Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
PHÁP TRÌ TỤNG CỦA TÔN NA
PHẦN THỨ SÁU ( Chi hai )
Tiếp lại kết Như Lai Bộ Tam Muội Ấn. Hai tay nắm quyền duỗi ngón cái thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Như Lai Bộ Tam Muội Minh lúc trước để ủng hộ.
Tiếp kết Tôn Na Bồ Tát Căn Bản Ấn. Hai tay nắm quyền, 2 ngón giữa như cây kim, đặt 2 ngón trỏ ở lóng ngón giữa, đặt 2 ngón cái bên cạnh ngón trỏ rồi đặt trên đỉnh đầu thì thành Ấn. Lúc kết Ấn này thời tụng Tôn Na Bồ Tát Căn Bản Đại Minh , ở ngay thân của mình làm đại ủng hộ. Hành Nhân vào lúc kết Ấn tụng Minh sẽ được Tôn Na Bồ Tát vui vẻ nhìn ngó.
Tiếp kết Đầu Ấn : Chắp 2 tay lại, co 2 ngón cái vào trong lòng bàn tay thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Đầu Đại Minh là:
“Án _ Tôn, ngật-lị”
( OMÏ _CUNÕ HRÌHÏ
Tiếp kết Đỉnh Ấn : Dùng Ấn lúc trước, sửa ngón cái phải vịn lóng giữa của ngón giữa phải thì thành Ấn. Tùy theo Ấn tụng Đỉnh Đại Minh là:
“ Án, Tôn, hồng”
( OMÏ _ CUNÕ HÙMÏ
Tiếp kết Tâm Ấn ; Hai tay nắm quyền, hơi duỗi 2 ngón trỏ thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Tâm Đại Minh là:
“Án _ Tôn, phát tra”
( OMÏ_ CUNÕ PHATÏ
Tiếp kết Giáp Trụ Ấn : Dùng Đỉnh Ấn lúc trước, bung 2 bàn tay thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Giáp Trụ Đại Minh là:
“Án _ Tôn, mãn đà”
( OMÏ _ CUNÕ BANDHA
Tiếp kết Bản Bộ Mẫu Ấn cũng gọi là Phật Nhãn Ấn . Chắp 2 tay lại đỉnh lễ, co 2 ngón trỏ vịn lóng ngón giữa, co 2 ngón cái vào trong lòng bàn tay thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh lúc trước
Tiếp kết Bản Bộ Tôn Ấn . Đưa 2 ngón vô danh vào lòng bàn tay lay động. Tiếp để 2 ngón giữa như cây kim, duỗi thẳng 2 ngón trỏ đặt ỡ lưng ngón giữa, duỗi 2 ngón cái đặt ở lóng thứ nhất của ngón giữa thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Bản Bộ Đại Minh là:
“ Nẵng mạc tam mãn đà một đà nẫm. Câu la hột-lị, câu la hột-lị na dã”
( NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ _ KULA HRÌHÏ _ KULA HRÏDAYA
Tụng Minh này xong. Lấy cái bát thật sạch chứa đầy nước thơm. Lại dùng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh 7 biến ,ở Đạo Trường bắt đầu từ góc Đông Bắc rảy tịnh 4 phương và Phát Khiển Ma Chướng
Tiếp kết Thỉnh Triệu Ấn . Dùng Căn Bản Ấn lúc trước, sửa 2 ngón cái co như móc câu thì thành Ấn. Dùng Ấn này Thỉnh Triệu Hiền Thánh. Tùy theo Ấn, tụng Thỉnh Triệu Đại Minh là:
“I tứ, bà nga phộc đế, tôn na đà la ni. A nga tha, a nga tha, ma ma, bạc khất đát-dã đát, tam ma duệ nẵng tả lị già, bát la đế thế nan, bát la tế na mi”
( EHI BHAGAVATI CUNÕDHE DHÀRANÏI _ AGCCHA AGACCHA MAMA PAKSÏÀYATÀ SAMAYE DA’SA ÀRGHA PRATICCHANÀMÏ PRATICCHA ME
Tụng Minh này xong. Tưởng các Hiền Thánh tùy theo lời Triệu đi đến. Liền tụng Cam Lộ Quân Trà Lợi an trú Hiền Thánh xong.
Tiếp kết Tam Muội Ấn và tụng Hiến Hiền Thánh Tòa Đại Minh. Tam Muội Ấn là: Tay phải đem ngón cái đè móng ngón trỏ, các ngón còn lại như tướng Kim Cương thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Tam Muội Đại Minh là:
“Án _ Thương yết lị, tam ma duệ, sa phộc hạ”
( OMÏ _ SAMÏKARE SAMAYE _ SVÀHÀ
Tụng Minh này xong, Hành Nhân liền nói:” Nguyện xin Bồ Tát ngồi ở chỗ này xong, an trú Đạo Trường nhận sự cúng dường của con”
Tiếp tụng Bản Bộ Đại Minh 7 biến gia trì vào nước thơm dùng làm Ứ Già. Tụng Bản Bộ Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A lị-già bà nga phộc đế, bát la đế tha, sa phộc hạ”
( OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE ÀRGHA BHAGAVATI PRATICCHA _ SVÀHÀ
Tiếp kết Căn Bản Ấn . Mật kết 2 ngón cái duổi thẳng đặt ngang bằng thì thành Ấn và tụng Đại Minh 3 biến gia trì vào nước Ứ Già lúc trước. Sau đó ở bên mặt Đông, quỳ gối dâng hiến Hiền Thánh. Đại Minh là:
“Án _ Ca ma la, sa phộc hạ”
( OMÏ_ KAMALA _ SVÀHÀ
Hiến Ứ Già xong, lại dùng Cam Lộ Quân Trà Lợi Ấn và tụng Cam Lộ Quân Trà Lợi Đại Minh kết Kim Cương Giới ( Vajra Dhàtu ) làm ủng hộ.
Tiếp kết Thập Phương Giới . Đặt 2 bàn tay song song nhau. Trước tiên đem ngón giữa phải, ngón vô danh phải với ngón trỏ trái đặt ở lóng thứ nhất của ngón út trái. Lại đem ngón giữa trái, ngón vô danh trái với ngón trỏ phải đặt ở lóng thứ nhất của ngón út phải. Ngón trỏ, ngón út còn lại như cây kim. Lại đem ngón cái đât ở lóng thứ nhất của ngón trỏ thì thành Ấn. Lúc kết Ấn này , tùy theo Ấn tụng Kết Thập Phương Kim Cương Giới Đại Minh là:
“La đát nẵng, bát la nẵng đế. Aùn_ Sa la sa la, phộc nhật-la , bát la ca la, hồng, phát tra, sa-phộc hạ”
( RATNA VAJRA NADI_ OMÏ SARA SARA _ VAJRA PRAKARA HÙMÏ PHATÏ _ SVÀHÀ
Tiếp kết Kim Cương Bán Nhạ La Ấn. Liền dùng Ấn lúc trước, tách ngón cái ra thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Bán Nhạ La Đại Minh là:
“ La đát nẵng phộc nhật la nẵng đế. Aùn_ vĩ sa-phổ la lạc khất xoa, phộc nhật la bá la, hồng , phát tra”
( RATNA VAJRA NADI_ OMÏ_ VISPHURAD RAKSÏA _ VAJRA PAMÏJALA HÙMÏ PHATÏ
Tiếp kết Hạ Phương Kết Giới Ấn : Đùng Aánnhư lúc trước, sửa 2 ngón cái thẳng xuống bên dưới như cây kim thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Kết Hạ Phương Giới Đại Minh là:
“ La đát nẵng phộc nhật la nẵng đế. Aùn_ chỉ lị chỉ lị phộc nhật la, phộc nhật lị, bộ, vãn đạt nễ, hồng, phát tra”
( RATNA VAJRA NADI_ OMÏ KÌLIKÌLA VAJRA_ VAKRI BHUR BANDHANI HÙMÏ PHATÏ
Tiết kết Đại Ô Sắt Nị Sa Ấn . Đặt 2 tay song song nhau. Co 2 ngón vô danh vào lòng bàn tay, 2 ngón giữa như cây kim đặt ở lóng thứ ba của 2 ngón cái. Lại để ngón cái, ngón vô danh như cây kim đem ngón út đè lóng thứ ba. Lại để ngón út như cây kim đặt ở ngón trỏ như tướng Kim Cương thì thành Ấn. Tùy theo Ấn,tụng Ô Sắt Nị Sa Đại Minh là:
“Án _ Thương yếi lị, ma hạ tam ma duệ, sa-phộc hạ”
( OMÏ _ SAMÏKARE MAHÀ SAMAYE _ SVÀHÀ
Dùng Ấn với Đại Minh của nhóm như vậy tác Kết Giới xong. Hành Nhân hướng về Bản Tôn, Hiền Thánh cung kính làm lễ.
Tiếp kết Căn Bản Ấn. Co lóng giữa của 2 ngón cái thì thành Ấn. Kết Ấn này, tụng Đại Minh, quỳ gối hiến Ứ Già dùng rưới tắm Hiền Thánh. Đại Minh là:
“Án _ Tả, sa-phộc hạ”
( OMÏ _ CA _ SVÀHÀ
Tiếp kết Đồ Hương Ấn. Đem ngón cái phải đặt ở lóng thứ nhất của ngón trỏ phải, lại bung duỗi rộng thì thành Ấn. Kết Ấn này, tụng Đồ Hương Đại Minh là:
“Án, tôn, sa-phộc hạ”
( OMÏ_ CUNÕ _ SVÀHÀ
Tiếp kết Hoa Ấn. Tay phải đem ngón cái và lóng thứ nhất của ngón trỏ cùng vịn nhau thì thành Ấn. Dùng Ấn này hiến hoa,tụng Hoa Đại Minh là:
“Án _ Tôn, sa-phộc hạ”
( OMÏ_ CUNÕ _SVÀHÀ
Tiếp kết Hương Ấn. Đem ngón giữa và ngón cái của tay phải cùng vịn nhau thì thành Ấn. Dùng Ấn này hiến hương đốt, tụng Hương Đại Minh là:
“Án, lệ, sa-phộc hạ”
( OMÏ _ LE _ SVÀHÀ
Tiếp kết Đăng Ấn . Tay trái dem ngón cái đè lóng của ngón giữa thì thành Ấn. Kết Ấn này, tụng Hiến Đăng Đại Minh là:
“Án _ Nễ, sa-phộc hạ”
( OMÏ _ LE _ SVÀHÀ
Tiếp kết Xuất Sinh Ấn. Tay trái đem ngón cái đặt ở lóng thứ nhất của ngón giữa thì thành Ấn. Kết Ấn này hiến thức ăn. Tụng Hiến Thực Đại Minh là:
“Án _ Tổ, sa-phộc hạ”
( OMÏ _ CU _ SVÀHÀ
Như vậy kết Ấn , tụng Minh làm mọi thứ cúng dường phụng hiến tất cả Hiền Thánh trong Man Noa La xong.
Lại tác quán tưởng : Trong tất cả Thế Gian có bao nhiêu thứ vật cúng dường được nhìn thấy , nghe thấy , Hành Nhân vận Tâm đem cúng dường tất cả Hiền Thánh ở 10 phương.
Lại kết Phổ Cúng Dường Ấn.Trước tiên chắp tay đỉnh lễ xong, lại đem 10 ngón tay cùng cài chéo nhau thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Phổ Cúng Dường Đại Minh là:
“ Nẵng mạc tát lị-phộc một đà mạo địa tát đỏa nẫm. Tát lị-phộc tha, ổ nạp nga đế, sa bà la tứ hàm, nga nga nẵng kiếm, sa-phộc hạ”
( NAMAHÏ SARVA BUDDHA BODHISATVÀNÀMÏ
SARVATHÀ KHAMÏ UDGATE SPHARA HÌMAMÏ GAGANAKAMÏ _ SVÀHÀ
Như vậy cúng dường xong.
Tiếp dùng Kệ ca ngợi Tam Bảo với Đẳng của Quán Tự Tại, Kim Cương Thủ Bồ Tát.
Tán Phật là:
Đức Phật Đại Từ Bi
Điều phục các Hữu Tình
Trú biển Cong Đức Phước
Vì thế con tán lễ
Tán Pháp là:
Lìa dục, vui tịch tĩnh
Hay đoạn các nẻo ác
Thuần một Lý Chân Như
Vì thế con tán lễ
Tán Tăng là:
Kiên cố giữ Thi La ( ‘Sìla_ Giới Thanh Lương )
Chứng được Đạo Giải Thoát
Trú cõi Công Đức lớn
Vì thế con tán lễ
Tán chư Hiền Thánh là
Đát Noan nễ vĩ, tát bát đa nhĩ nẵng , câu đê, la tỳ bát la dụ nga
Nại dã sa đa , nại dã tha bát na dục đế nẵng, tả lệ tổ lệ nẵng
Dục khất đa ma thí sa nạp lị đa, bát la xá ma dã, tôn nễ
Sa hạ phộc đế , tam ma la, để đát tả câu đổ vĩ bát để
Tát lị phộc một đà duệ, bát la thiết sa dã, tam bột lị đá dã, ngu ni li ngu lỗ
A phộc lộ cát đa tắc nghê dã, dã nẵng mộ nĩnh đát dã,ma ha đát ma nễ
Ma hạ ma la dã, tán noa dã, vĩ nễ dã la nhạ dã, sa đạt duệ
Nạp lị nan đa ma ca dã, thất tả nẵng ma tất đế, phộc nhật la bá noa duệ
Lại nữa Hành Nhân tán thán như vậy xong. Lại nói lời Sám Hối là:” Đệ Tử ( Họ tên…. ) từ vô thủy cho đến nay, ở trong Luân Hồi tạo nghiệp chẳng lành, hoặc tự làm hoặc dạy người làm cho đến thấy nghe đều tùy vui với tất cả sự Bất Thiện. Nay đối trước Tam Bảo xin phát lộ sám hối. Từ nay trở đi, con xin phụng trì Cấm Giới chẳng dám làm điều ác nữa. Lại từ nay trở đi đối với hết thảy các Đại Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn cho đến tất cả chúng sinh đã làm Pháp Lành thì con đều tùy vui”
Nói xong liền kết Căn Bản Ấn , tụng Căn Bản Minh 3 biến. Hành Nhân lại chắp tay bạch rằng:” Con ( Họ tên…. ) đã mời chư vị đến để cúng dường. Nếu chẳng được đầy đủ, hoặc quên mất thứ tự chẳng y theo Pháp Tắc, cầu xin Bồ Tát với chúng Hiền Thánh Đại Từ Đại Bi vui vẻ bỏ qua cho”
Tiếp kết Ứ Già Ấn . Dùng Căn Bản Ấn lúc trước chỉ sửa ngón cái đặt ở lóng thứ nhất của ngón trỏ thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Ứ Già Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A lị-già, bà nga phộc đế, bát la đế tha, sa-phộc hạ”
( OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE _ ÀRGHA BHAGAVATI PRATICCHA _ SVÀHÀ
Lại nữa Hành Nhân quán tưởng thân của mình là Tôn Na Vồ Tát. Trước tiên kết Ấn, dùng 2 tay nắm Kim Cương Quyền. Đặt 2 ngón trỏ và ngón út như cây kim. Tiếp duỗi các ngón còn lại cũng như cây kim. Lúc kết Ấn này thì quán tưởng thân mình thành Tôn Na Bồ Tát.
Ở trên đỉnh đầu hiện chữ ÁN ( ) là Như Lai Ô Sắt Nị Xá ( Tathàgata Usïnïìsïa_ Như Lai Đỉnh )
Tiếp ở 2 con mắt hiện chữ TẢ ( ) thành Ô Sắt Nị Xá Đại Luân (Usïnïìisïa mahà cakra _ Đỉnh Đại Luân )
Tiếp ở trên cổ hiện chữ LỆ ( ) thành Bất Động Tôn Minh Vương (Acala vidyaràja ) tay cầm Loa với sợi dây
Tiếp ở trên trái tim hiện chữ TỐT ( ) thành Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokite’svara Bodhisatva )
Tiếp ở 2 cánh tay hiện chữ LỆ ( ) thành Quang Tích Minh Vương
Tiếp ở trong trái tim lại hiện chữ LỆ ( ) thành vị Hiền Thánh có 3 mắt. Tay cầm hoa sen, vòng dây, bình Quân Trì…
Tiếp ở trong lỗ rốn hiện chữ TỐT ( ? TÔN _ ) thành Bản Tôn Tôn Na Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva )
Tiếp ở 2 bắp vế hiện chữ NỄ ( ) thành Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajrapànïi Bodhisatva )
Tiếp ở trong 2 bắp chuối chân hiện chữ SA ( ) thành I Ca Nhạ Tra Bồ Tát ( Ekajatïà_ Nhất Kế Bồ Tát ) mặt có 3 mắt, 6 cánh tay, thân màu xanh, dùng da voi làm áo.
Tiếp ở 2 bàn chân hiện chữ HA ( ) thành Phộc Nhật La Nẵng Khế Bồ Tát ( Vajra dhàka Bodhisatva ) như màu pha lê.
Như vậy Quán Tưởng xong.
Tiếp liền Trì Tụng. Pháp Trì Tụng cũng có 2 thứ : Một là Vô Tướng, hai là Hữu Tướng
Vô Tướng Trì Tụng : Trước tiên kết Thiên Định Ấn , ngồi Kiết Già, ngay thẳng thân mình, lắng tâm, hơi cúi đỉnh đầu và cổ. Ở trên đầu lỗ mũi tưởng hơi thở ra vào chẳng mạnh chẳng yếu, chẳng chậm chẳng gấp. Tâm duyên vào Đại Minh chuyên chú trì tụng đừng để gián đoạn cũng đừng để cho Tâm có sự mệt mỏi. Trì Tụng như vậy gọi là Tối Thượng.
Hữu Tướng Trì Tụng : Liền cầm chuỗi đếm số. Mỗi lần Trì Tụng nên để ý đến Nguyên Số thẳng đến gặt được Tất Địa, chẳng được thiếu một số. Nếu thiếu một số gọi là Gián Đoạn ắt đối với việc mong cầu chẳng được thành tựu. Mỗi lúc muốn Trì Tụng, trước tiên kết Sổ Châu Ấn Co lóng giữa của ngón vô danh , ngón trỏ cùng vịn lóng giữa của ngón giữa thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng Đại Minh là:
“Án _ Hát nạp bộ đế, vĩ nhạ duệ, tất địa, tất đà lị tán, sa phộc hạ”
( OMÏ _ ADPUTE VIJAYE SIDDHI SIDDHA ARTHA _ SVÀHÀ
Tụng Minh này xong. Liền chắp 2 tay lại nâng tràng hạt, tụng Đại Minh 7 biến gia trì tràng hạt đó. Đại Minh là:
“Án _ Nẵng mô bà nga phộc đế, tất đề, sa đạt dã, sa đạt dã, tát lị phộc ly tha, sa đạt nễ, tất đà ly tán, sa-phộc hạ”
( OMÏ NAMO BHAGAVATE _ SIDDHI SÀDHAYA SÀDHAYA _ SARVA ARTHA SÀDHANI SIDDHA ARTHA _ SVÀHÀ
Tụng Minh này xong. Liền cầm tràng hạt lễ Tam Bảo , Hiền thánh sau đó y theo Pháp trì tụng đầy đủ ký số.
Lại tụng Phật Nhãn Đại Minh 7 biến. Kết Căn Bản Ấn, lại tụng Phật Nhãn Minh 3 biến hiến Ứ Già cho Hiền Thánh. Lại bạch rằng:” Nay con đem hết sự Trì Tụng này phụng hiến lên Bồ Tát với hiến hương, hoa, đèn, dầu thơm mà cúng dường”
Tiếp lại dùng Phật Nhãn Đại Minh mà tự Ủng Hộ và Kết Giới
Tiếp dùng A Tam Hàm Nghĩ Nễ Ấn ( Asamàmïgni Mudra ) hộ 5 nơi trên thân. A Tam Hàm Nghĩ Nễ Ấn : Đặt 2 bàn tay song song nhau, đảo ngược đầu 2 ngón vô danh vào trong lòng bàn tay, 2 ngón giữa và 2 ngón út như cây kim. Lại ngón trỏ như cây kim đặt bên cạnh 2 ngón cái thẳng xuống dưới và đưa 2 ngón vô danh vào lòng bàn tay thì thành Ấn. Tùy theo Ấn, tụng A Tam Hàm Nghĩ Nễ Đại Minh là:
“Án, a tam hàm nghĩ-nễ, vĩ la nại duệ đế, hồng, phát tra, sa-phộc hạ”
( OMÏ _ ASAMÀMÏGNI VÌRADAYETE HÙMÏ PHATÏ _ SVÀHÀ
Tiếp kết Căn Bản Ấn và tụng Đại Minh dùng để Phát Khiển, Tướng Ấn như trước. Đại Minh là:
“ Nga tha để, cật-lị hệ đát phệ hàm. Hiến đường , bổ sắt bán , độ bán, mạt lăng, bát-la nễ bán tả, lạc khật-xoa, bát la để hạ đa, phộc la bát la khất la di, sa-phộc hạ”
( GACCHATI AGRI HITANVESÏIN GHANÏTÏAMÏ PUSÏPAMÏ DHÙPAMÏ MÀLAMÏ PRADÌPTA RAKSÏA APARATIHATA VARA PRAKARA ME SVÀHÀ
Như vậy Phát Khiển xong.
Lại cầm tràng hạt hướng về trái tim làm Ủng Hộ. Lại kết Cam Lộ Quân Trà Lợi Ấn mà tự ủng hộ xong. Sau đó đỉnh lễ chư Phật Bồ Tát rồi đứng dậy ra khỏi Đạo Trường. Chỉ được đọc Kinh Đại Thừa Phương Quảng, Hoa Nghiêm và Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Hoặc xoa tô Man Noa La và làm Tháp Tượng, chẳng được nói chuyện Thế Tục với sách vở Thế Gian. Đây là Nghi Thừc bình thường ( Thướng Thức) .
Lúc Hành Nhân ăn thường dùng Tôn Na Bồ Tát Căn Bản Đại Minh gia trì xong, sau đó có thể ăn. Hoặc lúc ngủ nghỉ cũng tụng Căn Bản Đại Minh tác ủng hộ xong liền có thể ngủ nghỉ. Căn Bản Đại Minh là:
“ Nẵng mạc tam mãn đa một đà nẫm. Aùn_ Phộc lan na nễ đế nhĩ du , ma lý nễ, sa-phộc hạ”
( NAMAHÏ SAMANTA BUDDHÀNÀMÏ
OMÏ _ VALAMÏDADE MALINI _ SVÀHÀ
Tiếp lại nói Pháp Quán Tưởng chữ vi diệu của Phật và Hiền Thánh. Chữ này đều là căn bản của chư Phật, Hiền Thánh biểu thị cho Lý Chân Thật cho đến Vô Tướng Trì Tụng với Pháp của 4 loại của nhóm Tức Tai đều được diễn nói trong Pháp của Tôn Na. Nếu Hành Nhân tác Pháp Tức Tai, Tăng Ích, Kính Aùi, Giáng Phục đối với các Pháp cần phải biết rõ mọi thứ tự như Nghi.
Nay sẽ lược nói về chữ Vi Diệu. Ở trong Man Noa La an bày 9 vị trí theo thứ tự là:
Thứ nhất ở góc Đông Bắc đặt chữ ÁN ( ) .Thứ hai ở góc Đông Nam đặt chữ TẢ ( ).Tiếp chữ LỆ ( ) . Tiếp chữ TỐT ( ) . Như vậy an 4 góc xong.Tiếp ở vị trí trung ương đặt chữ TÔN ( ) . Tiếp đặt chữ LỆ ( ). Tiếp đặt chữ NỄ ( ) .Tiếp đặt chữ SA ( ) .Tiếp đặt chữ HA ( ) Chín chữ này thành Căn Bản Đại Minh, thành 9 vị Hiền Thánh..
Lại nữa chữ ÁN ( OMÏ ) là Pháp Giới Vô Tướng
Chữ TẢ ( CA ) là Đại Luân
Chữ LỆ ( LE ) là Bất Động Tôn
Chữ TỐT ( CU ) là Quán Tự Tại
Chữ LỆ ( LE ) là Bất Không Quyến Sách Bồ Tát
Chữ TÔN ( CUNÕ ) là Tôn Na Bồ Tát
Chữ NỄ ( DHE ) là Kim Cương Thủ Bồ Tát
Chữ SA ( SVÀ ) là I Ca Nhạ Tra Bồ Tát
Chữ HA ( HÀ ) là Phộc Nhật La Nẵng Khế Bồ Tát.
Nếu đem chữ Án làm đầu thì hay thành tựu tất cả Pháp
Nếu chữ Tả thì đối với 3 Pháp Tức Tai, Tăng Ích, Giáng Phục có đại thế lực.
Chữ Lệ hay phá hoại Thiết Đốt Lỗ ( ‘Sàtru_ Oan Gia ) cùng tác Phát Khiển với Pháp ủng hộ sẽ có công lực cực lớn
Chữ Tốt hay phá hoại và đánh tan quân địch như Kim Xí Điểu ( Garudïa ) hay ăn loài Rồng ( Nàga )
Chữ Lệ hay phá các đại ác có lực tối thắng
Chữ Tôn hay thành tựu tất cả việc, hay phá các cấm phộc kiên cố
Chữ Nễ hay phá các Ma ác với các đại ác , cũng hay làm Pháp Nhập Ngụ
Chữ Sa hay tự ủng hộ với hay phá oán, cũng hay khiến làm Pháp Bát Nhập Ngụ ( ? )
Chữ Ha hay trừ đại độc với tất cả bệnh.
Chữ của nhóm như vậy giống Bát Chính Đạo hay khiến cho Hữu Tình giải thoát luân hồi, sau đó được tịch tĩnh.
Lại nữa Hành Nhân quán tưởng chữ Vi Diệu như vậy ở thân phần của mình, mỗi mỗi hiện rõ trước mặt, Hoặc biến sắc tướng hoặc biến hình nghi. Nếu được hiện rõ như vậy trước mặt thì hay diệt được tất cả tội nghiệp trong thân, đoạn trừ phiền não.
Khởi đầu trong chữ ÁN hiện trên đỉnh đầu có màu hoàng kim ( vàng chóe )
Tiếp tưởng chữ TẢ hiện ở 2 con mắt cũng có màu vàng
Tiếp tưởng chữ LỆ hiện ở trên cổ có màu đen đậm.
Tiếp tưởng chữ TỐT hiện ở lỗ rốn như màu sen hồng hoặc màu xanh. Nơi hiện màu ấy tùy theo Pháp tác.
Tiếp tưởng chữ LỆ hiện ở 2 cánh tay hóa thành Tượng Hiền Thánh hoặc có màu vàng ròng hoặc có màu đỏ.
Tiếp tưởng chữ TÔN hiện ở trên trái tim biến thành Tôn Na Bồ Tát có thân màu trắng.
Tưởng chữ NỄ hiện ở 2 bắp đùi
Tưởng chữ SA hiện ở 2 bắp chuối chân
Tưởng chữ HẠ hiện ở 2 bàn chân
Tưởng chữ như vậy ở trên thân phần của mình, mỗi mỗi hiện rõ trước mặt. Được hiện rõ trước mặt xong thì cắt đứt các phiền não, diệt tất cả tội cho đến hay khiến cho Nội Tâm sáng tỏ tinh khiết như tướng bụi che tùy theo phất phủi mà trong sạch , tinh tiến. Chư Thiên thảy đều kính yêu.
Lại nữa tưởng chữ Vi Diệu biến thành Bản Vị Hiền Thánh .
Quán chữ thành bản thân Tôn Na Bồ Tát có thân màu trắng, mặt có 3 mắt, có 18 cánh tay và toàn thân rực lửa, ngồi trên hoa sen trắng và ở trong thân hay sinh ra chư Phật.
Nếu quán chữ thành Đa La Bồ Tát ( Tàrà Bodhisatva ) thì thân có màu xanh, hiện tướng phẫn nộ ló nanh nhọn ra bên ngoài, mặc áo da voi, một tay cầm kiếm, một tay cầm đầu lâu chứa đầy máu.
Nếu quán chữ thành I Ca Nhạ Tra Bồ tát thì bên phải: Tay thứ nhất cầm cây gậy báu, tay thứ hai cầm sợi dây. Bên trái : Tay thứ nhất cầm Kiệt Trung Nga (Khatvanõga _ cây đao ) , tay thứ hai cầm đầu người nhỏ máu.
Nếu quán chữ thành Phộc Nhật La Nẵng Khế thì thân có màu như mặt trăng, 2 tay bên phải cầm Kiếm với cây búa ( Phủ Việt ) , 2 tay bên trái cầm sợi dây với hoa sen. Vị Phộc Nhật La Nẵng Khế này là thân sở hóa của Mã Đầu Minh Vương ( Hàyagriva Vidyaràja ) có uy lực lớn. Nếu bị Đắc Xoa Ca Long Vương (Taksïaka Nàgaràja ) làm hại thì tất cả các lực lượng không có thể cứu độ, chỉ có Phộc Nhật La Nẵng Khế mới có thể cứu tế được thôi. Nếu Hành Nhân dùng ở mọi nơi thì đều được thành tựu như Báu Như Ý , tất cả tùy theo câu
Lại nữa ở các Đại Minh thêm chữ sỡ dụng thì mỗi mỗi đều thành tựu Pháp.
Nếu thêm chữ Aùn ( OMÏ ) thì hay tác cảnh giác với Phát Khiển
Nếu thêm 3 chữ Aùn, Lệ , Hồng ( OMÏ LE HÙMÏ ) thì sức hay chặt cắt
Nếu thêm 5 chữ Aùn, La, Hồng, Phát tra ( OMÏ LA HÙMÏ PHATÏ ) thì sức hay cảnh bố với hay phá hoại cũng hay ủng hộ.
Nếu thêm 4 chữ Aùn, Tổ, nẵng, mạc ( OMÏ CU NAMAHÏ ) thì hay thành tựu Pháp Kính Aùi
Nếu thêm 3 chữ Án, tổ, hồng ( OMÏ CU HÙMÏ ) thì hay đẩy lui quân địch (Tha Quân )
Nếu thêm 4 chữ Aùn, lệ, phát tra ( OMÏ LE PHATÏ ) thì chận đứng được cuộc chiến đấu lớn.
Nếu làm Pháp Tức Tai (‘Sàntika ) dùng Đại Minh này là:
“Án _ Tôn, a mẫu yết tả, phiến đỉnh, câu lỗ, sa-phộc hạ”
( OMÏ CUNÕ _ AMOGHASÏYA ‘SÀNTIMÏ KURU _ SVÀHÀ
Nếu làm Pháp Tăng Ích ( Pusïtïika ) dùng Đại Minh này là:
“Án _ Tôn , a mẫu yết tả, lạc xoa di, câu lỗ, sa-phộc hạ”
( OMÏ CUNÕ _ AMOGHASÏYA LAKSÏMI KURU _ SVÀHÀ
Nếu làm Pháp Kính Aùi ( Va’sikaranïa ) dùng Đại Minh này là:
“Án _ Tôn, nẵng mạc”
( OMÏ _ CUNÕ _ NAMAHÏ
Nếu chận đứng cuộc chiến đấu lớn, dùng Đại Minh này là:
“Án _ Tôn nễ, hồng, phát tra”
( OMÏ _ CUNÕDHE HÙMÏ PHATÏ
Lại làm Pháp Tức Tai, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, nói việc cần cầu nguyện. Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết tả, phiến đỉnh, câu lỗ, sa-phộc hạ”
( OMÏ_ CALE CULE CUNÕDHE _ AMOGHASÏYA ‘SÀNTIMÏ KURU _ SVÀHÀ
Lại làm Pháp Tăng Ích, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, nói việc cần cầu nguyện. Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, sa-phộc hạ”
( OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ
Lại làm Pháp Kính Aùi, tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó , nói việc cần cầu nguyện. Đại Minh đồng với Pháp Tăng Ích.
Lại làm Pháp Giáng Phục ( Abhicàruka ) Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên ngưới đó, nói việc cần cầu nguyện. Đại Minh là:
“ Nẵng mạc tả lệ , tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết phộc thi, câu lỗ, sa-phộc hạ”
( NAMAHÏ CALE CULE CUNÕDHE _ AMOGHA VA’SI KURU _ SVÀHÀ
Lại làm Pháp Câu Triệu ( Akarsïanïi ) . Tụng Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết ma yết lị sa dã, hột-lị”
( OMÏ CALE LULE CUNÕDHE _ AMOGHAM AKARSÏÀYA HRÌHÏ
Lại Khu Trục ( Xua đổi ) Oan Gia . Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên người đó, nói việc cần mong cầu.Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết mẫu tả tra dã, hồng”
( OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ AMOGHAM UCCÀTÏÀYA HÙMÏ
Lại có Pháp phá hoại Ma Oán. Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A mẫu yết ma la dã , hồng, phát tra”
( OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ AMOGHA MÀRÀYA HÙMÏ PHATÏ
Lại làm Pháp cực phá hoại Ma Oán. Đại Minh là:
“Án_ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ. A điên đa ma la ni, sa-phộc hạ”
( OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ AJITA MÀRÀNÏI _ SVÀHÀ
Lại làm Pháp Đại Tức Tai. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng việc thành tựu mong cầu ấy. Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ , tổ lệ, tôn nễ, sa-phộc hạ”
( OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE _ SVÀHÀ
Lại làm Pháp Đại Kính Aùi. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên của người ấy, nói việc cần thành tựu. Đại Minh là:
“ Nẵng mạc tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, nẵng mạc a điên đa, phộc thi duệ, hột-lị”
( NAMAHÏ CALE CULE CUNÕDHE _ NAMAHÏ AJITA VA’SÌYE _ HRÌHÏ
Lại làm Pháp Đại Câu Triệu. Đại Minh là:
“Án _ Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, hột-lị”
( OMÏ _ CALE CULE CUNÕDHE _ HRÌHÏ
Lại làm Pháp cực hoại ( làm hư nát hết ) đại oán. Tùy tụng Đại Minh kèm xưng tên của người đó, nói việc cần làm.
“ Hồng _ Aùn, tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, hồng_ A điên đổ tả tra ( xưng việc…) phát tra, tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, phát tra”
( HÙMÏ _ OMÏ CALE CULE CUNÕDHE HÙMÏ _ AJITA UCCÀTÏA (xưng việc cần làm….. ) PHATÏ _ CALE CULE CUNÕDHE PHATÏ
Đại Minh của nhóm như vậy, mỗi mỗi đều tùy theo nơi tác Pháp. Xưng nói việc ấy thì không có gì không thành tựu.
Chư Phật đã nói :” Giáo của Tôn Na Bồ Tát hay thỏa mãn nguyện của tất cả chúng sinh”.Dùng Kệ ca ngợi rằng:
Công Đức của Tôn Na
Tâm vắng lặng thường trì
Tất cả các nạn lớn
Không thể xâm phạm người
Trên Trời và Thế Gian
Thọ phước ngang bằng Phật
Lại thêm báu Như Ý
Quyết định không gì bằng PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO TÔN NA
BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU NGHI QUỸ KINH
QUYỂN THỨ TƯ ( Hết )
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.149.243.29 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.