năng thấy sắc. Như tức người nầy, ở chỗ khác đợi bạn cũng tức tâm nầy chỗ biết sai khác. Như tức người này, trước là kẻ biết, sau lại kẻ không biết. Như vậy biết tà lại là biết chính. Như tức người này, trước là kẻ tịnh, sau lại bất-tịnh. Như vậy biết nghi ngờ tức là biết quyết-định. Như tức người nầy, trước là kẻ nghi, sau lại kẻ quyết định. Là tâm bất thiện tức lại là thiện, cũng là vô-ký. Như người này, hoặc nghĩ thiện, hoặc nghĩ bất-thiện, hoặc nghĩ vô-ký. Tức tâm nầy năng tác oai-nghi đến đi sai khác. Như tức người này, làm các hành nghiệp đi đến các oai-nghi. Như vậy tịnh-tâm tức là bất-tịnh; bất-tịnh tức là tịnh. Như tức người này trước là thanh-tịnh, sau lại bất-tịnh. Tức tâm này tương-ưng với vui, sau lại tương-ưng với khổ. Như tức người này trước là người vui, sau lại là người khổ. Cho nên nói tâm một dùng làm nhiều nghiệp. Ông nói một thức chẳng lấy sáu trần nên chẳng phải một tâm. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tôi cho vì căn sai khác nên thức mới có sai khác. Nếu thức trụ trong mắt, chỉ năng lấy sắc mà chẳng lấy trần khác, các thức khác cũng vậy. Ông nói năng lấy và bị lấy khác. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tâm pháp năng biết tự-thế; như đèn tự soi các vật; như người tính toán cũng năng tự toán, và toán cho kẻ khác. Như vậy tâm một năng biết tự-thể, cũng biết kẻ khác. Ông nói dụ con khỉ. Việc nầy chẳng phải lẽ. Như một con khỉ đột bỏ đi một nhánh lại liền vịn lấy một nhánh khác, Tâm cũng vậy bỏ một cảnh duyên, lại lấy một duyên. Bao nhiêu lời ông đã nói: năng tự khởi nghiệp, tự chịu quả báo đều đã chung đáp. Tại vì sao? Vì nếu tâm khác ấy, thời lẽ phải: làm khác,chịu khác, chết khác, và sống khác, có các lỗi như thế. Cho nên biết một tâm. PHẨM PHI NHẤT TÂM THỨ 71
Đáp: Ngươi nói tâm một, bị tham thảy làm dơ luôn. Việc nầy chẳng phải lẽ. Với trong tâm nối nhau luôn thấy là một tướng. Như nói gió chiều qua tức là gió sáng nay. Sông ngày nay tức sông ngày xưa. Đèn mai nay tức là đèn hôm qua. Như cái răng rụng gọi là tái sinh, vì giống nhau ấy nên gọi là tái sinh. Như vậy tâm khác, vì nối nhau luôn, nên bảo là một tâm. Ngươi nói nghĩ nhớ ấy. Người hoặc tự nghĩ bản-tâm, nếu bản tâm đến nay còn nghĩ việc gì? Lại làm sao sẽ đem tâm nầy mà nghĩ tâm này? Không có một trí nhớ nào năng biết tự-thể. Nên chẳng phải một tâm. Ngươi nói tu nhóm. Nếu tâm thường một, tu sao được ích? Nếu có nhiều tâm thời hạ, trung, thượng thứ lớp nối nhau sinh, nên mới có tu nhóm. Ngươi nói tâm là một tướng. Nếu tâm là một tướng, tức đấy là thường, thường tức chân-ngã. Tại vì sao? Vì nay làm sao làm thường một chẳng biến nên mới cho là một. Như rót nước nối nhau luôn, trong tâm lầm cho là một. Như kẻ bệnh mắt thấy đùm tóc cho là một; nếu với việc nầy kẻ có thể phân biệt thời biết kia lại khác. Lại kẻ thâm trí năng biết tâm khác. Tại vì sao? Vì các vị Phạm-Vương thảy ở trong cơn mê-muội thốt nói như vầy: Thân nầy vô thường, mà tâm-thức nầy là thường. Như các vị PHạm-Vương thảy mà hãy còn mê-muội, huống chi người khác mà chẳng mê đắm thường ư? Cho nên phải khéo suy-nghĩ các pháp duyên-sinh, thời nghĩ điên-đảo kia mới dứt. Ngươi nói tả thấy hữu. Vì là trí-lực nên thấy khác biết khác, như người nầy làm thơ nhiều người khác năng biết. Lại như các người đã được là Thánh-nhân năng biết: Những việc vị-lai chưa sinh, chưa có mà Thánh-trí năng biết. Lại việc quá-khứ không nghĩ nhớ, nên biết chưa đến chưa có mà trí-lực năng biết. Việc nầy ra sau sẽ nói rộng. PHẨM MINH ĐA-TÂM THỨ 72
Ngươi nói tâm một dùng làm nhiều nghiệp. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì chính lấy nghĩa rõ biết là tâm. MÀ rõ biết sắc khác rõ biết thanh khác, tâm tâm sao một được? Lại như nghiệp tay cầm bình thời chính tay nầy chẳng cầm được vật khác nữa. Như vậy vì tùy tâm nào lấy sắc, thời chính tâm ấy chẳng còn nghe tiếng được. Lại nhãn thức này lấy nhãn căn làm chỗ nương, lấy sắc làm cảnh duyên; hai món nầy là vô thường niệm niệm sinh điệt, thời nhãn thức làm sao tránh khỏi niệm niệm diệt được? Ví như không cây bóng đâu có được! Như vậy vì nhãn sắc niệm niệm diệt, nên chỗ bị nương để sinh thức cũng niệm niệm diệt; pháp mà niệm niệm diệt không có sức đi. Lại trước đã có các lời đáp trong ý phẩm, nên ý chẳng đi. Tuy ngươi nói thực trụ trong mắt, đợi sáng năng thấy, như tức người nầy năng thấy nghe thảy. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì nay trong Luận này tìm thật nghĩa của pháp, còn người là giả-danh chẳng nên đem làm dụ. Lại nếu cần tìm tướng người, thời tôi nói các ấm là người, cũng nói nhiều biết biết nghi ngờ thảy, khác với nhiều biết quyết định; chẳng nên đem nhiều biết nghi ngờ mà cho là nhiều biết quyết định. Như vậy tất cả. Ngươi nói vì căn sai khác nên thức mới có sai khác. Việc nầy chẳng phải lẽ. Căn là nhân-duyên sinh thức. Nếu thức là một, thời nhiều căn để làm gì? Ngươi đem Đèn, Toán làm dụ. Dụ nầy chẳng đúng. Như vì chẳng soi đốt đèn mà thể đèn chẳng phải chẳng soi, nên chẳng tự soi, nhờ đèn mà thể đèn chẳng phải chẳng soi, nên chẳng tự soi, nhờ đèn phá tối, nhãn-thức được sinh; nhãn-thức sinh rồi cũng năng thấy đèn và bình thảy các vật. Lại người toán số, năng biết sắc mình, cũng biết sắc kẻ khác, nên gọi biết nhau. Ngươi nói nghiệp thảy. Trong lời nạn nghiệp thảy đã đáp rồi, nên nay không lỗi. Lại nếu tâm thường một thời không nghiệp không báo. Tại vì sao? Chính vì tâm và chỗ bị nương là nghiệp. Nếu tâm là một, đâu có nghiệp báo? Buộc mở thảy đều như thế. Lại ngươi nói làm khác chịu khác. Đấy cũng chẳng phải lẽ. Vì các ấm nối nhau luôn, chẳng phải một, chẳng phải khác, mà nói các nghiệp thảy, chứ chẳng phải chân thật nghĩa vậy. Với trong ấm nối nhau mà nói kia đây thảy các danh tự thời không lỗi. Cho nên biết có nhiều tâm. PHẨM THỨC TẠM TRỤ THỨ 73
Hỏi: Đã rõ biết nhiều tâm. Nay các tâm là niệm niệm diệt hay là có trụ chút thời? Có người nói: Tâm trụ chút thời. Tại vì sao? Vì rõ biết sắc thảy vậy. Nếu niệm niệm diệt, thời không thể rõ biết được. Cho nên chẳng phải chẳng trụ. Nếu niệm niệm diệt thời quyết chẳng biết được các pháp sắc thảy. Tại vì sao? Vì như điện sáng tạm trụ còn chẳng rõ biết được, huống là niệm niệm diệt mà rõ được ư? Nay thật có rõ biết nên mới biết các thức chẳng phải niệm niệm diệt. Lại nhãn-thức nương nhãn-căn duyên sắc, hai món nầy chẳng khác, thức cũng chẳng khác. Lại tâm đủ năng lực lấy xanh thảy các màu sắc, nên biết chẳng phải niệm niệm diệt. Nêu ý ông bảo vì nối nhau luôn, nên mới năng quyết rõ ấy. Cũng chẳng phải lẽ. Vì nếu mỗi tâm chẳng năng quyết rõ, thì dù cho nối nhau luôn cũng chẳng rõ biết được. Như một người mù chẳng năng thấy sắc, thời nhiều người mù cũng chẳng thấy gì. Nếu ông lại bảo: Như mỗi mỗi sợi chỉ không thể buộc voi, nhóm lại nhiều sợi thì được. Như vậy một tâm không thể quyết rõ, mà nối nhau thời được ấy. Đấy cũng chẳng phải lẽ. Vì trong mỗi mỗi sợi chỉ đều có chút sức mạnh, hòa hiệp thời có thể. Tâm trong một niệm không có chút sức mạnh rõ biết. Cho nên biết chẳng phải niệm niệm diệt. Lại nên tâm niệm niệm diệt ấy, thời các hành nghiệp quá-khứ vị-lai đều thành vô dụng, vì có chút thời gian ngắn tạm trụ, nên mới năng khiến hữu-dụng. Vậy nên biết tâm chẳng phải niệm niệm diệt. Tuy là vô thường cần có chút trụ. PHẨM THỨC VÔ-TRỤ THỨ 74
Đáp: Ngươi nói vì tâm có rõ biết, nên chẳng phải niệm niệm diệt. Việc nầy chẳng phải lẽ. Vì sức các tướng tại tâm có khả năng quyết rõ, chứ chẳng vì trụ lại vậy. Nếu chẳng phải vậy, thời đối với trong việc tiếng tăm không thể quyết rõ được. Tại vì sao? Vì hiện thấy việc nầy niệm niệm diệt, mà thật có quyết rõ. Cho nên biết chẳng vì tạm trụ mà năng rõ. Lại chính vì biết rõ là tâm, như rõ xanh tức chẳng phải rõ vàng; Vậy nên dù cho tạm trụ đi nữa, rõ xanh cũng không thể rõ biết vàng được. Lại khi rõ xanh khác, khi rõ biết chẳng phải xanh khác. Một pháp chẳng nên hai thời, là pháp với thời cùng lúc, thời với pháp cũng vậy. Lại nhận lấy có hai cách: một là quyết rõ, hai là chẳng quyết rõ. Nếu thức chẳng niệm niệm diệt, thời tất cả nhận lấy đều nên quyết rõ. Tôi cho là tùy thức sinh nhiều nối nhau, thời nhận lấy mới rõ ràng. Nếu ít nối nhau ấy là chẳng rõ. Lại thức lấy trên hoặc chậm hoặc nhanh tâm chẳng nhất định. Ngươi nói nương cảnh duyên chẳng khác. Nghĩa nầy đã thành; sắc niệm niệm diệt, nên nương duyên cũng khác. Ngươi nói tâm đủ năng lực ấy. Thức năng kháp lấy thân-phần, nên gọi là đủ lấy. Vậy nên không có một thức năng khắp lấy. Tại vì sao? Vì chưa lấy đầy đủ tâm đã tùy diệt, thời đâu được có tâm năng lấy tất cả? Ngươi nói tác nghiệp vô dụng. Việc nầy chẳng phải lẽ. Như đèn tuy niệm niệm diệt nhưng có tác dụng soi; các nghiệp và gió tuy niệm niệm diệt, cũng năng lay vật. Thức nầy cũng thế. Lại như đèn thảy tuy niệm niệm diệt, cũng khá lấy được. Thức cũng như thế, tuy niệm niệm diệt, cũng năng lấy được.
Lại nữa, các tâm ý thức đều niệm niệm diệt. Tại vì sao? Vì xanh thảy các màu nhóm hiện tại trước mặt mà năng mau sinh diệt, nên biết chẳng trụ. Lại người hoặc khi sinh lòng tự bảo: một lúc năng lấy các cảnh. Nên thức chẳng trụ. nếu thức tạm trụ, thời người kia không thể sinh tâm nghĩ lầm nầy. Tại vì sao? Vì như giống rễ nối nhau mới có tạm trụ, nên người đối với trong ấy chẳng sinh tâm lầm cho là mộng cây thảy đồng thời mà có. Nên biết thức niệm niệm diệt. Lại như người thấy cái bình liền sinh nhớ bình, vì thấy rồi mới sinh nhớ, nên niệm niệm diệt. Lại nếu các thức chẳng niệm niệm diệt, thời nên một trí cũng tà cũng chính: như thấy lấy người nhận người này cũng tức nhận lấy chẳng phải người. Như vậy lấy nghi ngờ cũng tức lấy, quyết định vậy thời không được. nên biết niệm niệm diệt. Lại các phân biệt, các nhân duyên, nên biết niệm niệm diệt. Lại tướng tiếng tăm nối nhau niệm niệm diệt, với trong đó sinh biết. Cho nên mới biết tâm niệm niệm diệt. PHẨM THỨC CÂU SINH THỨ 75
Hỏi: Đã rõ tâm niệm niệm diệt. Nay các thức là đồng thời sinh hay là thứ lớp sinh? Có ông Luận-sư nói thức đồng thời sinh. Tại vì sao? Vì có người đồng thời năng lấy các trần như người thấy bình cũng nghe tiếng nhạc; mũi ngửi, hoa thơm, miệng cũng ngậm vị thơm; gió quạt xúc thân, cũng suy nghĩ âm điệu khúc hát. Cho nên biết đồng thời năng lấy các trần. Lại nếu một thức ở trong thân năng khắp lấy khổ vui. Vậy thời đem một nhãn thức cũng năng lấy các cây. Việc nầy không thể. Vì làm sao một thức đều biết rễ, cộng, nhánh, lá, hoa và trái? Cho nên biết nhiều thức đồng thời đồng sinh khắp lấy các xúc. Lại trong nhiều thứ màu sắc đồng thời sinh biết, mà biết xanh tức chẳng phải biết vàng. Cho nên biết đồng thời nhiều thức đồng sinh. Lại trong các thân phần năng mau sinh biết, khi lấy một phần tức năng khắp lấy. Lại trong Phật-Pháp không có hữu phần, chẳng khá một thức khắp lấy các phần. Cho nên biết đồng thời năng sinh nhiều thức khắp láy các phần. PHẨM THỨC BẤT CÂU SINH THỨ 76
Đáp: Ngươi nói các thức đồng thời đều sinh. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì thức đợi nghĩ mới sinh. Như trong kinh nói: “Nếu nhãn nhập chẳng hoại, sắc-nhập hiện trong cảnh; mà nếu không nghĩ năng sinh thức, thời nhãn-thức chẳng sinh”. Cho nên biết các thức vì đợi nghĩ vậy, chớ chẳng phải đồng thời sinh. Lại tất cả pháp sinh đều thuộc nghịêp nhân, vì tâm mỗi mỗi sinh nên quả báo địa ngục thảy chẳng phải đồng thời chịu. Nếu biết tâm đồng sinh, lẽ ra đồng chịu quả báo một lúc, mà thật không được. Nên biết các thức chẳng phải một thời sinh. Lại thức năng mau lấy cảnh, như vòng lửa quay tròn, vì quay nhanh nên chẳng thấy ngằn mé. Các thức cũng vậy, vì thời gian trụ ngắn nên chẳng phân-biệt được. Lại các thức nếu đồng thời sinh thời tất cả pháp sinh đều nên một niệm một thời đồng sinh, có gì ngăn ngại? Vậy thời tất cả pháp sinh chẳng cần công hạnh, chẳng cần tạo nghiệp công-đức vẫn được giải thoát? Việc nầy chẳng khá được. Cho nên biết các thức chẳng phải một thời sinh. Lại thân bị tâm khiến, nếu các tâm đồng sinh thời thân bị tan nát, vì các tâm đi lại một thời sinh vậy, mà thật thân chẳng hư. Nên biết các thức chẳng phải một thời sinh. Lại mắt thấy vật bên ngoài như giống, rễ, mộng thảy và sơ thai như giọt sữa đặc, lát thịt mỏng và bào-thai thảy sắc, rồi đến hình hài: thiểu, tráng, lão thứ tự mà có, tâm cũng phải như vậy.
Lại như trong kinh nói: “Nếu khi thọ vui, thời hai thọ kia diệt: chỗ gọi khổ thọ và chẳng khổ vui thọ. Như vậy thảy”. Nếu thức đồng thời sinh thời phải sinh ba món thọ cùng một lúc, mà thật đâu phải vậy. Nên biết các thức chẳng một thời sinh. Lại vì trong một thân một tâm sinh vậy, nên gọi là một người; nếu thức đồng sinh thời một thân phải nhiều người mà thật đâu phải. Vậy nên trong một thân chẳng cùng sinh một lúc. Lại nếu thức cùng sinh, thời phải một thời biết, biết tất cả pháp. Tại vì sao? Vì trong mắt có vô-lượng trăm ngàn thức sinh, cho đến trong ý cũng đều như thế. Như vậy thời phải biết tất cả pháp, mà thật đâu phải. Nên biết các thức chẳng một thời sinh?
Hỏi: Các thức cớ sao cần thứ tự sinh?
Đáp: Vì một thứ lớp duyên, nên mỗi mỗi thức sinh.
Hỏi: Cớ sao chỉ có một thứ lớp duyên?
Đáp: Pháp lẽ như vậy. Như một thân một ý của ngươi, Tôi cũng như vậy, một ý một thứ lớp duyên. Như mộng thuộc hạt giống, cần phải thứ lớp sinh mộng, mà chẳng sinh cộng thảy. như vậy pháp nào tùy thuộc tâm, cần phải kề tâm đó mà sinh, chẳng sinh các pháp khác. Lại tướng thức quyết định vậy, mỗi mỗi khởi diệt thứ lớp thuộc nhau, như tướng lửa và nóng. Vậy nên các thức cần thứ lớp sinh. Thành Thật luận hết quyển 5.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 52.14.100.101 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.