Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
E4. Trở thành thí chủ thanh tịnh
F1. Xa lìa sự bố thí không thanh tịnh
Thiện nam tử! Nếu người nào đối với thân mạng, tài sản, lận tiếc không chịu bố thí thì gọi là người bỏn sẻn. Những người này ôm chặt tâm bỏn sẻn, không biết thương xót, lấy lý do tích giữ của cải để tìm bậc phước điền, thế nhưng, khi đã gặp được thì lại tìm lỗi của họ, tự nghĩ tài sản gây dựng khó nhọc, nếu đem cho người khác mình sẽ bị khổ [nên không chịu bố thí], hoặc cho rằng không có nhân quả,
không có sự bố thí, cũng không có người thọ nhận; lại có người ôm lòng mến tiếc vợ con quyến thuộc, bòn mót tiền của để cầu danh, cho rằng tài sản là bền chắc, đây gọi là những người keo kiết bẩn thỉu. Sự bẩn thỉu này làm nhơ nhớp tâm của chúng sinh; do nhân duyên này, tài vật của người khác, họ còn không dám đem bố thí, huống chi là tài vật của chính họ. Người trí làm việc bố thí không phải vì muốn được báo ơn, không phải vì mong cầu phụng sự, không phải vì bênh vực những người bỏn sẻn tham lam, không phải để được mọi người biết được tiếng tốt, không phải vì sợ hãi, không phải vì cầu cạnh người khác, không phải để tranh hơn thua, không phải vì sợ mất của, không phải vì muốn tăng gia của cải, không phải vì không dùng đến, không phải vì sự quy định của gia tộc, cũng không phải vì muốn người khác gần gũi. Người trí làm việc bố thí vì thương xót chúng sinh, vì muốn làm cho mọi người được sự an lạc, vì muốn
người khác học tập hạnh bố thí, vì muốn thực hành những hạnh mà các bậc thánh nhân đã làm, vì muốn diệt trừ các phiền não, vì muốn đoạn trừ hữu lậu, chứng nhập Niết bàn. Thiện nam tử! Bồ tát làm việc bố thí, xa lìa bốn pháp ác: (1) phá giới, (2) nghi ngờ, (3) tà kiến, (4) bỏn sẻn. Lại xa lìa năm pháp: (1) lúc bố thí không chọn người đức hạnh hay không đức hạnh, (2) lúc bố thí không nói việc thiện ác, (3) lúc bố thí không lựa chọn chủng tính, (4) lúc bố thí không coi thường người xin, (5) lúc bố thí không thóa mạ chửi rủa. Lại có ba việc khiến cho người bố thí không được quả báo thù thắng: (1) mới đầu định cho nhiều, sau lại cho ít, (2) lấy đồ vật hư xấu đem bố thí, (3) sau khi bố thí sinh lòng hối hận. Thiện nam tử! Lại có tám việc khiến cho người bố thí không được quả báo thù thắng: (1) bố thí xong, tìm lỗi người nhận; (2) lúc bố thí, tâm không bình đẳng; (3) bố thí xong, yêu cầu người nhận phục vụ cho mình; (4) bố thí xong, thường tự khen
mình; (5) trước nói không có, sau đó mới bố thí; (6) bố thí xong, thóa mạ chửi rủa; (7) bố thí xong, đòi trả lại gấp đôi; (8) bố thí xong, khởi tâm nghi ngờ [công đức của sự bố thí]. Những người bố thí như vậy ắt sẽ không được gần gũi chư Phật cùng các bậc Hiền thánh.
F2. Chánh thức nói rõ sự bố thí thanh tịnh:
Nếu đem đồ vật đầy đủ sắc, hương, vị, xúc, bố thí cho người khác, gọi là bố thí thanh tịnh; nếu đồ vật bố thí có được đúng như pháp, gọi là bố thí thanh tịnh; nếu biết rõ tài vật là vô thường, không thể giữ lâu, bèn đem bố thí, gọi là bố thí thanh tịnh; nếu vì muốn diệt trừ phiền não mà bố thí, gọi là bố thí thanh tịnh; nếu vì muốn thanh tịnh tự tâm mà bố thí, gọi là bố thí thanh tịnh; nếu có thể quán sát ai là người bố thí, ai là người nhận, bố thí vật gì, do nhân duyên gì mà bố thí, sự bố thí tức là mười hai nhập, người nhận, người cho, vật bố
thí cũng tức là mười hai nhập, nếu có thể quán sát như vậy, gọi là bố thí thanh tịnh. Lúc bố thí, đối với các bậc phước điền sinh lòng hoan hỷ, giống như các bậc phước điền nguyện cầu công đức, ta cũng phải nguyện cầu công đức không ngừng nghỉ. Bố thí cho vợ con, quyến thuộc, tôi tớ nên sinh lòng thương xót; bố thí cho người nghèo khốn vì muốn diệt trừ sự khổ não cho họ. Lúc bố thí không cầu quả báo thế gian, bố thí để diệt trừ sự kiêu mạn, bố thí với tâm nhu hòa, bố thí để được lìa ba cõi, bố thí vì cầu mong sự giải thoát vô thượng, bố thí vì đã quán sát thâm sâu đường sinh tử nhiều tội lỗi, bố thí mà không màng đối tượng có phải là phước điền hay không, người nào có thể bố thí như vậy, nên biết phước báo sẽ không rời người đó, giống như trâu nghé quấn quít bên trâu mẹ.
F3. So lường phước đức của sự bố thí:
Nếu có tâm mong cầu quả báo của sự bố thí thì chẳng khác gì sự đổi chác ở chợ búa. Giống như vì thân mạng mà cầy cấy trồng trọt sinh sống, tùy mỗi loại hạt giống, mà được cây trái khác nhau. Người bố thí cũng giống như thế, tùy vào vật bố thí và người nhận mà được phước báo khác nhau. Nếu như người nhận sau khi thọ nhận sự bố thí tăng trưởng thọ mạng, nhan sắc, sức lực, an vui, biện tài, thì người bố thí cũng được năm quả báo như thế. Bố thí cho súc sinh được phước gấp trăm lần; bố thí cho người phá giới được phước gấp ngàn lần; bố thí cho người trì giới được phước gấp mười vạn lần; bố thí cho ngoại đạo đã ly dục được phước gấp trăm vạn lần; bố thí cho bậc hướng đạo được phước gấp ngàn ức lần; bố thí cho bậc Tu đà hoàn được phước vô lượng; bố thí cho bậc Tư đà hàm hướng được phước vô lượng, nhẫn đến bố thí cho Đức Phật cũng được vô lượng phước. Thiện nam tử! Nay ta vì ông mà phân biệt các loại phước điền nên nói rằng
bố thí được phước gấp trăm lần, nhẫn đến được phước vô lượng. Nếu có thể chí tâm phát lòng thương xót rộng lớn, bố thí cho súc sinh, hoặc chuyên tâm cung kính cúng dường chư Phật, hai phước báo này bằng nhau không khác. Nói được phước gấp trăm lần nghĩa là đem thọ mạng, nhan sắc, sức lực, an vui, biện tài, bố thí cho người xin, thì sau đó người cho sẽ được thọ mạng, nhan sắc, sức lực, an vui, biện tài, mỗi mỗi đều gấp trăm lần, nhẫn đến vô lượng cũng giống như vậy. Cho nên trong khế kinh, ta có nói: “Ta bố thí cho ông Xá Lợi Phất, ông Xá Lợi Phất cũng bố thí cho ta, thế nhưng ta được nhiều phước hơn ông ấy.”
F4. Bố thí không bị ác báo:
Có người nói: “Nếu người nhận làm ác, người cho sẽ bị tội.” Điều này không đúng. Vì sao? Người cho, lúc bố thí, vì muốn trừ diệt sự khổ não cho người xin,
chứ không phải muốn tạo tội, vì thế người cho phải được phước báo! Người nhận dùng của bố thí làm ác, tự họ tạo tội, không can hệ gì đến người cho. Người bố thí, nếu dùng những vật quý báu để bố thí, sau đó sẽ được quả báo dung mạo trang nghiêm, mọi người đều ưa mến, tiếng tốt đồn xa, mọi sự mong cầu đều như ý, sinh vào dòng dõi cao quý, không thể gọi đây là ác báo, tại sao lại nói thí chủ bị tội? Người cho sau khi bố thí, vui vẻ không tiếc nuối, gần gũi người lành, giàu sang tự tại, sinh vào gia đình quý tộc, được sự vui người, trời, nhẫn đến sự vui vô thượng, lìa xa tất cả mọi sự trói buộc của phiền não. Chỉ có người bố thí mới có được phước báo như vậy, tại sao lại cho rằng bị quả báo xấu? Thí chủ nếu có thể tự tay mình bố thí, sẽ được sinh vào nhà quyền quý, gặp thiện tri thức, tiền của dư dật, quyến thuộc đông đảo, của cải mặc sức tiêu dùng, hay đem bố thí, tất cả chúng sinh đều vui mừng mong được thấy mặt, thấy rồi cung
kính tôn trọng, ca ngợi. Người bố thí được quả báo tốt đẹp như vậy, sao lại cho là bị thọ quả báo xấu? Thí chủ nếu đem của cải thanh tịnh bố thí, nhờ nhân duyên đó của cải, kho đụn tràn đầy, sinh vào nhà quyền quý, quyến thuộc nhiều vô lượng, thân không bệnh khổ, tâm không sợ hãi lo buồn, tất cả tài sản sở hữu, chánh quyền, trộm cướp, lửa cháy, nước trôi, đều không làm tổn hoại. Giả sử có mất mát của cải, cũng không sầu não. Trong vô lượng đời thân tâm an lạc. Tại sao cho rằng thọ quả báo xấu? Nếu như lúc chưa bố thí phát lòng tin tưởng vào công đức của sự bố thí, lúc đang bố thí trong lòng hoan hỷ, sau khi bố thí trong lòng an lạc, thì lúc đang tìm cầu tài vật để bố thí, lúc giữ gìn tài vật đợi bố thí, lúc ban bố tài vật, đều không cảm thấy khổ não. Nếu dùng y phục bố thí, sẽ được dung mạo trang nghiêm; nếu dùng thức ăn bố thí, sẽ được sức mạnh vô địch; nếu dùng đèn đuốc bố thí, sẽ được đôi mắt sáng ngời; nếu dùng xe cộ bố thí, sẽ được
thân thể khoẻ mạnh; nếu dùng nhà cửa bố thí, sẽ được vật dụng dư xài. Người bố thí sẽ được quả lành như thế, tại sao cho rằng bị quả báo xấu?
F5. Quả báo sai biệt
Lại nữa, người bố thí cúng dường cho Đức Phật xong, Ngài thọ dụng hay không thọ dụng, quả báo bố thí đã được quyết định. Bố thí cho người khác và bố thí cho chúng tăng có hai loại phước báo: (1) từ sự thọ dụng của người nhận phát sinh, (2) từ công đức của người nhận phát sinh. Vì sao? Lúc bố thí, thí chủ tự trừ diệt được sự bỏn sẻn của chính mình; lúc người nhận thọ dụng, trừ diệt được sự bỏn sẻn của thí chủ, cho nên khế kinh có nói: “Từ sự thọ dụng của người nhận phát sinh phước báo cho thí chủ.” Lại từ phương diện thọ dụng mà nói, nếu người nhận là người tại gia đem bố thí cho người khác, thí chủ cũng được phước bằng như trước; nhưng nếu
người nhận là người xuất gia, nhận xong lại đem bố thí cho vị xuất gia khác thì phước báo của thí chủ càng lúc càng tăng trưởng. Nếu như khi bố thí không cầu quả báo thế gian, hoặc không vì lý do tăng trưởng phiền não mà bố thí thì sự bố thí sẽ được quả báo thanh tịnh vô thượng, tức là Niết bàn. Nếu có người mỗi ngày lập thệ nguyện: “Trước sẽ bố thí thức ăn cho người khác, sau đó mới thọ dụng. Nếu như vi phạm lời nguyện sẽ đền tài vật cho Phật.” Khi vi phạm, nên sinh lòng hổ thẹn. Nếu như không vi phạm lời nguyện thì đây tức là nhân duyên phát sinh trí tuệ vi diệu. Bố thí như vậy là sự bố thí thù thắng nhất. Người bố thí đó được gọi là vị thí chủ bậc thượng. Nếu như bố thí thuận theo ý của người xin thì trong vô lượng đời vị lai thí chủ sẽ được tất cả sở cầu như ý. Nếu như tâm ý, tài vật, phước điền đều thanh tịnh thì vị thí chủ sẽ được vô lượng quả báo lành. Nếu như đem lòng lo lắng, vui vẻ cung cấp quần áo, thức ăn cho vợ
con, tôi tớ, thí chủ trong tương lai sẽ được vô lượng phước đức. Nếu thấy vườn ruộng, hoặc trong kho có nhiều chuột, hay chim chóc ăn phá lúa gạo, nên khởi tâm thương xót, nghĩ rằng: “Chim chuột này nhờ ta mà được sống.” Nghĩ xong vui mừng, không còn ý tưởng muốn tàn hại chúng. Nên biết người đó được phước vô lượng. Nếu vì tự thân mà may sắm quần áo, chuỗi ngọc anh lạc, đồ trang sức, các loại dụng cụ. Sắm sửa xong, lòng sinh vui mừng, nếu chưa kịp sử dụng mà lại đem bố thí cho người khác, thì người đó về sau tất cả sở cầu đều được như ý. Nếu có người cho rằng: “Lìa sự bố thí được quả báo lành.” Đây là điều không thể có. Không tài vật, hoặc không người nhận, hoặc không xả bỏ tâm bỏn sẻn mà thành sự bố thí thì đây là điều không thể có. Nếu như có người, người khác chưa xin mà đã bố thí, hoặc tự mình đang thiếu thốn mà bố thí, hoặc xin ít mà bố thí nhiều, xin đồ xấu mà bố thí đồ tốt, hoặc chỉ cho người xin cách cầu xin, hoặc
tự mình đến nơi người xin mà bố thí, nên biết người đó trong đời vị lai sẽ được nhiều kho báu, những đồ vật tầm thường đều biến thành trân bảo. Nếu như vì bởn cợt đối phương mà bố thí, hoặc bố thí cho người không phải phước điền, hoặc tuy bố thí mà không tin nhân quả, đây không gọi là bố thí. Nếu như có người chỉ thích bố thí riêng cho bậc phước điền lớn, không thích bố thí cho người tầm thường, nên biết người ấy đời sau khi được quả báo, sẽ không còn ưa thích bố thí. Nếu có người sau khi bố thí, sinh lòng hối hận, hoặc cướp đoạt vật của người khác đem bố thí, người đó đời sau, tuy được tài vật, thường bị tiêu hao, không cất giữ được. Nếu làm khổ người thân để lấy vật đem bố thí thì người đó đời sau tuy được quả báo lớn, nhưng thường bị bệnh khổ. Nếu như không biết cúng dường cha mẹ, lại còn bức não vợ con, làm tôi tớ khốn khổ, để lấy của đem bố thí thì đây gọi là người ác, giả danh bố thí, không phải là sự bố thí có
ý nghĩa. Người bố thí đó là người không lòng thương xót, là người vô ơn, trong đời vị lai tuy được tiền tài trân bảo, nhưng thường hao tổn, tán thất, không thể tiêu dùng, thân nhiều bệnh khổ. Nếu có người dùng tiền tài bố thí đúng pháp, trong đời vị lai sẽ được vô lượng phước, có tiền của tiêu dùng. Nếu như bố thí tiền tài không đúng pháp, người đó đời sau tuy được quả báo, phải nương nhờ vào người khác mới được. Nếu như người kia mạng chung thì người bố thí đó trở lại nghèo cùng.
F6. Nêu rõ tài thí và pháp thí
Thiện nam tử! Bố thí có hai loại, tài thí và pháp thí. Tài thí là bậc hạ, pháp thí là bậc thượng. Thế nào là pháp thí? Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di có thể dạy người khác đầy đủ tín tâm, trì giới, bố thí, đa văn, trí tuệ; hoặc đem giấy mực cho người khác biên chép, hoặc tự mình biên chép kinh điển của Như Lai,
sau đó bố thí cho người khác đọc tụng, đây gọi là pháp thí. Người bố thí pháp, trong vô lượng đời sau sẽ được dung mạo đoan trang. Vì sao? Chúng sinh nghe pháp, đoạn trừ tâm sân, do nhân duyên này người bố thí trong vô lượng đời sau được dung mạo đoan trang. Lại nữa, chúng sinh nghe pháp sinh lòng từ không sát hại, do nhân duyên này người bố thí trong vô lượng đời sau được tuổi thọ dài lâu. Lại nữa, chúng sinh nghe pháp, không trộm cướp người khác, do nhân duyên này thí chủ trong vô lượng đời sau được nhiều của cải. Lại nữa, chúng sinh nghe pháp sinh lòng ưa thích bố thí, do nhân duyên này thí chủ trong vô lượng đời sau được sức khoẻ dồi dào. Lại nữa, chúng sinh nghe pháp, đoạn trừ sự buông lung, do nhân duyên này thí chủ trong vô lượng đời sau thân được an lạc. Lại nữa, chúng sinh nghe pháp, đoạn trừ tâm ngu si, do nhân duyên này thí chủ trong vô lượng đời sau được lòng tin sáng tỏ. Các trường hợp trì
giới, bố thí, đa văn, trí tuệ, cũng giống như vậy. Do đây, pháp thí thù thắng hơn tài thí.
F7. Nêu rõ sự bố thí cho quỷ thần
Hoặc có người cho rằng: “Con tu pháp lành, cha làm việc ác. Nhân vì người con tu thiện, người cha sẽ không bị đọa vào ba đường ác.” Điều này không đúng. Vì sao? Vì nghiệp thân khẩu ý của mỗi người đều khác nhau. Nếu như người cha sau khi mất đọa vào ngạ quỷ, người con vì cha mà tu phước, thì người cha sẽ hưởng được một phần; còn nếu người cha sinh vào cõi trời thì sẽ không còn nghĩ đến những vật nhân gian. Vì sao? Vì cõi trời có sẵn những vật trân bảo thù thắng. Nếu như người cha đọa vào địa ngục, thân bị thọ khổ, không còn rảnh để tưởng nghĩ đến vật nhân gian, cho nên không được phần. Đọa vào súc sinh hoặc sinh cõi người cũng giống như vậy. Nếu hỏi rằng ngạ quỷ vì nhân duyên gì mà được? Nên
biết, vì người mạng chung bổn tính tham lam bỏn sẻn cho nên đọa vào ngạ quỷ. Sau khi làm ngạ quỷ, tâm thường hối hận lỗi lầm xưa, tưởng nghĩ mong được cho nên hoạch được phước báo do sự hồi hướng. Giả như người tu phước đó thác sinh vào cõi khác, còn tất cả quyến thuộc đều bị sinh vào ngạ quỷ thì tất cả quyến thuộc này sẽ được phước báo do người tu phước hồi hướng. Vì thế, người trí phải nên vì loài ngạ quỷ mà siêng tu phước đức. Nếu đem quần áo, thức ăn, phòng xá, ngọa cụ, các vật cần dùng, bố thí sa môn, bà la môn, những khất sĩ bần cùng, v.v..., rồi dùng công đức này chú nguyện cho loài ngạ quỷ được phước báo thì những kẻ đọa vào ngạ quỷ nhờ thế lực của nhân duyên bố thí chú nguyện này sẽ được thế lực lớn. Thí chủ bố thí bao nhiêu thì họ được hưởng bấy nhiêu phước báo. Vì sao? Vì chỗ thác sinh là như thế. Thức ăn của loài ngạ quỷ không đồng, hoặc ăn mủ, hoặc ăn phẩn, hoặc ăn máu dơ, đồ thổ mửa, khạc nhổ.
Nếu như được sự bố thí vừa nói trên thì tất cả món ăn của họ sẽ biến thành màu sắc xinh đẹp, mùi vị thơm tho. Nếu đem nước cặn rửa bát bố thí cho những loài có thể dùng được nhưng lại bị người khác ngăn chặn khiến cho những loài kia rốt cuộc không được ăn, tuy thế, người bố thí vẫn được phước báo. Vì sao? Vì người bố thí có lòng thương xót. Nếu như cúng tế quỷ thần thì ai là người thọ hưởng? Tùy vào nơi chốn của chỗ thờ tự đó. Nếu như gần rừng thì thọ thần hưởng; gần sông, gần suối, gần giếng, rừng núi, ụ đất, v.v..., cũng giống như vậy. Phần người cúng tế cũng được phước đức. Vì sao? Vì làm cho người thọ nhận sinh lòng vui mừng. Phước của việc cúng tế có thể bảo hộ thân mạng, tài sản. Nếu cho rằng sát sinh để tế tự sẽ được phước. Điều này không đúng! Vì sao? Chưa từng thấy người thế gian trồng hạt y lan mà lại sinh cây chiên đàn, hoặc giết hại sinh mạng của chúng sinh mà lại được phước đức. Nếu như muốn cúng tế nên
dùng hương, hoa, sữa, lạc, tô, thuốc men. Có ba thời gian cầu phước cho người mất: tháng hai mùa xuân, tháng năm mùa hạ, và tháng chín mùa thu.
F8. Nêu rõ ý nghĩa của sự bố thí
Nếu đem phòng xá, ngọa cụ, thuốc men, vườn, rừng, ao, giếng, trâu, dê, voi, ngựa, các loại đồ dùng bố thí cho người khác. Giả sử sau khi bố thí thì mạng chung, tùy theo những đồ vật bố thí được sử dụng lâu hay mau mà phước báo của người bố thí tùy đó mà sinh trưởng. Phước báo theo bên người đó như bóng theo hình. Hoặc có người cho rằng: “Sau khi mạng chung, phước báo của sự bố thí gián đoạn.” Điều này không đúng. Vì sao? Chỉ có hai lúc, hoặc vật bố thí bị hư hoại, hoặc người nhận không còn xử dụng thì phước báo của sự bố thí mới gián đoạn, chứ không phải lúc người bố thí mạng chung. Nếu người xuất gia bắt chước người tại gia,
vào những ngày lễ, bày tiệc ăn uống vui mừng, đây gọi là bắt chước thế gian, chẳng phải chân thật lợi ích. Nếu thường ưa thích đem đồ vật trong nhà, dù tốt hay xấu, ra bố thí, đây gọi là bố thí tất cả. Nếu đem thân thể, vợ con, những vật quí báu bố thí cho người khác thì gọi là sự bố thí không thể nghĩ bàn. Nếu bố thí cho mười một loại người như sau: (1) người ác, (2) người hủy giới, (3) kẻ oán thù, (4) người không biết ơn nghĩa, (5) người không tin nhân quả, (6) người cưỡng bức cầu đòi, (7) người có thế lực lớn, (8) người hung hãn chửi rủa, (9) người nhận bố thí rồi sinh sân, (10) người giả bộ đạo đức, (11) người giàu sang quyền quí, thì gọi là sự bố thí không thể nghĩ bàn. Thiện nam tử! Tất cả sự bố thí có ba căn bổn: (1) bố thí cho người nghèo vì lòng thương xót, (2) bố thí cho kẻ oán thù không cần đền ơn, (3) bố thí cho bậc phước đức, tâm vui mừng kính trọng. Thiện nam tử! Nếu có người giàu có, trong vô lượng đời cúng dường Tam bảo,
tuy được vô lượng phước đức, không bằng khuyên người khác cùng mình làm việc thiện. Nếu có người cho rằng vật bố thí của mình ít ỏi, hư xấu, bèn hổ thẹn không chịu đem bố thí thì người đó đang làm tăng trưởng sự nghèo khổ của chính mình ở đời sau. Hai người cùng làm việc bố thí, nếu tài vật, bậc phước điền, tâm bố thí bằng nhau, thì hai người sẽ được quả báo bằng nhau không khác. Nếu tài vật và tâm bố thí như nhau, người nào bố thí cho bậc phước điền thù thắng, thì được phước báo thù thắng. Nếu phước điền và tâm bố thí đều là bậc hạ, người nào bố thí tài vật thù thắng sẽ được quả báo thù thắng. Nếu như phước điền, tài vật đều là bậc hạ, người nào có tâm bố thí thù thắng sẽ được quả báo thù thắng. Nếu như phước điền và tài vật đều thù thắng, người nào tâm bố thí bậc hạ sẽ được quả báo không bằng người kia.
F9. Bố thí rốt ráo
Thiện nam tử! Người trí lúc bố thí không cầu quả báo. Vì sao? Biết chắc gieo nhân ắt sẽ có quả. Nếu người không có tâm từ, không biết ơn nghĩa, không ham thích công đức của các bậc thánh nhân, luyến tiếc tài sản, thân mạng, lòng tham mạnh mẽ, những người như vậy không thể bố thí. Người trí quán sát tất cả chúng sinh, nếu có người nào, lúc cầu tài sản, không tiếc thân mạng, sau khi được tài vật lại có thể đem bố thí cho người khác, nên biết người đó có thể hy sinh thân mạng. Người bỏn sẻn không thể bố thí tài sản, nên biết người đó cũng tham tiếc thân mạng. Người nào có thể xả bỏ thân mạng, cầu được tài vật để đem bố thí, nên biết người đó là đại thí chủ. Nếu người được tài sản, tham tiếc không bố thí, nên biết người đó là hạt giống bần cùng trong đời vị lai. Cho nên trong khế kinh, ta có nói: “Trong bốn châu thiên hạ, người châu Diêm phù đề có ba việc thù thắng: (1) dũng kiện, (2) có
tâm ghi nhớ, (3) hạnh thanh tịnh.” Không thấy quả báo mà biết tu nhân; không tiếc thân mạng cầu được tài vật, phá trừ tâm bỏn sẻn, đem tài sản bố thí, sau khi bố thí tâm không hối tiếc, lại có thể phân biệt phước điền và không phải phước điền. Đây gọi là dũng kiện. Thiện nam tử! Bố thí xong sinh lòng hối tiếc là do ba việc: (1) tham tiếc tài sản, (2) nghe theo tà kiến, (3) thấy lỗi của người nhận. Lại có ba việc: (1) sợ người khác quở trách, (2) sợ hết của sẽ bị khổ, (3) thấy người khác sau khi bố thí trở nên nghèo cùng khổ não.
Thiện nam tử! Người trí đối với việc bố thí không bao giờ sinh tâm hối hận. Lại có ba việc làm cho không sinh tâm hối hận: (1) sáng suốt tin nhân quả, (2) gần gũi bạn lành, (3) không tham tiếc tài sản. Tin nhân quả lại có hai việc: (1) tin sâu, (2) trí tuệ. Không tham tiếc tài sản cũng có hai việc: (1) quán vô thường, (2) không được tự tại. Thiện nam tử! Người bố thí nếu có thể
quán sát, thực hành việc bố thí như thế, nên biết người đó có thể thực hành đầy đủ bố thí ba la mật. Cho nên trước đây ta đã nói: “Có bố thí không phải ba la mật, có ba la mật không phải bố thí, có bố thí vừa là ba la mật, có không phải bố thí vừa không phải ba la mật.”
F10. Trước tiên giáo hóa, sau đó bố thí
Thiện nam tử! Người trí có ba hạng: (1) có thể xả bỏ vật bên ngoài, (2) có thể bố thí thân thể, (3) sau khi bố thí thân mạng tài sản, lại còn giáo hóa chúng sinh. Làm thế nào để giáo hóa? Thấy người nghèo khổ, trước tiên nên hỏi họ: “Ông có thể quy y Tam bảo không? Có thể thọ trai giới không?” Nếu trả lời có thể, trước tiên truyền thọ Tam quy y và trai giới, sau đó bố thí tài vật. Nếu trả lời không thể, nên nói với họ: “Nếu như không thể, ông có thể lập lại theo tôi rằng các pháp là vô thường, vô ngã, Niết bàn tịch tĩnh hay
không?” Nếu trả lời có thể, liền dạy họ nói, sau đó bố thí. Nếu họ trả lời chỉ có thể nói hai việc, mà không thể nói các pháp vô ngã, thì nên nói với họ: “Nếu ông không thể nói các pháp vô ngã, ông có thể nói các pháp không có tự tính hay không?” Nếu trả lời có thể, dạy họ nói xong, sau đó bố thí. Nếu như có thể trước tiên giáo hóa, kế đến hành bố thí, người đó sẽ được gọi là bậc đại thí chủ. Thiện nam tử! Nếu như có thể giáo hóa chúng sinh như thế, nhẫn đến không phân biệt người thân kẻ thù, người đó được gọi là bậc đại thí chủ. Thiện nam tử! Người trí lúc có tài vật để bố thí, phải nên tu tập hạnh bố thí như trên. Nếu như không có tài vật, nên chỉ bảo cho những người có tài vật tu hạnh bố thí. Nếu như các vị thí chủ đó, trước đã biết pháp này, không cần phải chỉ bảo thì tự mình nên đến giúp đỡ họ làm việc bố thí.
F11. Bố thí thuốc men cho người bệnh
Nếu người nghèo không tài vật, nên học các phương thuốc cùng các loại chú thuật, tìm cầu những phương thuốc thông thường, đem bố thí cho những người cần dùng. Hết lòng khám bệnh, chăm sóc, trị liệu. Khuyến khích người có của, bào chế các thứ thuốc, hoặc thuốc viên, thuốc bột, thuốc nước, v.v... Sau khi biết rõ phương pháp trị bệnh, đi khắp nơi để khám bệnh, tùy phương chẩn mạch, tìm rõ bệnh tình, sau đó tùy theo căn bệnh mà trị liệu. Trong lúc trị liệu, khéo biết phương tiện, tuy gặp hoàn cảnh thiếu vệ sinh cũng không sinh tâm nhờm gớm. Không những biết rõ bệnh tình tăng giảm, lại còn biết rõ loại thuốc nào, thức ăn nào có thể làm tăng thêm hoặc giảm bớt căn bệnh. Nếu như người bệnh đòi ăn những thứ thức ăn, hoặc uống những thứ thuốc làm tăng bệnh, thì phải nên khéo léo giảng giải cho họ, không nên cấm đoán. Nếu như cấm đoán, có thể làm cho họ tăng thêm đau khổ. Nếu như biết chắc người bệnh sẽ chết, không
nên nói thẳng với họ, mà nên dạy họ quy y Tam bảo, niệm Phật Pháp Tăng, siêng tu cúng dường. Nên nói với họ bệnh khổ là do nhân duyên không lành đời trước, cho nên bị khổ báo, nay phải nên sám hối. Nếu người bệnh nghe xong, sinh lòng sân hận, chửi rủa, nhục mạ, nên im lặng không đối đáp, cũng không xả bỏ họ. Mặc dù chăm sóc trị liệu cho họ, cẩn thận không nên trách cứ họ vô ơn. Sau khi họ lành bệnh, vẫn đến thăm nom, sợ sau đó họ lao nhọc, bệnh sẽ tái phát. Nếu thấy họ bình phục sức khoẻ như xưa, nên sinh lòng vui mừng, không cầu báo ơn. Nếu như người bệnh mạng chung, nên lo việc an táng. Thuyết pháp an ủi những người quen biết và thân quyến của họ. Không nên đem thức ăn hoặc thuốc men có hại cho sức khoẻ bố thí cho người khác. Nếu người bệnh sau khi lành mạnh vui mừng đem đồ vật đền ơn cũng nên thâu nhận, sau đó đem bố thí cho người nghèo khổ khác. Nếu có thể khám bệnh, chăm sóc, trị liệu như thế, nên biết
người đó là đại thí chủ, chân thật cầu đạo Vô thượng Bồ đề. Thiện nam tử! Người trí lúc cầu Vô thượng Bồ đề, nếu có của cải dư dật, cũng nên học tập phương pháp trị bệnh, tạo lập phòng khám bệnh, cung cấp đầy đủ đồ cần dùng, thực phẩm, thuốc men, v.v..., cho bệnh nhân.
F12. Nói rộng phạm vi bố thí
Đường xá lồi lõm, chật hẹp, nên sửa chữa cho bằng phẳng, rộng rãi; trừ dẹp chông gai, đá sỏi, phẩn uế, nhơ nhớp. Chỗ hiểm trở nếu cần dùng ván, thang, cây, dây thừng, thảy đều bố thí. Cạnh đường lộ nơi chốn hoang vu, nên đào giếng, trồng cây ăn trái, sửa sang khe lạch. Nơi không cây cối, vun trồng cây cối. Vệ đường nơi các người gánh gồng nghỉ chân, vì họ đắp những chỗ ngồi. Xây tạo trạm nghỉ ngơi, trang bị đầy đủ các vật cần dùng như bình, bồn, đèn đuốc, giường chiếu. Nơi có các dòng nước dơ chảy qua, làm cầu bắc
ngang. Nơi các bến đò, bến sông, làm cầu, bố thí thuyền bè. Những người không thể tự qua sông lạch, tự mình đến đưa họ qua. Đối với người già, trẻ con, bệnh hoạn, ốm yếu, tự tay dẫn dắt, giúp họ băng qua sông lạch. Bên cạnh đường, xây tháp, trồng hoa, cây ăn trái. Thấy người sợ hãi trốn chạy, giúp họ bằng cách che dấu, sau đó đem của cải, dùng lời khéo léo khuyên người bắt tha mạng. Nếu thấy người đến gần chỗ nguy hiểm, liền đến đón đưa, giúp cho qua khỏi. Nếu thấy có người không nhà cửa, linh đinh lưu lạc, tùy nghi bố thí, dùng lời an ủi. Người đi đường xa mệt mỏi, giúp họ tắm rửa, xoa bóp tay chân, cho họ giường ghế, nếu không giường ghế, lấy cỏ trải mà làm chỗ nghỉ ngơi. Lúc nóng nực, bố thí quạt và quần áo mát; lúc lạnh, bố thí lửa và quần áo ấm. Hoặc tự mình bố thí, hoặc chỉ bảo người khác bố thí. Đối với người mua bán, khuyên nhắc họ nên đối xử bình đẳng, không vì tham chút lợi mà dối gạt lẫn nhau. Thấy người đi đường, chỉ dẫn
đường nào nên đi, đường nào không nên đi. Đường nên đi là đường có nước cỏ, không có giặc cướp. Đường không nên đi là chỗ có nhiều hoạn nạn. Thấy người giày, dép, quần áo, bình bát cũ rách hư tổn, giúp cho họ vá may, giặt nhuộm, sửa chữa. Nếu có nạn chuột, rắn, chấy rận, trùng độc, đều nên trừ dẹp. Bố thí vật cọ lưng, đồ cắt móng tay, móc tai; vá may, giặt giũ đồ vật của chúng tăng, nghĩa là tọa cụ, y áo, v.v... Trong nhà xí để sẵn nước sạch, xà phòng hay tro đất sạch, v.v... Nếu tự mình may y phục, làm bình bát, trước tiên nên dâng cúng Phật, sau đó dâng cho cha mẹ, sư trưởng, Hòa thượng thọ dụng trước, sau đó mới tới phiên mình. Nếu như trước đã cúng Phật y, bát, v.v..., có thể dùng hoa, hương chuộc lại, cúng cho người khác dùng. Các thức ăn uống, trước tiên phải nên cúng dường sa môn, phạm chí, rồi sau mới ăn. Thấy có người ở xa đến, nhỏ nhẹ hỏi han, cung cấp cho họ nước sạch tắm rửa, sau đó đưa dầu xoa chân, hương, hoa,
tăm xỉa răng, xà phòng, tro đất sạch, dầu thơm, nước thơm, mật tỳ bát la xá lặc, áo lót. Sau khi người đó xoa dầu, tắm rửa xong, lại đem các loại hương hoa, thuốc hoàn, thuốc tán, thức ăn, nước trái cây, tùy theo chỗ cần dùng mà bố thí. Lại bố thí dao cạo râu tóc, đảy lọc nước, kim, chỉ, y nạp, giấy, bút, mực, v.v... Nếu không thể thường thường bố thí thì nên bố thí vào những ngày thọ Bát quan trai. Nếu thấy người mù, tự đến cầm tay, bố thí gậy và chỉ đường cho họ. Nếu thấy người khổ mất mát tài sản, cha mẹ chết hết, nên đem tài vật cung cấp, dùng lời khéo léo nói pháp, an ủi, can gián, khuyên lơn, khéo nói về hai loại quả báo: phiền não và phước đức. Thiện nam tử! Nếu người nào có thể tu tập sự bố thí như vậy thì được gọi là vị đại thí chủ.
D3. Kết luận tại gia khó tu
- Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia làm thí chủ thanh tịnh, điều này không khó; Bồ tát tại gia làm thí chủ thanh tịnh, điều này mới khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.
20. Tam Quy Y Thanh Tịnh
C2. Giới độ
D1. Tam quy y thanh tịnh
E1. Thiện Sinh hỏi
Thiện Sinh bạch Phật: “Kính Bạch Đứctôn! Như Đức Phật trước đây có dạy: ‘Nếu có người đến cầu thọ giới Bồ tát, trước nên cho họ thọ Tam quy y, sau đó mới thọ giới Bồ tát.’ Do nhân duyên gì phải thọ Tam quy y? Thế nào là Tam quy y?”
E2. Như Lai trả lời
F1. Nêu rõ ý nghĩa của Tam quy y
- Thiện nam tử! Vì muốn phá diệt sự khổ đau, đoạn trừ phiền não, hưởng thọ sự vui tịch diệt vô thượng, do nhân duyên này mà thọ Tam quy y. Như lời ông vừa hỏi, ba chỗ quy y tức là Phật Pháp Tăng. Phật là bậc chỉ dạy phương pháp trừ diệt nguyên nhân của phiền não, để đạt đến sự
giải thoát chân chánh; Pháp là phương pháp trừ diệt nguyên nhân của phiền não, để đạt đến sự giải thoát chân thực; còn Tăng là người bẫm thọ phương pháp diệt trừ nguyên nhân của phiền não, để đạt đến sự giải thoát chân chánh. Hoặc có người nói rằng: “Nếu vậy, tức là chỉ có một quy y.” Điều này không đúng. Vì sao? Đức Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện thế gian, Chánh pháp vẫn thường tồn tại, không có gì khác biệt. Sau khi Đức Như Lai xuất thế, Ngài là người giảng nói Chánh pháp, cho nên phải riêng thọ quy y Phật. Lại nữa, Đức Như Lai xuất thế hay không xuất thế, Chánh pháp vẫn thường hiện hữu, thế nhưng chỉ có đệ tử của Phật mới có thể bẫm thọ, cho nên phải riêng thọ quy y Tăng. Con đường giải thoát chân thật gọi là Pháp, bậc không thầy mà tự giác ngộ gọi là Phật, có thể thọ trì đúng như pháp thì gọi là Tăng. Không có Tam quy y thì làm sao nói có Bốn bất hoại tín? Những người bẫm thọ Tam quy y, hoặc
bẫm thọ đủ, hoặc không đủ. Thế nào gọi là đủ? Nghĩa là quy y Phật, Pháp, Tăng. Thế nào là không đủ? Như Đức Như Lai chỉ quy y Pháp mà không quy y Tăng. Còn các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di đều bẫm thọ đầy đủ Tam quy y.
Thiện nam tử! Như Phật, Duyên giác, Thanh văn có sự khác biệt, bởi thế Tam bảo cũng có sự khác biệt. Khác biệt thế nào? Những sự phát tâm, tu hành, đắc đạo đều có sự khác biệt cho nên gọi là khác biệt. Nhân duyên nào mà cho rằng Phật tức là Pháp? Vì hiểu rõ các pháp cho nên gọi là Phật. Lãnh thọ giáo pháp của Phật thì gọi là Tăng. Nếu như nói rằng: “Phật thuộc vào hàng ngũ của Tăng”, điều này không đúng. Vì sao? Nếu Phật thuộc vào hàng ngũ của Tăng thì sẽ không có Tam bảo, Tam quy y và Bốn bất hoại tín. Này thiện nam tử! Pháp của Bồ tát khác biệt cho nên Phật và Tăng cũng khác biệt. Bồ tát có hai loại: một là Bồ tát hậu thân, hai
là Bồ tát tu đạo. Nếu quy y với Bồ tát hậu thân thì gọi là quy y Pháp, còn quy y với Bồ tát tu đạo thì gọi là quy y Tăng. Những bậc quán sát các pháp hữu vi đầy dẫy những tội chướng lỗi lầm, riêng một mình tu tập được vị cam lộ thì được gọi là Phật. Tất cả pháp giới vô lậu vô vi được gọi là Pháp. Những bậc thọ trì cấm giới, đọc tụng, giảng nói Mười hai phần giáo thì được gọi là Tăng. Nếu có người nói: “Sau khi Đức Như Lai đã diệt độ thì quy y Phật là quy y với ai?” Thiện nam tử! Quy y như thế là quy y với pháp vô học của chư Phật đời quá khứ. Như trước đây ta có dạy ông trưởng giả Đề Vị rằng: “Ông nên quy y với chư Phật đời vị lai.” Quy y với chư Phật đời quá khứ cũng giống như vậy. Vì quả báo, phước điền, hoặc nhiều hoặc ít mà chia làm ba ngôi Phật Pháp Tăng. Đức Phật còn tại thế hay sau khi nhập Niết bàn, quả báo của sự cúng dường không có gì khác biệt. Sự thọ tam quy y cũng giống như vậy. Như Đức Phật lúc tại thế vì các
hàng đệ tử chế lập giới luật, sau khi Ngài nhập Niết bàn, nếu có người phạm giới cũng vẫn phạm tội. Quy y chư Phật đời quá khứ cũng giống như thế. Cũng như lúc Đức Như Lai gần nhập Niết bàn, tất cả trời người vì cầu pháp Niết bàn nên đều dâng lễ vật cúng dường lên Đức Như Lai, khi ấy Đức Như Lai chưa nhập Niết bàn, vẫn còn tại thế, Ngài đã thọ nhận sự cúng dường của chúng sinh đời vị lai. Quy y chư Phật đời quá khứ cũng giống như thế. Giống như có người, cha mẹ ở xa, nếu người ấy giận dữ mắng chửi cha mẹ cũng sẽ mắc tội; hoặc nếu như đối với cha mẹ cung kính, khen ngợi cũng sẽ được phước. Quy y chư Phật đời quá khứ cũng giống như thế. Cho nên ta có nói: “Nếu có người cúng dường cho ta, khi còn tại thế hay sau khi nhập Niết bàn, phước đức sẽ như nhau, không có sự khác biệt.”
F2. Nêu rõ thứ tự của Tam quy y
Thiện nam tử! Thiện nam hoặc thiện nữ nào nếu có thể lập lại ba lần pháp Tam quy y thì người đó gọi là ưu bà tắc hoặc ưu bà di. Tuy tất cả chư Phật đều quy y Pháp, thế nhưng Pháp phải do chư Phật nói ra mới có thể hiển hiện ở thế gian, vì thế chúng sinh phải quy y Phật trước. Người trí quán sát sâu xa sự tối thắng của trí tuệ giải thoát của Đức Như Lai, Ngài có thể nói pháp giải thoát, nói nhân cho sự giải thoát, có thể chỉ cho chúng sinh nơi vô thượng tịch tĩnh, có thể làm khô cạn biển lớn sinh tử khổ não. Đức Phật uy nghi chững chạc, ba nghiệp tịch tĩnh, vì thế trước tiên phải quy y Phật. Người trí quán sát thâm sâu pháp sinh tử là sự tập hợp của sự khổ, chỉ có đạo Chân chánh Vô thượng mới có thể trừ đoạn. Pháp sinh tử là sự thèm muốn, đói khát, chỉ có Cam lộ vô thượng mới có thể thỏa mãn tất cả sự mong cầu. Pháp sinh tử là sự sợ hãi, hiểm nạn, chỉ có Chánh pháp Vô thượng mới có thể trừ đoạn. Pháp sinh tử đầy dẫy sự sai
lầm, tà vạy bất chánh, vô thường chấp là thường, vô ngã chấp là ngã, khổ chấp là vui, bất tịnh chấp là tịnh, chỉ có Chánh pháp Vô thượng có thể đoạn trừ tất cả. Do nhân duyên này nên phải quy y Pháp. Người trí nên quán sát những người ngoại đạo, không biết hổ thẹn, không sống đúng như pháp; tuy cũng tu hành, nhưng lại không biết con đường chơn chánh; tuy cũng cầu giải thoát, nhưng không biết điểm cốt yếu chân thật; tuy cũng được chút ít pháp lành của thế gian, nhưng lại bỏn sẻn giấu diếm, không chịu truyền dạy cho người khác. Cái không phải pháp lành lại cho là pháp lành. Còn các vị Tăng trong Phật pháp, tâm tính tịch tĩnh, lòng thường thương xót, ít muốn biết đủ, sống đúng như pháp, tu tập Chánh đạo, được sự giải thoát chân chánh, đã được rồi lại đem chỉ dạy cho người khác, bởi thế, kế đến phải nên quy y Tăng.
F3. Nêu rõ Tam quy y giới
Nếu có người lễ bái Tam bảo, cung kính đón đưa, tôn trọng khen ngợi, sống đúng như pháp, tin tưởng không nghi thì gọi là cúng dường Tam bảo. Nếu như có người sau khi quy y Tam bảo, tuy chưa thọ giới, nhưng lại đoạn trừ tất cả pháp ác, tu tập tất cả pháp lành, tuy đó là người tại gia, nhưng sống đúng như pháp, người đó cũng được gọi là ưu bà tắc. Nếu có người cho rằng: “Nếu trước đó không quy y Tam bảo Phật Pháp Tăng, nên biết người thọ giới đó không đắc ngũ giới.” Điều này không phải như vậy. Vì sao? Như trước đây ta có nói: “Thiện lai Tỳ kheo.” Những người đó chưa hề quy y Tam bảo, thế nhưng họ đều đầy đủ giới pháp. Hoặc có người cho rằng: “Nếu không thọ hết các giới tướng, thì sẽ không đắc được giới thể. Pháp Bát quan trai cũng giống như thế.” Thế nhưng, điều này cũng không phải như vậy. Vì sao? Nếu không thọ hết tất cả giới tướng thì không đắc được giới thể, tại sao
những ưu bà tắc chỉ mưu cầu phước lạc nhân thiên lại được đắc giới? Sự thật là đắc được giới thể, chỉ có giới tướng là không đầy đủ. Tương tự, không thọ đủ giới tướng Bát giới trai, tuy không gọi là trai, nhưng vẫn có thể gọi là pháp lành. Thiện nam tử! Nếu có thể dùng nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh thọ giới Ưu bà tắc thì gọi là ngũ ấm. Thế nào là ngũ ấm? Không thọ nhận tà kiến, không giảng nói tà kiến, tin tưởng thọ nhận chánh kiến, giảng nói chánh kiến, tu hành Chánh pháp, đây gọi là ngũ ấm.
F4. Nêu rõ sự còn, mất của Tam quy y
Nếu sau khi thọ Tam quy y, lại tạo tác nghiệp ngu si, tiếp thọ tà pháp của ngoại đạo, nghe lời của nhóm Tự Tại Thiên, thì do nhân duyên này sẽ mất Tam quy y. Nếu có người lòng dạ ngay thẳng, không bỏn sẻn tham lam, thường biết hổ thẹn, ít muốn biết đủ, người đó không bao
lâu sẽ được thân tịch tĩnh. Nếu như tạo tác nghiệp tạp nhiễm, vì muốn hưởng sự vui sướng mà tu các pháp lành, nhưng lòng không biết thương xót chúng sinh, giống như việc mua bán đổi chác, những người như vậy không đắc được pháp Tam quy y. Nếu như có người vì muốn giữ gìn nhà cửa, thân mạng mà thờ cúng thần linh, những người đó không gọi là mất Tam quy y. Nếu như có người hết lòng tin tưởng rằng ngoại đạo có thể cứu giúp mình qua tất cả sự khổ não mà lễ lạy họ thì người đó mất Tam quy y. Khi lễ lạy Tự Tại Thiên nên giống như lễ lạy các vị quốc vương, trưởng giả, quý tộc, những người tuổi tác đức hạnh, những người lễ lạy như vậy, cũng không mất pháp Tam quy y.
F5. Nêu rõ sự phá tà sùng chánh
Tuy có lúc lễ lạy tà pháp của ngoại đạo, thế nhưng, phải nên cẩn thận không tiếp thọ giáo pháp của họ. Lúc cúng dường
các vị trờiiv, nên khởi tâm từ bi, vì muốn bảo hộ thân mạng, của cải, cõi nước và làm cho nhân dân không sợ hãi. Tại sao không tiếp thọ những tà thuyết của ngoại đạo? Người trí nên quán sát những gì mà ngoại đạo nói, họ cho rằng tất cả mọi vật đều do trời Tự Tại sinh ra. Nếu tất cả đều do trời Tự Tại sinh ra, tại sao ngày hôm nay chúng ta lại phải tu tập pháp lành? Hoặc có người nói: “Nhảy xuống vực sâu, nhảy vào lửa, nhịn đói cho đến chết thì được hết khổ.” Những điều này là nhân của sự khổ, tại sao lại cho rằng nhờ đây sẽ được hết khổ? Tất cả chúng sinh tạo nghiệp thiện ác, và do nghiệp duyên này mà tự mình thọ quả báo. Lại có người cho rằng: “Tất cả vạn vật, hoặc do thời gian, hoặc do tinh tú, hoặc do trời Tự Tại sinh ra.” Nếu thế, tại sao chúng ta lại thọ nhận quả báo của nghiệp trong đời này và đời quá khứ? Người trí biết rõ đó là quả báo của nghiệp. Tại sao lại cho rằng mọi vật là do thời gian, tinh tú, hoặc trời Tự Tại sinh
ra? Nếu do nhân duyên của thời gian, tinh tú mà thọ sự khổ, sự vui, như vậy, trong thiên hạ có nhiều người sinh đồng thời, hoặc đồng tinh tú, tại sao người này thọ khổ, người kia hưởng vui, người này là nam, người kia là nữ? Như các vị trời và a tu la sinh ra đồng thời, hoặc đồng tinh tú, tại sao hoặc là trời thắng, a tu la thua, hoặc là a tu la thắng, trời thua. Tại sao lại có các vị vua, tuy cũng sinh đồng thời, cùng tinh tú, mà trên phương diện chánh trị lại có người mất nước, có người giữ nước. Các ngoại đạo lại nói rằng: “Nếu có năm xấu, lúc sao xấu xuất hiện, phải dạy bảo chúng sinh tu pháp lành để tiêu tai giải nạn.” Nếu nhân vì năm xấu, hoặc sao xấu, tại sao do tu pháp lành lại qua tai nạn? Đã biết như vậy, người trí sao lại còn lãnh thọ tà thuyết sai lầm của ngoại đạo?
Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh tùy hành nghiệp của mình, nếu biết tu tập chánh kiến sẽ hưởng sự an vui, nếu như tu
tập tà kiến sẽ thọ nhiều khổ não. Nhờ tu tập nghiệp lành mà được tự tại, sau khi được tự tại, chúng sinh sẽ đến gần gũi. Lại vì chúng sinh mà nói nghiệp lành, nhờ nghiệp lành mà được tự tại. Tất cả chúng sinh nhờ tu nghiệp lành mà được an lạc, chẳng phải do năm tháng hay do tinh tú. Thiện nam tử! Vua A Xà Thế và Đề Bà Đạt Đa đã do tạo nghiệp mà đọa địa ngục, chẳng phải do năm tháng, tinh tú mà bị quả báo đó. Còn ông Uất Đầu Lam Phất vì tà kiến, trong tương lai sẽ đọa địa ngục.
Thiện nam tử! Lòng ham muốn là gốc của tất cả pháp lành. Do lòng ham muốn mà được ba pháp Bồ Đề và quả giải thoát. Do lòng ham muốn mà chúng sinh xuất gia, phá trừ nghiệp ác căn bản và nghiệp gây tạo sinh tử luân hồi, có thể thọ trì giới luật, gần gũi chư Phật, bố thí tất cả của cải cho những người đến xin, kiên quyết trừ diệt tất cả quả báo ác, trừ diệt tất cả nghiệp ác lớn, được quyết định tụ, xa
lìa ba chướng, khéo léo tu tập phương pháp phá diệt phiền não. Bởi do lòng ham muốn nên có thể thọ trì Tam quy y. Do đã thọ Tam quy y nên có thể thọ Ngũ giới. Sau khi thọ giới, tất cả sự kiến đạo, tu đạo đều hơn hàng Thanh văn. Ngay những người vì sợ sư tử, cọp, sói, ác thú mà quy y Phật còn được giải thoát, huống chi những người phát tâm lành cầu thoát ly sinh tử mà không được giải thoát? Khi ông Cấp Cô Độc bảo người vợ thọ Tam quy y cho đứa con còn trong thai thì đứa trẻ đó chưa thành tựu pháp Tam quy y. Vì sao? Vì pháp Tam quy y phải do tự miệng mình nói ra. Tuy chưa thành tựu nhưng đứa trẻ trong thai cũng được long thiên bảo hộ.
Thiện nam tử! Ngoại đạo cho rằng tất cả pháp thế gian đều do trời Tự Tại tạo ra, lại còn cho rằng trong tương lai, sau một trăm kiếp sẽ có người huyễn xuất hiện. Họ nói người huyễn là muốn ám chỉ Đức Phật. Nếu như trời Tự Tại tạo ra Phật, tại sao
Phật lại đả phá ý nghĩa của sự quy y trời Tự Tại? Nếu như trời Tự Tại không tạo ra Phật, tại sao lại nói trời Tự tại tạo ra tất cả? Ngoại đạo lại cho rằng: “Ba trời Phạm Thiên, Đại Tự Tại và Tỳ Nữu chỉ là một, nhưng chỗ sinh của mỗi trời đều khác nhau.” Trời Tự Tại còn có tên là Thường, là Chủ, là Hữu, là Luật Đà, là Thi Bà, mỗi tên đều có ý nghĩa khác nhau. Theo ngoại đạo, trời Tự Tại là người cầu sự giải thoát mà cũng chính là sự giải thoát. Thế nhưng điều này không đúng. Vì sao? Nếu trời Tự Tại có thể tạo ra chúng sinh thì ông ta cũng tạo ra thế gian, tạo ra nghiệp thiện ác cùng quả báo của nghiệp, tạo ra tham, sân, si trói buộc chúng sinh. Ngoại đạo lại cho rằng lúc chúng sinh được giải thoát sẽ nhập vào thân của trời Tự Tại, cho nên biết rằng giải thoát là pháp vô thường. Điều này không đúng. Vì sao? Nếu là vô thường thì làm sao gọi là giải thoát? Ví như đứa con của người Bà la môn thọ mạng hữu hạn, cho nên biết ông ta không
được gọi là trời Tự Tại. Ba vị trời Phạm Thiên, Đại Tự Tại và Tỳ Nữu cũng chẳng phải là một. Vì sao? Vì giống dân A Châu Na được trời Tỳ Nữu và trời Phạm Thiên cứu thoát, vì lý do đó, ba vị trời này không phải là một. Nếu cho rằng giải thoát là pháp vô thường thì sự giải thoát là huyễn hóa chứ không phải Đức Phật là huyễn hóa. Nếu có thể thấy chân ngã một cách chính xác rõ ràng thì gọi là được giải thoát. Có người cho rằng: “Thấy được vi trần gọi là giải thoát”, hoặc cho rằng: “Thấy được sự khác biệt của bổn tính và sự khác biệt của chân ngã thì gọi là giải thoát.” Điều này không đúng. Vì sao? Người nào tu đạo thấy được bốn Thánh đế thì người đó mới là người thấy được bổn tính, thấy được chân ngã, và hơn nữa, chỉ có người thọ Tam quy y mới có thể thấy bốn Thánh đế, vì thế pháp Tam quy y là căn bổn cho vô lượng pháp lành, nhẫn đến A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.
F6. Kết luận tại gia khó hành trì
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia thanh tịnh Tam quy y, điều này không khó. Bồ tát tại gia thanh tịnh Tam quy y, điều này mới khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc. 21. Bát Quan Trai Giới
D2. Bát trai giới
E1. Thiện Sinh hỏi
Thiện Sinh bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người thọ Tam quy y và giới Bát quan trai, người đó sẽ được những quả báo gì?”
E2. Thế Tôn trả lời
F1. Trả lời tổng quát
- Thiện nam tử! Nếu có người thọ Tam quy y, phải biết rằng người đó sẽ được quả báo không thể cùng tận.
F2. Trả lời chi tiết
G1. Dùng bốn thí dụ để hiển thị công đức
Thiện nam tử! Trong nước Ca Lăng Già có kho bảy báu tên là Tân Già La. Trong bảy năm bảy tháng bảy ngày, tất cả nhân dân trong nước đó, lớn, nhỏ, nam, nữ
đem tất cả xe cộ, voi, ngựa, lạc đà, lừa, v.v... đến để chở đi mà vẫn không hết. Nếu như có người chí tâm thọ trì Tam quy y và giới Bát quan trai, người đó sẽ được quả báo công đức còn nhiều hơn của cải trong kho bảy báu.
Thiện nam tử! Trong nước Tỳ Đề Ha có kho bảy báu tên là Bán Lục Ca. Trong bảy năm bảy tháng bảy ngày, tất cả nhân dân trong nước đó, lớn, nhỏ, nam, nữ đem tất cả xe cộ, voi, ngựa, lạc đà, lừa, v.v... đến để chuyên chở mà vẫn không hết. Nếu như có người chí tâm thọ trì Tam quy y và giới Bát quan trai, người đó sẽ được quả báo công đức còn nhiều hơn của cải trong kho bảy báu.
Thiện nam tử! Trong nước Ba La Nại có kho bảy báu tên là Nhương Khê. Trong bảy năm bảy tháng bảy ngày, tất cả nhân dân trong nước đó, lớn, nhỏ, nam, nữ đem tất cả xe cộ, voi, ngựa, lạc đà, lừa, v.v...
đến để chuyên chở mà vẫn không hết. Nếu như có người chí tâm thọ trì Tam quy y và giới Bát quan trai, người đó sẽ được quả báo công đức còn nhiều hơn của cải trong kho bảy báu.
Thiện nam tử! Trong nước Càn Đà La có kho bảy báu tên là Y La Bát Đa. Trong bảy năm bảy tháng bảy ngày, tất cả nhân dân trong nước đó, lớn, nhỏ, nam, nữ đem tất cả xe cộ, voi, ngựa, lạc đà, lừa, v.v... đến để chuyên chở mà vẫn không hết. Nếu như có người chí tâm thọ trì Tam quy y và giới Bát quan trai, người đó sẽ được quả báo công đức còn nhiều hơn của cải trong kho bảy báu.
G2. Chánh thức thọ Bát giới trai
Thiện nam tử! Nếu có người từ các vị xuất gia ba phen thọ Tam quy y và Bát giới thì người ấy sẽ đầy đủ giới thể ưu bà tắc trong một ngày đêm. Qua ngày sau, lúc
mặt trời mọc thì giới thể ấy sẽ tự động tiêu mất. Do đó, không được thọ giới trước Phật mà phải thọ từ các vị xuất gia. Người thọ giới, căn bản đã thanh tịnh, thọ xong giữ giới thanh tịnh, trang nghiêm thanh tịnh, giác quán thanh tịnh, tâm niệm thanh tịnh, quả báo thanh tịnh, đây gọi là Tam quy y và Bát giới thanh tịnh. Thiện nam tử! Nếu có thể thọ Tam quy y Bát giới thanh tịnh như vậy sẽ trừ diệt được tội ngũ nghịch và các tội báo khác. Giới Bát quan trai này, hai người không thể cùng thọ một lúc. Vì sao? Nếu như hai người cùng thọ một lúc, do nhân duyên gì mà một người phạm giới, một người trì giới? Do thế lực của giới pháp, đời sau khi sinh ra sẽ không tạo ác nghiệp; còn như nếu sau khi thọ giới lại hủy phạm thì cũng không bị vĩnh viễn mất đi giới thể. Nếu như có người, trước đó gửi thư sai khiến thuộc hạ đi giết người, vì thư đi chậm chưa đến kẻ thuộc hạ, trong khoảng thời gian đó người ấy lại phát tâm thọ giới. Trong khi đang thọ giới,
kẻ thuộc hạ nhận được thư bèn đi giết người. Tuy hai việc thọ giới và giết người xảy ra cùng lúc, nhưng vì thế lực của giới, người thọ giới cũng không phạm tội sát sinh. Có người quyền thế ra lệnh cho thuộc hạ làm việc ác, nếu người đó muốn thọ giới Bát quan trai, trước tiên phải ra lệnh ngưng làm việc ác thì sự thọ giới mới có thể thành tựu. Nếu như trước đó không ra lệnh ngăn cấm việc ác mà lại đi thọ giới thì không gọi là thọ Bát quan trai. Nếu người quyền thế muốn thọ Bát quan trai, trước tiên phải thông báo cho tất cả mọi người trong khu vực cai trị của mình rằng mình muốn thọ giới Bát quan trai và ra lệnh trong ngày đó phải ngưng tất cả những việc ác cùng những việc hành hình, xử phạt. Nếu có thể thọ trì giới Bát quan trai thanh tịnh như vậy, người đó sẽ được vô lượng phước báo, nhẫn đến quả vui Vô thượng.
G3. Nêu rõ thời nay thọ giới thù thắng
Khi Đức Di Lặc ra đời, lúc ấy thọ trì Bát quan trai cả trăm năm không bằng trong đời hiện nay thọ giới trong một ngày đêm. Vì sao? Vì trong đời hiện tại, chúng sinh gồm đủ năm điều ô trược. Bởi thế, ta có dạy Lộc Tử Mẫu rằng: “Này thiện nữ nhân! Nếu cây Sa la có thể thọ giới Bát quan trai thì nó cũng sẽ được quả vui trời người, nhẫn đến quả vui Vô thượng.” Thiện nam tử! Giới Bát quan trai này là một việc làm dễ dàng mà lại có thể được vô lượng công đức. Nếu có việc dễ làm mà không chịu làm, đó gọi là người phóng dật.
F3. Kết luận tại gia thù thắng
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia có thể dạy bảo chúng sinh thọ Bát quan trai thanh tịnh, điều này không khó. Bồ tát tại gia dạy bảo người khác thọ giới Bát quan trai thanh tịnh, điều này mới khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.118.32.7 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.