Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
1. Tập Hội
A1. Phần phát khởi
B1. Nêu lên pháp hội
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở Tinh xá Cấp cô độc, trong rừng Kỳ đà, tại nước Xá vệ, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo tăng, năm trăm vị Tỳ kheo ni, một ngàn ưu bà tắc và năm trăm người ăn mày.
B2. Thiện Sinh thưa hỏi
C1. Hỏi đáp bổn sự
D1. Hỏi về sự lạy sáu phương
Lúc bấy giờ trong pháp hội có ông Thiện Sinh, con của một vị trưởng giả, bạch với Đức Phật:
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Phái ngoại đạo Lục sư thường dạy rằng: “Nếu mỗi buổi sáng kính lạy sáu phương, thì sẽ được sống lâu, giàu có. Vì sao? Cõi phương
đông thuộc về trời Đế thích; nếu người nào cúng dường, sẽ được Đế thích bảo hộ và giúp đỡ. Cõi phương nam thuộc về vua Diêm la; nếu người nào cúng dường, sẽ được Diêm la bảo hộ và giúp đỡ. Cõi phương tây thuộc về trời Bà lâu na; nếu người nào cúng dường, sẽ được Bà lâu na bảo hộ và giúp đỡ. Cõi phương bắc thuộc về trời Câu tỳ la; nếu người nào cúng dường, sẽ được Câu tỳ la bảo hộ và giúp đỡ. Cõi phương dưới thuộc về trời Lửa; nếu người nào cúng dường, sẽ được Lửa bảo hộ và giúp đỡ. Cõi phương trên thuộc về trời Gió; nếu người nào cúng dường, sẽ được Gió bảo hộ và giúp đỡ.” Kính bạch Đức Thế Tôn, trong Phật pháp cũng có sáu phương như vậy chăng?
D2. Phật trả lời tu Lục độ
Phật bảo Thiện Sinh: “Trong Phật pháp cũng có sáu phương, tức là sáu pháp Ba la mật. Phương đông tức là Bố thí Ba la mật. Vì sao? Phương đông tượng trưng
sự mới bắt đầu của một ngày, đem đến ánh sáng chói ngời của trí tuệ. Phương đông lại thuộc về tâm chúng sinh. Nếu người nào cúng dường Bố thí Ba la mật sẽ được sống lâu và giàu có. Phương nam tức là Trì giới Ba la mật. Vì sao? Trì giới Ba la mật tượng trưng phía mặt. Nếu người nào cúng dường sẽ được sống lâu và giàu có. Phương tây tức là Nhẫn nhục Ba la mật. Vì sao? Phương tây ở về phía sau, tượng trưng cho tất cả pháp ác đều bị bỏ lại ở phía sau. Nếu người nào cúng dường sẽ được sống lâu và giàu có. Phương bắc tức là Tinh tiến Ba la mật. Vì sao? Phương bắc tượng trưng cho sự chiến thắng các pháp ác. Nếu người nào cúng dường sẽ được sống lâu và giàu có. Phương dưới tức là Thiền Ba la mật. Vì sao? Vì xuyên qua thiền định, chúng sinh có thể chân chánh quán sát ba đường dữ. Nếu người nào cúng dường sẽ được sống lâu và giàu có. Phương trên tức là Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì phía trên tức là vô thượng, vô
sanh. Nếu người nào cúng dường sẽ được sống lâu và giàu có. Thiện nam tử! Sáu phương đều thuộc về tâm của chúng sinh, không phải như ngoại đạo Lục Sư đã nói.”
C2. Hỏi đáp
D1. Biện luận về Bồ tát tính có thể cúng dường
- Ai có thể cúng dường sáu phương như vậy?
- Thiện nam tử! Chỉ có Bồ tát mới có thể cúng dường.
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Do nghĩa gì mà gọi là Bồ tát?
Đức Phật bảo Thiện Sinh: “Người đã giác ngộ được gọi là Bồ tát, người có tính giác ngộ được gọi là Bồ tát.”
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Nếu người giác ngộ được gọi là Bồ tát, như vậy lúc chưa cúng dường sáu phương (tu tập Lục
độ) thì làm sao được gọi là Bồ tát? Nếu vì có tính giác ngộ mà được gọi là Bồ tát thì ai có tính ấy? Nếu như có tính này mới có thể cúng dường sáu phương, còn không có tính này không thể cúng dường, Đức Như Lai không thể nói sáu phương thuộc về tâm chúng sinh.
- Thiện nam tử! Không phải được giác ngộ mà gọi là Bồ tát. Vì sao? Người được giác ngộ thì gọi là Phật. Trước khi giác ngộ thì gọi là Bồ tát. Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh không có tính giác ngộ, cũng như chúng sinh không có tính trời, người, sư tử, cọp, sói, chó, v.v... Do trong đời này hòa hợp nhiều nhân duyên của nghiệp lành mà chúng sinh được thân người, trời; hoặc hòa hợp nhiều nhân duyên của nghiệp ác mà sinh vào loài bàng sinh, như sư tử chẳng hạn. Bồ tát cũng vậy, do sự hòa hợp nhiều nhân duyên của nghiệp lành, lại phát tâm Bồ đề, nên gọi là Bồ tát. Nếu có người nói rằng tất cả
chúng sinh đều có tính Bồ tát, nghĩa này không đúng. Vì sao? Nếu đã có tính Bồ tát thì không cần tu tập những nhân duyên nghiệp lành bằng cách cúng dường sáu phương. Thiện nam tử! Nếu chúng sinh đã có sẵn tính Bồ tát thì sẽ không có người mới phát tâm cũng như có người thoái tâm. Do vô lượng nhân duyên nghiệp lành mà phát tâm Bồ đề nên mới gọi là có tính Bồ tát.
D2. Nêu rõ chỗ phát sinh Tâm Bồ đề
E1. Nói rõ mười nguyên nhân phát tâm
Thiện nam tử! (1) Có những chúng sinh tu theo ngoại đạo, vì không thích lý thuyết điên đảo của họ mà phát tâm Bồ đề; (2) hoặc có chúng sinh ở nơi vắng lặng, nhờ nhân duyên thiện căn trong tâm mà phát tâm Bồ đề; (3) hoặc có chúng sinh quán sát lỗi lầm của sinh tử mà phát tâm Bồ đề; (4) hoặc có chúng sinh thấy nghe điều ác mà phát tâm Bồ đề; (5) hoặc có chúng sinh biết rõ sự tham dục, sân hận,
ngu si, bỏn sẻn, ganh ghét của mình, vì muốn đối trị mà phát tâm Bồ đề; (6) hoặc có chúng sinh thấy các vị tiên ngoại đạo có năm phép thần thông mà phát tâm Bồ đề; (7) hoặc có chúng sinh muốn biết thế giới là hữu biên hoặc vô biên mà phát tâm Bồ đề; (8) hoặc có chúng sinh thấy nghe cảnh giới không thể nghĩ bàn của Đức Như Lai mà phát tâm Bồ đề; (9) hoặc có chúng sinh khởi tâm thương xót cứu độ mọi loài mà phát tâm Bồ đề; (10) hoặc có chúng sinh vì yêu mến mọi loài mà phát tâm Bồ đề.
E2. Nêu rõ ba loại phát tâm
Thiện nam tử! Tâm giác ngộ có ba bậc thượng, trung và hạ. Nếu chúng sinh quyết định có tính giác ngộ, làm sao lại nói có ba bậc? Chúng sinh bậc hạ có thể phát tâm bậc trung, chúng sinh bậc trung có thể phát tâm bậc thượng, chúng sinh bậc thượng có thể phát tâm bậc trung, và
chúng sinh bậc trung có thể phát tâm bậc hạ. Chúng sinh siêng tu vô lượng pháp lành, có thể tăng lên bậc thượng; nếu không siêng tu thì sẽ sụt xuống bậc hạ. Nếu khéo tu tiến thì gọi là không thoái lui; nếu không khéo tu tiến thì gọi là thoái lui. Nếu trong tất cả thời gian thường vì tất cả chúng sinh tu tập hạnh lành thì gọi là người không thoái chuyển; ngược lại, thì gọi là người thoái chuyển. Những Bồ tát thoái chuyển thì gọi là người có tâm thoái lui, khiếp sợ. Nếu có người nào, trong tất cả thời gian vì tất cả chúng sinh mà tu pháp lành, được quả vị bất thoái, ta sẽ thọ ký người ấy nhất định không bao lâu sẽ được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
E3. Nêu rõ sự phát tâm không có định tính
Thiện nam tử! Ba bậc giác ngộ không có tính nhất định, nếu có tính nhất định, thì người phát tâm Thanh văn, Duyên giác
không thể phát tâm Vô thượng Bồ đề. Thiện nam tử! Giống như Tăng đoàn không có tính nhất định, tính của ba bậc giác ngộ cũng như thế. Nếu có người nói: “Giác ngộ có tính nhất định”, thì người đó là ngoại đạo. Vì sao? Vì ngoại đạo không tin nhân quả, như trời Tự Tại của họ phủ nhận cả nhân lẫn quả.
D3. Nêu rõ nhân duyên sinh của Bồ tát tính
Thiện nam tử! Nếu có người nói tính Bồ tát giống như tính của vàng, nhất định hiện hữu trong kim khoáng, do sự tinh lọc mà hiển hiện được công dụng của vàng. Đây là thuyết của ngọai đạo Phạm chí. Vì sao? Ngoại đạo Phạm chí thường cho rằng trong hạt Ni câu đà đã có cây Ni câu đà, và trong tròng mắt có lửa và đá. Do đó, họ thừa nhận không có nhân cũng không có quả. Nhân tức là quả, quả tức là nhân. Hạt Ni câu đà đã có sẵn cây Ni câu đà. Đây là thuyết nhân quả của ngoại đạo Phạm chí.
Nhưng điều này không đúng. Vì sao? Nhân thì nhỏ mà quả thì to. Vả lại, nếu nói trong con mắt nhất định có lửa, mắt sẽ bị đốt cháy. Làm sao mắt có thể thấy được? Thiện nam tử! Ngoại đạo Phạm chí cho rằng có tức là vĩnh viễn có, không tức là vĩnh viễn không. Không sẽ không trở thành có, mà có cũng không trở thành không. Nếu trong khoáng có tính của vàng, vàng không thể gọi là tính, mà tính cũng không thể gọi là vàng. Thiện nam tử! Do nhiều nhân duyên nên có sự hòa hợp, vì hòa hợp nên trước vốn là không mà sau mới có. Nếu vậy, ngoại đạo Phạm chí cho rằng không tức vĩnh viễn là không, nghĩa này là thế nào? Lại như vàng hòa hợp với thủy ngân, vàng bị biến đổi. Nếu vậy, ngoại đạo Phạm Chí cho rằng có thì vĩnh viễn không diệt, nghĩa này là thế nào? Nếu nói chúng sinh có sẵn tính Bồ tát, đây là thuyết của ngoại đạo, không phải thuyết của đạo Phật. Thiện nam tử! Ví như do nhân duyên hòa hợp mà có tác dụng của
vàng, tính Bồ tát cũng giống như vậy. Chúng sinh có tâm mong cầu, từ tâm mong cầu đó, do nhân duyên thiện nghiệp mà phát tâm Bồ đề, như vậy gọi là tính Bồ tát. Thiện nam tử! Ví như chúng sinh trước kia không có tâm mong cầu giác ngộ, sau này mới có, tính Bồ tát cũng vậy, trước không sau có. Thế nên, không thể nói quyết định có tính Bồ tát.
C3. Nêu tông chỉ đại cương
D1. Nêu rõ ý nghĩa và loại biệt của tất cả Bồ tát
Thiện nam tử! Bất cứ người nào cầu trí tuệ rộng lớn đều gọi là Bồ tát. Bởi vì họ muốn biết sự chân thật của tất cả các pháp, vì muốn được sự trang nghiêm rộng lớn, vì muốn tâm được kiên cố, độ vô lượng chúng sinh, và vì không tiếc thân mạng nên gọi là Bồ tát tu hạnh Đại thừa. Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là thoái chuyển, hai là không thoái chuyển. Người đã tu tập nghiệp ba mươi hai tướng, gọi là không thoái chuyển, nếu chưa thể tu tập,
gọi là thoái chuyển. Lại có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia, phụng trì tám giới trọng hoàn toàn thanh tịnh, gọi là Bồ tát không thoái chuyển. Bồ tát tại gia, phụng trì sáu giới trọng hoàn toàn thanh tịnh, cũng gọi là Bồ tát không thoái chuyển.
D2. Hiển rõ sự thù thắng của Bồ tát tại gia
Thiện nam tử! Phước đức của ngoại đạo đoạn được tâm tham dục thù thắng hơn phước đức của chúng sinh cõi Dục. Tu đà hoàn thù thắng hơn ngoại đạo dị kiến, Tư đà hàm thù thắng hơn Tu đà hoàn, A na hàm thù thắng hơn Tư đà hàm, A la hán thù thắng hơn A na hàm, Bích chi phật thù thắng hơn A la hán. Người tại gia phát tâm Bồ đề lại thù thắng hơn Bích chi phật. Người xuất gia phát tâm Bồ đề không khó. Người tại gia phát tâm Bồ đề quả thật không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc. Lúc
người tại gia phát tâm Bồ đề thì từ cõi trời Tứ thiên vương cho đến cõi trời Sắc cứu cánh, tất cả đều kinh ngạc vui mừng, nói như thế này: “Hôm nay chúng ta đã có được vị thầy của trời người.”
A2. Phần thuyết giảng chính thức
B1. Nói rõ Bồ tát có thể tu hành Lục độ
C1. Nói rộng các hạnh tu thành Bồ tát
D1. Khuyến phát tâm nguyện
E1. Khuyến phát tâm tổng quát
F1. Nói rõ tướng phát tâm 2. Phát Tâm Bồ đề
G1. Thiện Sinh hỏi:
Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng sinh vì sao phát tâm Bồ đề?”
G2. Thế Tôn thuyết giảng
H1. Phân biệt nói chi tiết
I1. Tin hiểu phát tâm Bồ đề
- Thiện nam tử! (1) Vì hai việc nên phát tâm Bồ đề: một là tăng tuổi thọ, hai là thêm tài sản. (2) Lại có hai việc: một là vì không muốn chủng tính Bồ đề đoạn tuyệt, hai là vì muốn đoạn trừ phiền não tội khổ của chúng sinh. (3) Lại có hai việc: một là tự quán sát mình trong vô lượng đời chịu bao nhiêu khổ não mà vẫn không được lợi ích, hai là tuy chư Phật xuất hiện nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài cũng không thể độ mình, mà chính mình phải tự độ. (4) Lại có hai việc: một là tu các nghiệp lành, hai là những nghiệp lành đã tu sẽ không mất. (5) Lại có hai việc: một là vì muốn vượt hơn tất cả quả báo của trời người, hai là vì muốn vượt hơn tất cả quả báo của Nhị thừa. (6) Lại có hai việc: một là vì cầu giác ngộ nên nhận chịu nhiều khổ não, hai là vì muốn được vô lượng sự lợi ích rộng lớn. (7) Lại có hai việc: một là quán sát chư Phật nhiều như số cát sông Hằng ở quá khứ, vị lai, đều giống như mình, hai là quán sát sâu xa rằng Bồ đề là pháp có thể chứng được, vì thế phát tâm tu tập. (8) Lại có hai việc: một là quán sát Bồ tát Lục trụ, tuy có tâm thoái chuyển, nhưng vẫn còn thù thắng hơn tất cả Thanh văn, Duyên giác, hai là siêng năng truy cầu quả vị Vô thượng Chánh giác. (9) Lại có hai việc: một là mong tất cả chúng sinh đều được giải thoát, hai là mong quả báo giải thoát của chúng sinh vượt hơn quả báo của ngoại đạo. (10) Lại có hai việc: một là không xả bỏ tất cả chúng sinh, hai là xa lìa tất cả phiền não. (11) Lại có hai
việc: một là vì đoạn trừ khổ não của chúng sinh trong đời này, hai là vì ngăn chận khổ đau của chúng sinh trong đời sau. (12) Lại có hai việc: một là vì muốn đoạn trừ sự chướng ngại của trí tuệ, hai là vì muốn đoạn trừ thân chướng của chúng sinh.
I2. Tu tập phát tâm Bồ đề
Thiện nam tử! Do năm việc mà phát tâm Bồ đề: một là gần gũi bạn lành, hai là trừ tâm nóng giận, ba là tuân lời thầy dạy, bốn là sinh lòng thương xót, năm là tu hành tinh tiến. Lại có năm việc phát tâm Bồ đề: một là không thấy lỗi người, hai là tuy thấy lỗi người nhưng tâm không màng đến, ba là tuy làm việc lành nhưng không sinh lòng kiêu mạn, bốn là thấy người làm việc lành, không khởi lòng ghen ghét, năm là quán sát tất cả chúng sinh, tưởng như con một của mình.
I3. Chân chánh phát tâm Bồ đề
Thiện nam tử! Sau khi phát tâm Bồ đề, người trí có thể hủy diệt các nghiệp ác to như núi Tu Di. Người trí vì ba việc mà phát tâm Bồ đề: một là thấy chúng sinh thọ khổ trong đời ác năm trược, hai là thấy Đức Như Lai có đạo lực thần thông không thể nghĩ bàn, ba là nghe tám thứ âm thanh vi diệu của Đức Như Lai. Lại do hai việc: một là biết rõ sự khổ đau của thân mình, hai là hiểu rõ chúng sinh khổ như mình khổ, vì muốn đoạn trừ sự khổ cho họ, cũng như trừ sự khổ cho chính mình. 3. Tâm Đại Bi
F2. Nêu rõ nguyên nhân phát tâm
G1. Nguyên nhân phát sinh tâm Đại bi
H1. Hỏi đáp về nguyên nhân phát tâm
I1. Hỏi chung về nguyên nhân phát tâm
Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Ngoại đạo Lục sư không nói nhân quả, Đức Như Lai lại nói nhân có hai thứ: một là sinh nhân, hai là liễu nhân. Như Đức Thế Tôn vừa nói, nguyên nhân phát tâm Bồ đề là sinh nhân hay liễu nhân?”
I2. Trả lời chung về ý nghĩa của nguyên nhân
J1. Nói đại lược hành tướng của nguyên nhân
- Thiện nam tử! Ta vì chúng sinh, hoặc nói một nhân, hai nhân, ba nhân, bốn nhân, năm nhân, hoặc nói sáu, bảy, cho đến mười hai nhân. Một nhân tức là sinh nhân. Hai nhân là sinh nhân và liễu nhân. Ba nhân là phiền não, nghiệp chướng và
khí thế giới. Bốn nhân tức là bốn Đại. Năm nhân tức là năm chi vị lai của Mười hai nhân duyên. Sáu nhân như trong khế kinh đã nói. Bảy nhân như trong kinh Pháp Hoa đã nói. Tám nhân tức là tám chi hiện tại của Mười hai nhân duyên. Chín nhân như trong kinh Đại Thành đã nói. Mười nhân, như Như Lai đã giảng cho ưu bà tắc Ma Nam. Mười một nhân, như trong kinh Trí Ấn đã nói. Mười hai nhân tức là Mười hai nhân duyên. Thiện nam tử! Tất cả pháp hữu lậu có vô lượng vô biên nhân. Tất cả pháp vô lậu cũng có vô lượng vô biên nhân. Người trí vì muốn biết tất cả nên phát tâm Bồ đề. Đức Như Lai vì biết tất cả nên được gọi là Nhất thiết trí.
J2. Nêu rõ Đại bi là nguyên nhân sinh khởi Tâm Bồ đề
Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh phát tâm Bồ đề, hoặc do sinh nhân, hoặc do liễu nhân, hoặc do cả hai. Nay ông nên biết, sinh nhân tức là tâm Đại bi, vì tâm
Đại bi nên mới phát tâm Bồ đề, vì thế tâm Đại bi là sinh nhân.
H2. Hỏi đáp về sự tu tập tâm Đại bi
I1. Thiện Sinh hỏi phương pháp tu tập tâm Đại bi
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Làm thế nào tu tập tâm Đại bi?
I2. Như Lai nói hành tướng của tâm Đại bi
J1. Ba mươi sáu nguyên nhân sinh khởi tâm Đại bi
- Thiện nam tử! (1) Người trí thấy rõ tất cả chúng sinh bị chìm đắm trong biển lớn sinh tử chịu nhiều khổ não, vì muốn cứu vớt họ, nên sinh tâm Đại bi; (2) thấy chúng sinh chưa được Mười lực, Bốn pháp vô úy, tâm Đại bi, Ba niệm v.v..., bèn nghĩ như vầy: 'Ta làm thế nào để cho họ được đầy đủ', nên sinh tâm Đại bi; (3) tuy thấy chúng sinh lòng đầy oán thù cay độc mà vẫn xem họ như người thân thuộc, nên sinh tâm Đại bi; (4) thấy chúng sinh mê mờ chánh đạo, không có người dẫn dắt,
nên sinh tâm Đại bi; (5) thấy chúng sinh chìm trong vũng bùn ngũ dục, không có cách nào ra khỏi mà lại còn buông lung phóng dật, nên sinh tâm Đại bi; (6) thấy chúng sinh thường bị của cải, vợ con ràng buộc, không thể xả bỏ, nên sinh tâm Đại bi; (7) thấy chúng sinh do sắc đẹp, sức mạnh, sống lâu mà sinh kiêu mạn, nên sinh tâm Đại bi; (8) thấy chúng sinh bị ác tri thức - như nhóm Lục sư chẳng hạn - dối gạt, mà vẫn tưởng họ là quyến thuộc, nên sinh tâm Đại bi; (9) thấy chúng sinh trong ba cõi chịu nhiều khổ não mà vẫn tham luyến, nên sinh tâm Đại bi; (10) thấy chúng sinh tạo nghiệp thân khẩu ý xấu xa, độc ác, nhân đây chịu nhiều quả báo khổ não mà vẫn mê muội, nên sinh tâm Đại bi; (11) thấy chúng sinh thèm khát ngũ dục như người khát uống nước mặn, nên sinh tâm Đại bi; (12) thấy chúng sinh tuy muốn cầu vui mà không tạo nhân vui, tuy không thích khổ mà ưa gây nhân khổ, muốn hưởng cảnh vui cõi trời mà lại thiếu giới
hạnh, nên sinh tâm Đại bi; (13) thấy chúng sinh đối với sự vật không ngã, ngã sở mà chấp là ngã, ngã sở, nên sinh tâm Đại bi; (14) thấy chúng sinh lưu chuyển một cách vô định trong năm cõi, nên sinh tâm Đại bi; (15) thấy chúng sinh sợ sinh già chết mà cứ tạo nghiệp sinh già chết, nên sinh tâm Đại bi; (16) thấy chúng sinh thân tâm chịu nhiều thống khổ mà vẫn tạo nghiệp, nên sinh tâm Đại bi; (17) thấy chúng sinh đau khổ khi ân ái bị chia lìa mà vẫn không chịu dứt sự ân ái, nên sinh tâm Đại bi; (18) thấy chúng sinh ở trong sự tăm tối vô minh mà không biết thắp sáng đèn trí tuệ, nên sinh tâm Đại bi; (19) thấy chúng sinh bị lửa phiền não đốt cháy mà không chịu cầu nước thiền định tam muội, nên sinh tâm Đại bi; (20) thấy chúng sinh vì thú vui ngũ dục mà tạo vô lượng nghiệp ác, nên sinh tâm Đại bi; (21) thấy chúng sinh tuy biết ngũ dục đem đến sự thống khổ mà vẫn cầu mãi không thôi, như người đói ăn cơm có thuốc độc, nên sinh tâm Đại bi;
(22) thấy chúng sinh ở trong đời ác, gặp vua bạo ngược, chịu nhiều khổ sở, mà vẫn buông lung, nên sinh tâm Đại bi; (23) thấy chúng sinh lưu chuyển trong tám cảnh khổ, nhưng vẫn không biết cách đoạn trừ gốc khổ, nên sinh tâm Đại bi; (24) thấy chúng sinh đối với cảnh đói khát, lạnh nóng, không được tự tại, nên sinh tâm Đại bi; (25) thấy chúng sinh hủy phạm giới luật, bị đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nên sinh tâm Đại bi; (26) thấy chúng sinh hình dáng, sức lực, tuổi thọ, an ổn và biện tài không được tự tại, nên sinh tâm Đại bi; (27) thấy chúng sinh thân thể tàn khuyết, nên sinh tâm Đại bi; (28) thấy chúng sinh sinh ở nơi biên địa, không tu pháp lành, nên sinh tâm Đại bi; (29) thấy chúng sinh sinh nhằm đời đói khát, thân thể ốm gầy, cướp đoạt lẫn nhau, nên sinh tâm Đại bi; (30) thấy chúng sinh trong kiếp đao binh, giết hại lẫn nhau, lòng ác độc hừng hẫy, sẽ chịu vô lượng quả báo khổ, nên sinh tâm Đại bi; (31) thấy chúng sinh gặp Phật ra
đời nói Pháp thanh tịnh như mùi vị Cam lộ mà không biết tu học, nên sinh tâm Đại bi; (32) thấy chúng sinh tin thầy tà bạn ác, không chịu nghe lời thầy hay bạn lành, nên sinh tâm Đại bi; (33) thấy chúng sinh giàu có, của cải tràn đầy mà không chịu bố thí, nên sinh tâm Đại bi; (34) thấy chúng sinh cầy sâu cuốc bẫm, buôn tảo bán tần, nhọc nhằn gian khổ, nên sinh tâm Đại Bi; (35) thấy chúng sinh, cha mẹ, anh em, vợ con, tôi tớ, quyến thuộc không thương mến nhau, nên sinh tâm Đại bi. Thiện nam tử! (36) Người trí quán sát sự vui thiền định của cõi trời Phi tưởng Phi phi tưởng như sự khổ địa ngục mà tất cả chúng sinh đều phải nhận chịu, nên sinh tâm Đại bi.
J2. Đặc biệt chỉ rõ bốn nguyên nhân sinh khởi tâm Đại bi
Thiện nam tử! (1) Trước khi đắc đạo, quán sát như thế gọi là tâm Bi; nếu đã đắc đạo thì gọi là tâm Đại bi. Vì sao? Lúc chưa đắc đạo, dù có quán sát, sự quán sát
và chúng sinh đều giới hạn, nên gọi là tâm Bi; khi đã đắc đạo, sự quán sát và chúng sinh đều vô hạn, nên gọi là tâm Đại bi. (2) Hơn nữa, lúc chưa đắc đạo, tâm Bi vẫn còn bị lay chuyển, nên gọi là tâm Bi; khi đã đắc đạo, tâm Bi không còn bị lay chuyển, nên gọi là tâm Đại bi. (3) Khi chưa đắc đạo, chưa thể cứu vớt tất cả chúng sinh, nên gọi là tâm Bi; khi đã đắc đạo, có thể cứu vớt tất cả, nên gọi là tâm Đại bi. (4) Lúc chưa đắc đạo, tâm Bi chưa tương ưng với trí tuệ nên gọi là tâm Bi; khi đã đắc đạo, tâm Bi tương ưng với trí tuệ nên gọi là tâm Đại bi.
I3. Kết luận chỉ rõ sự lợi ích của tâm Đại bi
J1. Nói tổng quát sự lợi ích của tâm Đại bi
Thiện nam tử! Người trí tu tâm Đại bi tuy chưa thể đoạn trừ khổ não cho chúng sinh, cũng đã có vô lượng lợi ích. Thiện nam tử! Sáu pháp Ba la mật đều lấy tâm Đại bi làm gốc.
J2. Nói riêng sự lợi ích của tâm Đại bi đối với Bồ tát tại gia
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là Bồ tát xuất gia, hai là Bồ tát tại gia. Bồ tát xuất gia tu tập tâm Đại bi không khó, Bồ tát tại gia tu tập tâm Đại bi mới khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên trói buộc. Thiện nam tử! Nếu người tại gia không tu tập tâm Đại bi, họ không thể đắc giới Ưu bà tắc. Sau khi tu tập tâm Đại bi, sẽ được đắc giới. Thiện nam tử! Bậc xuất gia chỉ có thể tu trọn vẹn năm pháp Ba la mật, không thể tu trọn vẹn Bố thí Ba la mật. Người tại gia có thể tu tròn cả sáu pháp. Vì sao? Vì trong tất cả thời gian, họ có thể tu tập bố thí tất cả. Vì thế người tại gia trước tiên phải tu tâm Đại bi. Nếu đã tu tập tâm Đại bi, người đó sẽ được đầy đủ trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ. Nếu tu tâm Đại bi, vật khó bố thí có thể bố thí, điều khó nhẫn nhịn có thể nhẫn nhịn, những việc khó làm
đều có thể làm. Do đây biết rằng tất cả các pháp lành đều lấy tâm Đại bi làm gốc.
J3. Tổng kết sự lợi ích rộng lớn của tâm Đại Bi
Thiện nam tử! Nếu có người tu tập tâm Đại bi như vậy, phải biết người ấy có thể phá tan nghiệp ác to như núi Tu di, không bao lâu sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Người ấy dù tu chút thiện cũng sẽ được quả lành to như núi Tu Di. 4. Giải Thoát
G2. Giải thích liễu nhân
H1. Giải thích tiếp phần trên
Thiện nam tử! Nếu có người tu hạnh Đại bi, phải biết người ấy sẽ được một pháp thể, gọi là giải thoát phần.
H2. Hỏi đáp làm rõ ý nghĩa
I1. Hỏi ý nghĩa được giải thoát
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Cái gọi là pháp thể đó có nghĩa gì?
- Thiện nam tử! Nghĩa là thân, miệng, ý. Thân, miệng, ý này từ phương tiện mà có được. Phương tiện có hai loại: một là tai nghe, hai là suy nghĩ. Lại có ba loại: một là bố thí, hai là giữ giới, ba là nghe nhiều Phật pháp.
I2. Hỏi cách nào được giải thoát
J1. Nêu rõ được hay không được giải thoát
- Kính bạch Đức Thế Tôn, như Phật đã nói từ ba phương tiện được giải thoát phần. Nếu vậy, ba phương tiện đó có số lượng nhất định không?
- Thiện nam tử! Không có số lượng nhất định. Vì sao? Có người ở trong vô lượng đời, đem vô lượng của cải bố thí cho vô lượng chúng sinh mà vẫn không được giải thoát phần; lại có người chỉ trong một lần, đem một nắm bột bố thí cho một người ăn mày mà được giải thoát phần. Có người ở nơi vô lượng Phật thọ trì giới luật mà vẫn không được giải thoát phần; lại có người chỉ trong một ngày một đêm thọ trì Bát giới mà được giải thoát phần. Có người trong vô lượng đời, ở nơi vô lượng Phật, thọ trì đọc tụng Mười hai phần giáo mà vẫn không được giải thoát phần; lại có người chỉ đọc một bài kệ bốn câu mà được giải thoát phần. Vì sao? Vì tâm của chúng sinh không giống nhau.
Thiện nam tử! Nếu có người không thể nhất tâm quán sát tội lỗi của sinh tử, cùng sự an lạc của Niết bàn, những người như vậy, tuy đầy đủ bố thí, giữ giới, đa văn, chung cuộc cũng không được giải thoát phần. Nếu có thể nhàm chán tội lỗi của sinh tử, thấy rõ công đức an lạc của Niết bàn, những người như vậy, tuy ít bố thí, ít trì giới, ít nghe Phật pháp, mà vẫn có thể được giải thoát phần.
J2. Thời điểm được giải thoát
Thiện nam tử! Hành giả ở trong ba trường hợp có thể được giải thoát phần: một là lúc Phật xuất thế, hai là lúc Bích chi phật xuất thế, ba là nếu không có Phật hoặc Bích chi phật xuất thế, thì lúc vị trời Sắc cứu cánh nói pháp giải thoát, người ấy nghe xong, liền được giải thoát phần. Thiện nam tử! Thuở xa xưa, khi ta mới phát tâm, đều không gặp Phật hoặc Bích
chi phật, nghe trời Tịnh cư nói pháp giải thoát, nghe xong ta liền phát tâm Bồ đề.
J3. Hạng người được giải thoát
Thiện nam tử! Pháp giải thoát như vậy, không phải các trời cõi Dục có thể chứng được. Vì sao? Vì họ buông lung ngũ dục. Cũng không phải các trời cõi Sắc có thể chứng được. Vì sao? Vì họ không có ba phương tiện. Lại cũng chẳng phải là chỗ chứng ngộ của trời cõi Vô sắc. Vì sao? Vì không thân, khẩu. Mà pháp thể ấy chính là thân, khẩu, ý. Người ở châu Bắc câu lô cũng không thể chứng được. Vì sao? Vì không có ba phương tiện. Chỉ có ba hạng người được giải thoát phần, đó là Thanh văn, Duyên giác, và Bồ tát. Chúng sinh nếu gặp được thiện tri thức thì có thể chuyển đổi giải thoát Thanh văn thành giải thoát Bích chi phật, chuyển đổi giải thoát Bích chi phật thành giải thoát Bồ tát. Giải
thoát phần của Bồ tát thì không còn thoái chuyển hoặc hư hoại.
I3. Hỏi hành tướng của sự giải thoát
J1. Chánh thức nêu rõ hành tướng của sự chứng đắc
- Kính bạch Đức Thế Tôn, người thuyết pháp làm thế nào để biết rõ người nào được giải thoát phần, người nào chưa được giải thoát phần?
- Thiện nam tử! Có hai hạng người được giải thoát phần, đó là Bồ tát tại gia và Bồ tát xuất gia. Hai hạng người đó chí tâm nghe pháp, nghe xong liền thọ trì. Nghe sự khổ của ba đường ác, tâm sinh sợ hãi, lông tóc dựng đứng, nước mắt tuôn trào, phát lòng kiên quyết thọ trì trai giới, cho đến tội rất nhỏ cũng không dám phạm. Nên biết người ấy là người được giải thoát phần.
J2. Nêu rõ về người được giải thoát
K1. Căn cứ trên năm nẻo nêu rõ sự giải thoát
Thiện nam tử! Ngoại đạo tuy được định Phi tưởng phi phi tưởng, sống lâu vô lượng kiếp, nếu không được giải thoát phần, nên quán sát rằng họ chỉ là người địa ngục. Lại nếu có người tuy ở địa ngục A tỳ lâu vô lượng kiếp, chịu tất cả sự thống khổ khốc liệt nhất, nhưng nếu được giải thoát phần, nên quán sát người ấy như người cõi Niết bàn. Thiện nam tử! Vì thế ta đối với ông Uất Đầu Lam Phất sinh tâm thương xót, còn đối với Đề Bà Đạt Đa thì không lo lắng gì cả.
K2. Căn cứ trên ba Thừa nêu rõ sự giải thoát
Thiện nam tử! Như ông Xá Lợi Phất trong sáu vạn kiếp cầu Đạo Bồ đề, sở dĩ bị thoái chuyển là vì chưa được giải thoát phần. Dù thế, căn cơ vẫn còn hơn hàng Duyên giác lợi căn.
Thiện nam tử! Giải thoát phần có ba bậc: hạ, trung và thượng. Bậc hạ là Thanh văn, bậc trung là Duyên giác, bậc thượng tức là chư Phật.
Thiện nam tử! Có người chuyên cần cầu giới Ưu bà tắc trong vô lượng kiếp, tuy y như điều đã nghe mà thực hành nhưng vẫn không được giới. Có người xuất gia cầu giới Tỳ kheo, giới Tỳ kheo ni trong vô lượng kiếp, y như điều đã nghe mà thực hành nhưng cũng chẳng được giới. Vì sao? Vì không được giải thoát phần. Họ chỉ có thể được gọi là tu tập giới luật mà không thể gọi là nghiêm trì giới luật.
Thiện nam tử! Nếu các vị Bồ tát được giải thoát phần, không còn tạo nghiệp cầu sinh ba cõi mà thường nguyện sinh vào nơi nào có thể làm được lợi ích cho chúng sinh. Nếu biết chắc mình có nghiệp sinh về cõi trời, liền hồi hướng nghiệp ấy cầu sinh cõi người. Nghiệp ấy chính là bố thí,
trì giới và tu định. Thiện nam tử! Nếu Thanh văn được giải thoát phần, không quá ba đời sẽ được giải thoát. Bậc Bích chi phật cũng thế. Các vị Bồ tát được giải thoát phần, dù trải qua vô lượng thân, nhưng luôn luôn không thoái chuyển. Tâm không thoái chuyển này vượt quá tất cả Thanh văn, Duyên giác.
Thiện nam tử! Nếu được giải thoát phần như vậy, tuy ít bố thí mà vẫn được vô lượng quả báo lành. Ít trì giới, ít nghe pháp cũng giống như vậy. Người ấy tuy ở trong ba đường ác nhưng không bị thọ khổ như chúng sinh ở trong ba cõi đó. Các vị Bồ tát được giải thoát phần như vậy được gọi là Điều nhu địa. Vì sao gọi là Điều nhu địa? Vì tất cả phiền não dần dần trở nên yếu thế. Cũng được gọi là nghịch dòng sinh tử.
Thiện nam tử! Có bốn hạng người: một là thuận dòng sinh tử, hai là nghịch
dòng sinh tử, ba là không thuận không nghịch, bốn là đến bờ bên kia.
Thiện nam tử! Giải thoát phần này đối với hàng Thanh văn gọi là Nhu nhuyễn địa, đối với Bồ tát cũng gọi là Nhu nhuyễn, lại gọi là Hoan hỉ địa. Vì nghĩa nào mà gọi là Hoan hỉ địa? Vì nghe Pháp nên không bị thoái chuyển. Lại còn gọi là Bồ tát chân thực. Vì nghĩa nào mà gọi là Bồ tát chân thực? Vì thường làm cho chúng sinh khởi tâm giác ngộ. Các vị Bồ tát đó tuy biết rõ sách vở ngoại đạo, nhưng không thọ trì và cũng không dạy cho người khác. Họ không được gọi là người hoặc trời và cũng không thuộc vào năm nẻo. Đây gọi là tu hành đạo không chướng ngại.
J3. Gây tạo hạt giống Bồ đề
Thiện nam tử! Tâm Bồ đề có bốn hạt giống: một là không tham của cải, hai là
không tiếc thân mạng, ba là tu hạnh nhẫn nhục, bốn là thương xót chúng sinh.
Thiện nam tử! Có năm việc làm tăng trưởng hạt giống Bồ đề: một là không nên tự khinh, cho rằng mình không thể chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; hai là thọ khổ, tâm không hối hận; ba là siêng năng tu hành, chưa từng ngơi nghỉ; bốn là cứu vớt chúng sinh đang chịu vô lượng khổ não; năm là thường ca ngợi công đức vi diệu của Tam bảo. Người trí khi tu tập tâm Bồ đề, thường phải nên tu tập năm việc trên. Lại có sáu pháp làm cho hạt giống Bồ đề nảy nở tốt tươi tức là Bố thí Ba la mật, cho đến Bát nhã Ba la mật. Sáu pháp Ba la mật này do vì một việc mà được tăng trưởng, đó là sự không phóng dật. Bồ tát nếu phóng dật sẽ không tăng trưởng sáu pháp Ba la mật này. Nếu không phóng dật thì sẽ tăng trưởng.
Thiện nam tử! Bồ tát khi cầu Bồ đề, lại có bốn việc: (1) một là gần gũi bạn lành, (2) hai là tâm bền chắc không lay chuyển, (3) ba là có thể làm những hạnh khó làm, (4) bốn là thương xót chúng sinh. Lại có bốn việc: (5) một là thấy người khác được lợi ích, tâm sinh vui mừng; (6) hai là thường vui vẻ khen ngợi công đức của người khác; (7) ba là thường thích tu tập pháp lục niệm; (8) bốn là siêng nói đến lỗi lầm của sinh tử. Thiện nam tử! Thật là phi lý nếu có người nói rằng không có tám pháp này mà được Bồ đề. Thiện nam tử! Bồ tát khi vừa phát tâm Vô thượng Bồ đề thì liền được gọi là ngôi Phước điền Vô thượng. Vị Bồ tát đó đã vượt lên tất cả sự vật thế gian và tất cả chúng sinh.
J4. Nêu rõ Phật đạo khó được
Thiện nam tử! Tuy có người cho rằng trong vô lượng thế giới có vô lượng Phật, thế nhưng Phật quả rất khó thành tựu. Vì
sao? Thế giới vô biên, chúng sinh vô biên, chư Phật cũng vô biên. Giả sử Phật quả dễ thành, một Đức Phật Thế Tôn phải có thể hóa độ tất cả chúng sinh, và nếu vậy, thế giới và chúng sinh đều có hạn lượng.
Thiện nam tử! Lúc Đức Phật ra đời, có thể độ chín vạn chín na do tha người, mỗi một vị đệ tử Thanh văn của Phật độ một na do tha chúng sinh, mà số chúng sinh vẫn không thể độ hết được, vì thế gọi là vô biên. Do đó, trong kinh điển Thanh văn, ta nói không có mười phương chư Phật. Vì sao? Vì sợ chúng sinh xem thường con đường tu tập của chư Phật. Con đường tu tập của chư Phật không bị bao hàm trong các pháp thế gian. Bởi vậy, lời của Như Lai không phải hư vọng. Như Lai không có tâm ghen ghét. Chỉ bởi vì Phật quả khó thành nên ta nói rằng không có chư Phật ở mười phương.
Thiện nam tử! Vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ đề mà không thể tu hành thành tựu đạo Bồ tát. Giả sử có người hỏi: “Nếu hiện tại có vô lượng chư Phật, tại sao trong kinh chỉ nói hai đời quá khứ và vị lai có vô lượng Phật, mà không nói hiện tại có vô lượng Phật?” Thiện nam tử! Ta nói trong một quốc độ, đời quá khứ và vị lai có vô lượng Phật, còn đời hiện tại chỉ có một Đức Phật mà thôi. Thiện nam tử! Người nào thấu rõ nghĩa chân thật sẽ thành tựu Phật đạo. Tuy vô lượng chúng sinh tu hành Phật đạo, phần lớn đều thoái chuyển. Nếu có một người thành tựu giải thoát, người đó hiếm có, giống như hoa Yêm La kết trái, hoặc như trứng cá chuyển biến thành cá lớn.
J5. Hiển rõ sự thù thắng của Bồ tát tại gia
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia được giải thoát phần, điều đó không
khó. Bồ tát tại gia được giải thoát phần, điều này rất khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc. 5. Ba Loại Bồ đề.
E2. Khuyến thù thắng nguyện riêng biệt
F1. Nêu rõ sự thù thắng khuyến phát tâm
G1. Nêu rõ ba loại Bồ đề khuyến phát tâm
H1. Thiện Sinh hỏi
Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Như Đức Thế Tôn đã nói Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ đề có ba loại: Thanh văn Bồ đề, Duyên giác Bồ đề, và Phật Bồ đề. Nếu thành tựu Bồ đề được gọi là Phật, tại sao Thanh văn, Bích chi phật không được gọi là Phật? Nếu người giác ngộ pháp tính được gọi là Phật, Thanh văn, Duyên giác cũng giác ngộ pháp tính, tại sao không được gọi là Phật? Nếu người chứng được Nhất thiết trí được gọi là Phật, Thanh văn, Duyên giác cũng chứng được Nhất thiết trí, tại sao không được gọi là Phật? Ở đây nói Nhất thiết trí tức là bốn Thánh đế.”
H2. Như Lai trả lời
I1. Trả lời căn cứ theo ba nghĩa của câu hỏi
- Thiện nam tử! Bồ đề có ba loại: một là từ sự nghe Pháp mà chứng được, hai là từ sự tư duy mà chứng được, ba là từ sự tu hành mà chứng được. Thanh văn từ sự nghe Pháp mà ngộ được nên không gọi là Phật. Bích chi phật từ sự tư duy mà chứng được ít phần nên gọi là Bích chi phật. Chư Phật là bậc không thầy, không nhờ nghe Pháp hoặc tư duy, chỉ do sự tu hành mà giác ngộ tất cả nên gọi là Phật. Thiện nam tử! Vì thấu rõ pháp tính nên gọi là Phật. Pháp tính có hai loại: một là tổng tướng, hai là biệt tướng. Hàng Thanh văn chỉ biết tổng tướng nên không gọi là Phật. Bích chi phật, tuy đồng với Thanh văn biết tổng tướng, nhưng không phải do sự nghe Pháp, nên gọi là Bích chi phật. Đức Như Lai Thế Tôn thấu rõ tất cả tổng tướng, biệt tướng, không do sự nghe Pháp, tư duy, không nương vào thầy, chỉ nương vào sự tu hành mà được giác ngộ.
Thiện nam tử! Thanh văn, Duyên giác tuy biết rõ bốn Thánh đế, nhưng trí tuệ chưa viên mãn, do nghĩa này nên không gọi là Phật. Đức Như Lai Thế Tôn trí tuệ viên mãn, biết tất cả các pháp, nên gọi là Phật.
I2. Nêu thêm tám việc để nêu rõ
Thiện nam tử! Như ba con thú: thỏ, ngựa và hương tượng, lội qua sông Hằng, chân thỏ không chạm đến đáy sông, nổi trên mặt nước mà bơi qua, chân ngựa thì có lúc chạm đến đáy sông, có lúc không chạm, chân hương tượng thì lúc nào cũng chạm đến đáy sông. Ở đây, sông Hằng tượng trưng dòng sông Mười hai nhân duyên. Khi hàng Thanh văn vượt qua dòng sông Mười hai nhân duyên, cũng giống như thỏ qua sông; khi hàng Duyên giác vượt qua, cũng giống như ngựa qua sông; khi Đức Như Lai vượt qua, cũng giống
như loài hương tượng qua sông, vì thế Đức Như Lai được gọi là Phật. Thanh văn, Duyên giác tuy đoạn phiền não, nhưng chưa đoạn tập khí, còn Đức Như Lai đã nhổ tận gốc của tất cả phiền não và tập khí, nên gọi là Phật. Thiện nam tử! Sự nghi có hai loại: một là phiền não nghi, hai là vô ký nghi. Hàng Nhị thừa tuy đoạn được phiền não nghi, nhưng chưa đoạn được vô ký nghi. Như Lai đoạn hết cả hai sự nghi nên gọi là Phật.
Thiện nam tử! Thanh văn chán sự đa văn, Duyên giác nhàm sự nghĩ sâu, chỉ có Đức Phật đối với hai việc này, tâm không nhàm chán, bởi thế nên gọi là Phật. Ví như vật sạch để trong đồ đựng sạch, trong ngoài đều sạch. Thanh văn, Duyên giác, trí tuệ tuy thanh tịnh, nhưng thân tâm không thanh tịnh. Như Lai không phải thế, trí tuệ và thân tâm đều thanh tịnh, thế nên gọi là Phật. Thiện nam tử! Sự thanh tịnh có hai loại: một là trí tuệ thanh tịnh, hai là đức
hạnh thanh tịnh. Thanh văn, Duyên giác tuy có trí tuệ thanh tịnh, nhưng đức hạnh không thanh tịnh. Đức Như Lai Thế Tôn trí tuệ, đức hạnh đều thanh tịnh, nên gọi là Phật.
Thiện nam tử! Công hạnh của Thanh văn, Duyên giác có giới hạn, còn công hạnh của Đức Như Lai Thế Tôn thì không có giới hạn, thế nên gọi là Phật. Thiện nam tử! Đức Như Lai Thế Tôn trong một niệm trừ diệt hai chướng: một là trí chướng, hai là giải thoát chướng, thế nên gọi là Phật. Đức Như Lai đầy đủ trí nhân và trí quả nên gọi là Phật.
I3. Nêu rõ tổng quát công đức của Phật
J1. Chỉ tổng quát công đức của Phật
Thiện nam tử! Đức Như Lai nói Pháp, không có hai lời, cũng không lầm lẫn, trí tuệ vô ngại, biện tài vô ngại, đầy đủ nhân trí, thời trí, tướng trí. Đức Như Lai không có che dấu, không cần ai che chở, cũng
không ai có thể nói lỗi. Đức Như Lai biết hết phiền não của chúng sinh, nhân duyên khởi phiền não, cùng nhân duyên diệt phiền não. Đức Như Lai không bị tám pháp thế gian làm ô nhiễm, và có lòng thương thấm thiết, cứu vớt chúng sinh khổ não. Đức Như Lai đầy đủ mười Lực, bốn pháp Vô úy, tâm Đại bi, ba Niệm, cùng sức lực của thân tâm thảy đều viên mãn.
J2. Trình bày riêng biệt thân lực và tâm lực
Thiện nam tử! Sức lực của thân tâm đều viên mãn là thế nào? Ví như trời Đao Lợi có một thành lớn tên Thiện Kiến. Thành ấy bề rộng mười vạn dặm, có trăm vạn cung điện. Số các vị trời ở trong thành có đến một ngàn không trăm sáu mươi sáu vạn sáu ngàn sáu trăm sáu mươi sáu (10,666,666). Trong ba tháng mùa hạ, vua Đế Thích muốn đến rừng Ba Lợi Chất Đa du ngoạn. Trên núi Kiền Đà, có con hương tượng bảy đầu tên Y La Bát Na. Vua Đế
Thích vừa động niệm thì voi kia đã biết, và liền đến chỗ Đế Thích. Tất cả các vị trời trong thành đều ngồi trên đầu voi đến rừng Ba Lợi Chất Đa, cách thành khoảng năm mươi do tuần để du ngoạn. Sức mạnh của voi Y La Bát Na hơn tất cả các hương tượng. Giả sử tụ tập một vạn tám ngàn thớt voi như Y La Bát Na, sức mạnh đó chẳng qua chỉ bằng sức lực của một lóng tay của đức Phật. Phải nên biết rằng sức mạnh của thân Phật hơn tất cả sức lực của chúng sinh. Thế giới không ngằn mé, chúng sinh không ngằn mé, tâm lực của Đức Như Lai cũng không ngằn mé. Bởi vậy chỉ có Đức Như Lai được tôn xưng là Phật, mà chẳng phải hàng Nhị thừa có thể được xưng là Phật.
J3. Nêu rõ các đức hiệu
Và cũng vì thế mà Đức Như Lai được tôn xưng là bậc Vô Thượng Sư, bậc Đại Trượng Phu, là Hương Tượng, Sư Tử,
Long Vương trong loài người, là bậc Điều Ngự, bậc Đạo Sư, là bậc Đại Thuyền Sư, là bậc Đại Y Sư, là Vua trong loài Đại Ngưu, là Ngưu Vương trong loài người, cũng gọi là Liên Hoa Thanh Tịnh, là bậc Không Thầy Tự Ngộ, là Nhãn Mục cho chúng sinh. Lại cũng gọi là bậc Đại Thí Chủ, Đại Sa Môn, Đại Bà La Môn. Là bậc trì giới, tâm trí tịch tĩnh, tinh tiến tu hành, đã đến bờ bên kia, và đạt đến giải thoát rốt ráo.
J4. Kết luận Thanh văn, Duyên giác không thể so sánh được
Thiện nam tử! Hàng Thanh văn, Duyên giác tuy đã được Bồ đề, đều không được những việc như trên. Bởi thế, chỉ có những bậc đầy đủ đức hạnh như trên mới được tôn xưng là Phật.
I4. Kết luận Bồ tát tại gia thù thắng
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia phân biệt ba loại Bồ đề này không khó. Bồ tát tại gia phân biệt ba loại Bồ đề như vậy mới khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc. 6. Tu Tập Nghiệp Ba Mươi Hai Tướng
G2. Khuyến phát tâm tu nghiệp ba mươi hai tướng
H1. Thiện Sinh hỏi tiếp
Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Khi nào Bồ tát thành tựu được thân lực?”
H2. Như Lai nói tổng quát
I1. Chánh thức trả lời thành tựu thân lực
Đức Phật bảo Thiện Sinh: “Thiện nam tử! Lúc bắt đầu tu nghiệp ba mươi hai tướng.”
I2. Nêu rõ tổng quát công đức tu ba mươi hai tướng
J1. Nêu rõ sơ lược công đức
Thiện nam tử! Hành giả lúc tu tập hạnh nghiệp như vậy được gọi là Bồ tát. Vị Bồ tát này được hai tam muội: một là tam muội giải thoát, hai là tam muội hiện
hữu trong ba cõi. Lại được hai tam muội: một là tam muội biết đời quá khứ, hai là tam muội sinh ra nhân của Chánh pháp. Thiện nam tử! Bồ tát lúc bắt đầu tu tập hạnh nghiệp ba mươi hai tướng cho đến lúc thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trong khoảng trung gian, nghe nhiều Phật pháp không biết nhàm chán. Bậc Đại Bồ tát khi tu hành nghiệp ba mươi hai tướng, lúc tu mỗi tướng đều đem trăm phước trang nghiêm. Khi tu tập tâm Bồ đề được năm mươi phước, và đến khi viên mãn lại được thêm năm mươi phước. Vì thế gọi là một trăm phước đức.
J2. So sánh hiển thị công đức
Thiện nam tử! Tất cả phước đức của thế gian không bằng công đức của một lỗ chân lông của Đức Như Lai. Công đức của tất cả chân lông của Đức Như Lai không bằng công đức của một hảo trong tám mươi hảo. Tụ hợp tất cả công đức của tám
mươi hảo không bằng công đức của một tướng trong ba mươi hai tướng. Tất cả công đức của các tướng không bằng công đức của tướng Bạch hào. Công đức của tướng Bạch hào lại không bằng công đức của tướng Vô kiến đỉnh.
J3. Đề xuất hạng người tu tập ba mươi hai tướng
Thiện nam tử! Bồ tát thường ở trong vô lượng kiếp, vì chư chúng sinh làm lợi ích lớn. Chí tâm siêng năng làm tất cả nghiệp lành. Vì thế Đức Như Lai thành tựu đầy đủ vô lượng công đức. Ba mươi hai tướng đó tức là quả báo của tâm Đại bi. Chuyển luân thánh vương tuy cũng có ba mươi hai tướng, nhưng không được rõ ràng và hoàn bị như của đức Phật. Nghiệp thể của ba mươi hai tướng đó tức là thân, khẩu, ý. Chỉ có người ở ba châu: Đông thắng thần châu, Nam thiệm bộ châu, và Tây ngưu hóa châu, mới có thể tu nghiệp ba mươi hai tướng đó, chứ không phải
chúng sinh cõi trời, hay người ở Bắc câu lô châu. Vả lại, phải là thân người nam, không phải là thân người nữ, mới được ba mươi hai tướng này. Các vị Đại Bồ tát tu nghiệp ba mươi hai tướng được viên mãn, tức là viên mãn ba A tăng kỳ kiếp, sẽ chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
J4. Chỉ rõ thời gian tu ba mươi hai tướng
Thiện nam tử! Khi xưa ta ở nơi Đức Phật Bảo Đỉnh, viên mãn A tăng kỳ kiếp thứ nhất; ở Đức Phật Nhiên Đăng, viên mãn A tăng kỳ kiếp thứ hai; ở Đức Phật Ca Diếp, viên mãn A tăng kỳ kiếp thứ ba. Thiện nam tử! Ta ở Đức Cổ Phật Thích Ca Mâu Ni mới bắt đầu phát tâm Vô thượng Bồ đề. Sau khi phát tâm, ta đã cúng dường chư Phật nhiều như số cát trong vô lượng sông Hằng, trồng các căn lành, tu tập đạo hạnh, gìn giữ giới luật, siêng năng và nghe nhiều Phật pháp. Thiện nam tử! Bậc Đại Bồ tát sau khi tu nghiệp ba mươi hai tướng
ấy, tự biết mình sẽ chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, rõ ràng như xem quả Am ma lặc trong lòng bàn tay. Nghiệp ba mươi hai tướng tuy cố định, nhưng khi tu tập các nghiệp này, không cần phải theo thứ tự nhất định.
I3. Nêu rõ riêng biệt thứ tự tu tập nghiệp ba mươi hai tướng
J1. Nói khái quát trước tiên phải tu tướng nào
(1) Hoặc có người nói Đức Như Lai trước được tướng con mắt như mắt Ngưu Vương. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, thường đem cặp mắt hiền từ nhìn chúng sinh, vì thế nên được tướng mắt như Ngưu Vương, kế đó được các tướng khác. (2) Hoặc có người nói Đức Như Lai trước được tướng tám thứ Phạm âm, kế đó được các tướng khác. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, thường dùng lời nhỏ nhẹ, lời chào đón, lời chân thật dạy dỗ chúng sinh, vì thế nên trước được tám thứ Phạm Âm. (3) Hoặc
có người nói, Đức Như Lai trước được tướng Vô kiến đỉnh, kế đó được các tướng khác. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, cúng dường sư trưởng, chư Phật, Bồ tát, cúi đầu lễ bái, phá tâm kiêu mạn, vì thế nên trước được tướng Vô kiến đỉnh. (4) Hoặc có người nói, Đức Như Lai trước được tướng lông Bạch hào, kế đó được các tướng khác. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, đã không dối gạt tất cả chúng sinh, vì thế nên trước được tướng lông Bạch hào. Trừ Đức Phật Thế Tôn, không người nào có thể nói rành rẽ nghiệp của các tướng đó như vậy.
J2. Chánh thức nói thứ tự tu tập ba mươi hai tướng
Hoặc có người theo thứ lớp nói rằng: (1) Đức Như Lai trước được tướng lòng bàn chân bằng phẳng, kế đó được các tướng khác. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời bố thí, giữ giới, tu tập đạo hạnh, tâm không lay động, thế nên
trước được tướng lòng bàn chân bằng phẳng. (2) Được tướng ấy rồi, kế được lòng bàn chân có tướng bánh xe ngàn căm. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời cúng dường cha mẹ, sư trưởng, bạn lành, đúng như pháp mà ủng hộ tất cả chúng sinh, thế nên lòng bàn chân, bàn tay đều có tướng bánh xe ngàn căm. (3) Được tướng ấy rồi, kế được tướng ngón tay thon dài. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, chí tâm thọ trì giới Ưu bà tắc thứ nhất và thứ tư, thế nên được tướng ngón tay thon dài và tướng bàn chân dài. (4) Được tướng ấy rồi, kế được tướng thân thể đầy đặn. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, tùy thuận lời dạy của sư trưởng, cha mẹ, bạn lành, thế nên được tướng thân thể đầy đặn. (5) Được tướng ấy rồi, kế được tướng màn lưới giữa các ngón tay và chân. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, đem pháp Tứ nhiếp nhiếp thọ chúng sinh, thế nên được tướng màn lưới giữa các ngón tay và chân. (6) Được tướng ấy rồi, kế được tướng tay chân mềm mại hơn các
tướng khác của thân thể. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời dùng tay thoa bóp, tắm rửa thân thể của cha mẹ, sư trưởng, làm sạch cấu nhơ, lại dùng dầu thơm thoa xức, thế nên được tướng tay chân mềm mại. (7) Được tướng ấy rồi, kế được tướng lông trên thân đều xoay về phía phải và hướng lên. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời thường dạy dỗ chúng sinh, khiến tu bố thí, giữ giới và làm các việc lành, thế nên được tướng lông xoay về phía phải và hướng lên. (8) Được tướng ấy rồi, kế được tướng bắp đùi như Lộc vương. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, chí tâm nghe Pháp, chí tâm nói Pháp, vì muốn phá tan các tội lỗi sinh tử, thế nên được tướng bắp đùi như Lộc vương. (9) Được tướng ấy rồi, kế được tướng thân tròn trịa, như cây Ni câu đà. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời thường bố thí thuốc men cho tất cả chúng sinh có bệnh, thế nên được tướng thân thể tròn trịa. (10) Được tướng ấy rồi,
kế được tướng cánh tay dài quá đầu gối. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, không bao giờ lừa dối tất cả hiền thánh, cha mẹ, sư trưởng, bạn bè, cùng bậc thiện tri thức, thế nên được tướng cánh tay dài quá đầu gối. (11) Được tướng ấy rồi, kế được tướng Âm tàng của Tượng vương, Mã vương. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời thấy người sợ hãi liền che chở, nâng đỡ họ, thường sinh tâm hổ thẹn, không nói lỗi người, lại khéo che tội cho họ, thế nên được tướng Âm tàng như vậy. (12) Được tướng ấy rồi, kế được tướng thân mềm mại, mỗi chân lông chỉ mọc một sợi lông. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời gần gũi người trí, ưa nghe và đàm luận Chánh pháp, nghe xong vui vẻ tu hành, lại hay sửa sang đường sá, nhặt dọn gai góc, thế nên được tướng da thịt mịn màng, mỗi chân lông mọc một sợi lông. (13) Được tướng ấy rồi, kế được tướng thân màu hoàng kim. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời thường bố thí chúng
sinh nhà cửa, giường chiếu, thức ăn, đèn đuốc, thế nên được tướng thân màu hoàng kim. (14) Được tướng ấy rồi, kế được tướng bảy chỗ trên thân tròn đầy. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời, dù chỗ đáng giận cũng không sinh lòng giận, vui vẻ bố thí những gì mà chúng sinh mong muốn, thế nên được tướng bảy chỗ trên thân tròn đầy. (15) Được tướng ấy rồi, kế được tướng chỗ những khớp xương đều viên mãn. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời khéo phân biệt tướng lành dữ, lời nói không sai lầm, không nói lời vô nghĩa, thường nói pháp thích hợp với căn cơ chúng sinh, nếu không thì không nói, thế nên được tướng chỗ những khớp xương viên mãn. (16), (17) Được tướng ấy rồi, kế được hai tướng: một là thân trên, hai là hai má, đều như tướng của sư tử. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời tự mình không nói đâm thọc, lại dạy người khác không nói đâm thọc, thế nên được hai tướng như thế. (18), (19),
(20) Được tướng ấy rồi, kế được ba tướng: một là có bốn mươi cái răng, hai là răng thật trắng, ba là răng mọc khít và bằng nhau. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời dùng pháp Thập thiện giáo hóa, chúng sinh thọ rồi, tâm sinh vui mừng, lại thường ưa ca tụng công đức người khác, thế nên được ba tướng như vậy. (21) Được tướng ấy rồi, kế được tướng bốn răng nanh trắng sạch. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời tu tập tâm từ bi của cõi Dục, thường hay suy ngẫm pháp lành, thế nên được tướng bốn răng nanh trắng sạch. (22) Được tướng ấy rồi, kế được tướng vị giác thù thắng nhất. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời không đợi người xin rồi sau mới bố thí, thế nên được tướng vị giác thù thắng nhất. (23), (24) Được tướng ấy rồi, kế được hai tướng: một là tướng nhục kế, hai là tướng lưỡi rộng dài. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời chí tâm thọ trì pháp Thập thiện, đồng thời giáo hóa chúng sinh, thế
nên được hai tướng như thế. (25) Được tướng ấy rồi, kế được tướng Phạm âm. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời tự mình không nói lời ác, dạy dỗ người khác không nói lời ác, thế nên được tướng Phạm âm. (26) Được tướng ấy rồi, kế được tướng cặp mắt xanh biếc như Ngưu vương. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời đem cặp mắt từ ái nhìn chúng sinh, thân thù bình đẳng, thế nên được tướng cặp mắt xanh như Ngưu vương. (27) Được tướng ấy rồi, kế được tướng Bạch hào. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời giảng nói Chánh pháp, chân thật không hư dối, thế nên được tướng Bạch hào. (28) Được tướng ấy rồi, kế được tướng Vô kiến đỉnh. Vì sao? Lúc tu hạnh Bồ tát, trong vô lượng đời thường cung kính lễ bái tất cả Hiền thánh, sư trưởng, cha mẹ, tôn trọng, ca ngợi, cung kính, cúng dường, thế nên được tướng Vô kiến đỉnh.
I4. Kết luận Bồ tát tại gia thù thắng
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia tu nghiệp như vậy không khó, Bồ tát tại gia tu nghiệp như vậy mới khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.141.38.5 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.