Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác.
Kinh Đại Bát Niết-bàn
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận.
Kinh Pháp cú
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
ĐẠI MINH THÀNH TỰU
PHẦN THỨ NHẤT
Bấy giờ, Đức Phật dạy rằng: “Đại giáo Du Già của Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai này, nếu có người trai lành nào vui muốn tu tập các Pháp Thành Tựu thì nên dựa vào Pháp Đại Minh của Tôn Na Bồ Tát ( Cunõdhe Bodhisatva ). Ở trong giáo ấy, một lòng chuyên chú tinh cần tu tập ắt mọi sự nguyện cầu không có gì không thành tựu.
Nếu có Hành Nhân muốn làm Pháp Thành Tựu Thù Thắng Tối Thượng. Trước tiên ở bên bờ biển lớn, tụng Đại Minh Căn Bản Chú của Tôn Na Bồ Tát và làm 6 Lạc xoa cái tháp bằng cát. Khi đủ số lượng rồi thì mọi việc mong cầu ắt được thành tựu.
_ Lại nữa, nếu muốn cầu thấy Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokite’svara Bodhisatva ) , hoặc Kim Cương Thủ Bồ Tát ( Vajrapànïi Bodhisatva ) … cứ tu tập như trước thì các vị Bồ Tát ấy sẽ hiện thân, an ủi Hành Nhân và cho thỏa mãn ước nguyện, cho đến hoặc tác Pháp Kính Ái … hoặc cầu mọi loại thuốc Thánh, hoặc cầu ngôi Vua của hàng A Tố Lạc, hoặc cầu địa vị Trì Minh Thiên ( Vidyadhàra Deva ). Mọi việc như vậy ắt được thành tựu. Nếu tu tập lâu ngày mà chuyên chú không thoái lui thì cũng có thể đạt được địa vị Bồ Tát.
_ Lại nữa, Hành Nhân đến trước đỉnh núi Chính Giác, ở trứơc Tháp Phật thường trì Bát Thực (ôm bình bát đi xin thức ăn). Tụng Đại Minh đủ 1 câu đê biến (100 triệu lần ) sẽ được thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát. Vị Bồ Tát ấy tự dẫn Hành Nhân vào cửa Cát Tường và bảo Hành nhân rằng: “Ngươi vào cửa này không còn bị Ma nạn, đều mãn sự nguyện cầu, xa lìa tất cả sợ sự hãi, nhận được niềm vui thích lớn, trong tương lai được gặp Đức Từ Thị (Di Lặc Phật) đựơc nghe Diệu Pháp, chứng Bồ Tát Địa, cho đến hoặc đựơc địa vị A Phệ Phộc Ly Đê Ca Bồ Tát”.
_ Lại nữa, Hành nhân hoặc đến núi Vĩ Bổ La ( Vipùla _ Quảng Bác ) , khiến tịnh tất cả, thường trì Bát Thực, ở trước Tượng có Xá Lợi tùy khả năng bày biện hương, hoa, đèn, hương xoa mà làm cúng dường. Tụng Đại Minh đủ 3 Lạc xoa biến (30 vạn lần ). Tụng đủ biến số xong lại đặc biệt làm Đại cúng dường, gia tăng gấp bội Trai Giới khiết tịnh cho đến hết 15 ngày. Tụng trì suốt ngày đêm không ngừng nghỉ thì Kim Cương Thủ Bồ Tát quyết định hiện thân tiếp dẫn Hành nhân đến ngay cung điện của Ngài và dạo chơi ở cửa Cát Tường, khiến cho Hành nhân bước vào và được thọ mệnh lâu dài ngang bằng mặt trời, mặt trăng.
_ Lại nữa, Hành nhân đến nơi Tháp Phật có 3 bậc thềm báu thường trì Bát Thực, nhiễu quanh bên phải Tháp Phật, tụng Đại Minh 1 câu đê biến. Tụng đủ số xong sẽ được thấy Vô Năng Thắng ( Aparajita ) với hàng Ha Lị Đế ( Hàrïtye_ Quỷ Tử Mẫu ) và sự cầu mong đều được như ý. Vị Ha Lị Đế tiếp dẫn Hành giả đến ngay cung điện của Ngài ban cho mọi loại thuốc Thánh. Ngài Vô Năng Thắng cũng hiện thân vì Hành giả mà nói Pháp khiến cho chứng đạo Vô Thượng Bồ Đề và ban cho thuốc Thánh, biến thân Hành giả có đủ tướng Thù Thắng lại được tất cả Bồ Tát tiếp dẫn chứng đạo cho đến mau chóng ngồi ở Bồ Đề Đạo Trường.
Tôn Na Đại Minh này chính là điều mà tất cả Như Lai và các Bồ Tát cùng diễn nói. Do đó chẳng sinh khởi Tâm Bồ Đề, vĩnh viễn chẳng đắc được Pháp BỒ ĐỀ PHẦN. Người như vậy chợt gặp Bậc Tri Thức, tụng Đại Minh này 1 lần lọt qua tai thì tội nặng giảm nhỏ lại liền sinh Căn Lành. Huống chi Hành nhân luôn luôn trì tụng, chuyên chú, tinh cần, người như vậy cầu Pháp Thành Tựu thì quyết định đạt được.
QUÁN TRÍ THÀNH TỰU
PHẦN THỨ HAI
_ Lại nữa, Hành nhân muốn tu tập các Pháp Thành tựu. Trước tiên nên tu tập Quán Trí, với các Ấn Tướng đều phải tinh thục không hề sai lầm mới có thể cầu các Tất Địa.
Nếu ở trong Pháp của Tôn Na Bồ Tát cầu Tất Địa. Trước tiên quán Luân chữ vi diệu căn bản của Tôn Na Bồ Tát đặt ngay trên thân thể mình. Đó là:
Quán chữ ÁN (OMÏ - ) đặt ở ngay trên đỉnh đầu.
Quán chữ TẢ (CA - ) đặt ở hai con mắt.
Quán chữ LỆ (LE - ) đặt ở cái cổ.
Quán chữ TỔ (CU - ) đặt ở hai cánh tay.
Lại quán chữ LỆ ( LE - ) đặt ở trái tim.
Quán TÔN (CUNÕ - ) đặt ở trong lỗ rốn.
Quán chữ NỄ (DHE - ) đặt ở hai bắp đùi.
Quán chữ SA (SVÀ - . ) đặt ở bắp chân.
Quán chữ HA (HÀ - ) đặt ở hai bàn chân.
Hành nhân quán tưởng chữ vi diệu căn bản của Tôn Na ở trên thân thể của mình mỗi mỗi cần phải rõ ràng thì tất cả tội nghiệp người đó đã làm trước đây thảy đều tiêu diệt. Quyết định được thành tựu Tất Địa đã mong cầu. Hoặc tác Pháp Tăng Ích, Tức Tai, Kính Aùi, Điều Phục, … thì mỗi một Đại Minh trì tụng đều khác nhau.
_ Tác Pháp Tức Tai thì trì tụng ĐẠI MINH là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, Sa ha”
( OMÏ - CALE CULE CUNÕDHE SVÀHÀ
_ Tác Pháp Tăng Ích thì tụng ĐẠI MINH là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ mạo sa tra”
( OMÏ - CALE CULE CUNÕDHE MUSÏTÏI
_ Tác Pháp Kính Ái thì tụng ĐẠI MINH là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, Nẵng mạc”
( OMÏ - CALE CULE CUNÕDHE NAMAHÏ
_ Tác Pháp Điều Phục thì tụng ĐẠI MINH là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, nhược tứ hồøng phát tra”
( OMÏ - CALE CULE CUNÕDHE JAHÏ HÌ HÙMÏ PHATÏ
Nếu 4 Pháp như trên ắt nên thỉnh triệu Bản Tôn với chúng Hiền Thánh. Tác Pháp xong, liền ngửa mặt Phát Khiển (đưa về)
_ Câu Triệu Đại Minh:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ Hồng”
( OMÏ - CALE CULE CUNÕDHE HÙMÏ
_ Lại nữa, Hành nhân lúc tác Man Noa La ( Manïdïala_ Đàn ), muốn thỉnh Bản Tôn với kêu gọi Hiền Thánh trong Đàn. Trước tiên tụng Chỉ Lý Chỉ Lỳ Kim Cương (Kìlikìla Vajra ) Đại Kinh mà làm khiết tĩnh (cực trong sạch). Đại Minh là:
“ÁN – Chỉ lý chỉ lý, phộc nhật la Hồng, phát tra”
( OMÏ - KÌLIKÌLA VAJRA HÙMÏ PHATÏ
Tụng Minh này, tác khiết tĩnh xong. Hành nhân tưởng Bản Tôn TÔN Na Bồ Tát ở trên Trời Sắc Cứu Cánh giáng hạ đến vào trong Man Noa La. Lại tưởng trong Man Noa La có Tòa Sư Tử, có hoa sen che khắp đủ mọi thức trang nghiêm. Liền kết Căn Bản Ấn của Bồ Tát. Lại tụng Căn Bản Đại Minh cúng dường Bồ Tát. Hành nhân liền nói: “Bồ Tát khéo đến” và dâng Ứ Già … sau đó tác Pháp Trì Tụng.
_ Lại nữa, Hành nhân y theo Pháp làm Man Noa La, ngồi ngay thẳng, chính niệm Pháp quán tưởng, tưởng trước mặt có bánh xe chữ vi diệu căn bản đặt ở các phần thân thể. Thoạt đầu tưởng như tất cả Như Lai ngự ngay trên đỉnh đầu. Lúc tác tưởng này thì kết Tam Muội Ấn.
Tiếp, tưởng chữ TẢ ( ) ở hai con mắt, nên dùng Phật Nhãn Ấn. Lại tưởng chữ này chuyển thành Vị Luân Vương có thế lực lớn.
Tiếp, tưởng chữ LỆ ( ) màu đen đặt ở cái cổ, dùng kết LOA ẤN liền chuyển thành Đại Phẫn Nộ Tôn Bất Động Minh Vương ( Mahà Krodhanàtha Acala Vidyaràja ), tay cầm kiếm với sợi dây .
Tiếp, tưởng chữ TỔ ( ) hiện ở trái tim, liền biến thành thân Phật màu đỏ có 4 tay, với 2 tay chắp lại thành tướng Đỉnh Lễ, 2 tay kết Ấn Thuyết Pháp là tướng giáng phục các ma.
Lại tưởng chữ LỆ ( ) hiện ở 2 cánh tay, nên dùng Sa Tất Đế Ca Ấn, trên 1 cách tay biến thành Bất Không Quyến Sách Bồ Tát ( Amogha Pà’sa Bodhisatva ), mặt có 3 mắt. Trên một cánh tay biến thành QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT với thân màu vàng.
Tiếp, tưởng chữ TÔN ( ) hiện ở vành rốn, nên tụng Tôn Na Bản Ấn, biến thành Bản Tôn Tôn Na Bồ Tát. Nếu quán thân có 18 tay thì tưởng màu trắng. Nếu quán thân có 6 cánh tay thì tưởng màu vàng. Nếu quán thân có 4 cánh tay thì tưởng màu đỏ. Dùng theo cách quán mà tưởng hiện trước mắt. Xong, tưởng vị Bồ Tát này ở trong Tam Giới làm lợi ích lớn.
Tiếp tưởng chữ NỄ ( ) hiện ở hai bắp đùi, dùng Cát Tường Ấn liền biến thành Phật với Bồ Tát hay làm thành tất cả việc.
Tiếp, tưởng chữ SA ( ) hiện ở hai bắp chân. Lại dùng Loa Ấn, Kiếm Ấn. Trên bắp chân trái biến thành Ngật La Ha cận Nễ. Trên bắp chân phải biến thành Nhạ Chí Nễ.
Tiếp, tưởng chữ HA ( ) hiện ở hai bàn chân, dùng Liên Hoa Ấn liền biến thành Phộc Nhật La Nẵng Khế Minh Vương, tay cầm dây lụa. Tiếp, dùng Phật Nhãn Bồ Tát Ấn với Phật Nhãn Bồ Tát Đại Minh gia trì 5 nơi. Minh là:
“ÁN – Lỗ lô sa phổ la, nhập phộc la để sắt tra tất đà lạc tả nễ. Tát ly phộc ly tha sa đạt nễ, sa phộc hạ”
( OMÏ RURU SPHURU JVALA TISÏTÏA SIDHA LOCANE SARVA ARTHA SÀDHANI SVÀHÀ
_ Lại nữa, Hành Nhân tác Quán Trí xong, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp 2 tay lại thành Ấn Đỉnh Lễ. Lại tụng Đại Minh là:
“Nẵng mộ sáp bát đa nẫm. Tam miệu ngật tam một đà câu đê nẫm. Nẵng mạc tả lệ tôn nễ, nẵng mạc”
( NAMO SAPTANÀMÏ SAMYAKSAMÏBUDHÀ KOTÏINÀMÏ NAMAHÏ CALE CUNÕDHE NAMAHÏ
Sức của Đại Minh này phá chúng Ma, không có loài Ma nào hoặc Thiên Ma nào dám trái ngược.
_ Tiếp dùng Phát Khiển Ấn để phát khiển các Ma. Khiến cho nơi Hành nhân không có các chướng nạn. Phát Khiển Ma Ấn, dùng tay trái duỗi rộng rồi dao động thành thế đuổi đi. Tay phải kèm tướng Tam Muội Kim Cương. Đặt ngay cạnh của eo trái. Đem chân trái đạp đất làm tướng phẫn nộ. Tụng Đại Minh là:
“Nẵng mạc, A tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, Hạ nẵng, na hạ, ma tha vĩ đặc võng, tát dụ sa la dã đa, hồng phát tra”
( NAMAHÏ ACALE CULE CUNÕDHE HANA DAHA PACA VIDHVAMÏ ‘SAYA SARAYATA HÙMÏ PHATÏ
_ Tiếp, tác Kết Giới Ấn. Đem 2 tay đưa lên đưa xuống trong 10 phương ở hư không, chuyển động như tướng gió thổi liền thành ấn. Liền tụng Đại Minh là:
“ÁN – tả lệ, tổ lệ, tôn nễ, Đạt ca đạt ca, nhập phộc la, tát ly phộc nễ thâu, mãn đà mãn đà Hồng”
( OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ DHAKA DHAKA _ JVALA JVALA - SARVA DI’SE BANDHA BANDHA HÙMÏ
Minh này có thể dùng Kết giới ở tất cả các nơi.
_ Tiếp, dùng Nhất Thiết Thành Tựu Minh gia trì hương hoa với nước sạch, vào Man Noa La rảy tịnh xong.
Liền kết Lâu Các Ấn, ngửa hai bàn tay ngang bằng rồi cùng các ngón hơi co lại. Duỗi 2 ngón trỏ, 2 ngón cái phụ bên cạnh 2 ngón trỏ liền thành ấn.
Lúc kết ấn này tưởng lầu các của Cung điện Thù diệu tối thượng hiện ra trước ắt. Lại tưởng chữ vi diệu hòa thành mọi loại hoa sen thù diệu trang nghiêm Tòa Sư tử.
Tác quán thành xong, liền tụng Thỉnh Triệu Đại Minh, để thỉnh triệu Bản Tôn với chúng Hiền Thánh vào trong tòa ngồi. Tùy dùng Bản Hộ đặt làm Tòa chính giữa. Nếu dùng Tôn Na làm Bản Hộ, liền dùng Tôn Na làm Tòa chính giữa. Liền quán tưởng Tôn Na Bồ Tát có 18 cánh tay, thân màu trắng như mặt trăng mùa thu, mặc áo trắng với mọi thứ trang nghiêm. Dùng đá quý làm quyến đeo ở cổ tay, 10 ngón tay đều có cái vòng trang nghiêm. Mặt có 3 mắt, 2 tay phải trái trên cùng tác tướng Thuyết Pháp. Bên phải, tay thứ hai tác tướng Vô Úy, tay thứ ba cầm Cây Kiếm, tay thứ tư cầm cái Chuông nhỏ, tay thứ năm cầm Vĩ Nhạ Bổ La ( Bìja Pùraka _ Tử Mãn Quả ), tay thứ sáu cầm Việt Phủ (cây búa lớn), tay thứ bảy cầm Móc Câu, tay thứ tám cầm Chày Kim Cương, tay thứ chín cầm tràng hạt. Bên trái, tay thứ hai cầm cây Phướng Báu Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen, tay thứ tư cầm Quân Ni (bình Quân Trì), tay thứ năm cầm Vòng dây lụa, tay thứ sáu cầm Bánh xe, tay thứ bảy cầm Vỏ ốc (loa), tay thứ tám cầm cái Hiền Bình, tay thứ chín cầm quyển Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Ở bên phải đặt Phật Nhãn Bồ Tát ( Buddha Locana Bodhisatva ) với chúng Hiền Thánh, bên trái đặt Kim Cương Thủ Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, các vị Bồ Tát còn lại với chúng Hiền Thánh. Tùy ý đặt bày xong, lại dùng Nhất Thiết Thành Tựu Minh với Phật Nhãn Bồ Tát Minh, gia trì nước Ứ Già với hương, hoa, hương đốt dâng lên Bản Tôn với chúng Hiền Thánh. Liền bạch rằng: “Bồ Tát với các Hiền Thánh, con đem lòng tin và y theo sức Tam Muội dâng hiến nước Ứ Già, hương, hoa … Nguyện xin Từ Bi nhận thức cúng dường của con”.
Nước Ứ Già ấy, nếu tác Pháp Tức Tai thì dùng nước sữa, Đại mạch đồng làm. Nếu tác Pháp Tăng Ích thì gia thêm Chỉ ma (Mè). Nếu tác Pháp Điều Phục thì gia thêm máu với kiều mạch hòa chung, chén dùng chứa nước Ứ Già, vật chứa Ứ Già cũng khác nhau.
Liền nói Thỉnh Triệu Ấn, dùng Táo Dục Ấn (Ấn tắm gội) sửa 2 ngón cái phụ bên cạnh ngón trỏ, như tướng móc câu liền thành ấn.Thỉnh Triệu Đại Minh là:
“Nẵng mạc tam miệu ngật tam một đà câu đê nẫm, y tứ bà nga phộc đế. Nhất sắt tra nễ phộc đa địa sắt trí đế. ÁN – tả lệ, tổ lê, tôn nễ nhược nhược, sa phộc hạ”
( NAMAHÏ SAMYAKSAMÏBUDDHA KOTÏINÀMÏ EHYEHI BHAGAVATE TISÏTÏA DEVATA ADHISÏTÏITE - OMÏ CALE CULE CUNÕDHE JAHÏ JAHÏ SVÀHÀ
Tụng Minh này xong, nên tụng Hiến Tòa Đại Minh là:
“ÁN – Ca ma la Sa phộc hạ”
( OMÏ KAMALA SVÀHÀ
_ Tiếp, nói về Kiếm Ấn, cũng là Bất Động Tôn Minh Vương Ấn. Đem ngón cái, ngón vô danh, ngón út của tay trái nắm quyền, duỗi ngón trỏ, ngón giữa của tay phải đưa vào trong quyền trái, các ngón còn lại củng nắm quyền liền thành Ấn. Bất Động Tôn Đại Minh là:
“Nẵng mạc tam mãn đà phộc nhật la nă. ÁN A ra la, ca noa Thể nông, sa đạt dã Hồng, phát tra”
( NAMAHÏ SAMANTA VAJRÀNÏÀMÏ – OMÏ ACALA KANÏDÏA SÀDHAYA HÙMÏ PHATÏ
_ Tiếp, nói về Tam Muội Gia Ấn, đem ngón cái tay phải đè lên móng ngón út, các ngón còn lại như tướng cái chày Kim Cương liền thành Ấn. Kết Ấn này, tụng Tam Muội Gia Đại Minh là:
“ÁN – Thương yết ly, Tam ma duệ, Sa phộc hạ”
( OMÏ SAMÏKARE SAMAYE SVÀHÀ
_ Tiếp, hiến Ứ Già Ấn, dùng Táo Dục Ấn chỉ sửa ngón cái tách ra đặt bên cạnh ngón trỏ làm tướng chắp tay, liền thành Ấn. Đại Minh là:
“ÁN - Tả lệ, tổ lệ, tôn nễ A ly gia Bà nga phộc đế. Bát la đê tha Sa phộc hạ”
( OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ ÀRGHA BHAGAVATE PRATICCHA SVÀHÀ
Hiến Ứ Già xong, Hành nhân chắp tay lại và nói là: “Bạch Đại Bồ Tát! Nguyện xin từ bi nhận sự cúng dường này”. Hành nhân lại dùng Kim Cương Quyết Ấn để kết giới trừ ma. Dùng Chày Kim Cương làm giới, nơi kết giới tùy Pháp mà dùng. Hoặc lúc làm Pháp Đại Aùc thì kết ấn này. Đem ngón trỏ tay trái làm như móc câu, ngóc cái như cây kim đặt ở trước mặt. Đây là Quyết Ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Tôn nễ, Ni, kế la dã, Sa phộc hạ”
( OMÏ CUNÕDHE _ DHE_ KÌLÀYA SVÀHÀ
_ Kết Kim Cương Giới Ấn, chẳng sửa Ấn trước chỉ dùng ngón trỏ tay phải làm như móc câu, dựng thẳng ngón trỏ tay trái liền thành Ấn, chuyển động trong hư không, Kết Kim Cương giới Đại Minh là:
“ÁN – Tôn nễ ni, bát la ca la dã, Sa phộc hạ”
( OMÏ CUNÕDHE _ DHE _ PRAKAVÀYA SVÀHÀ
_ Lại nữa, kết Kim Cương Bán Nhạ La Ấn, chẳng sửa Ấn trước, đem 2 ngón trỏ, 2 ngón giữa cùng vịn nhau, đưa lên đỉnh đầu dao động liền thành ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Tôn nễ nĩ, bán nhạ la, Sa phạ ha”
( OMÏ CUNÕDHE _ DHE _ PAMÏJALA SVÀHÀ
_ Tiếp, kết Căn Bản Ấn, niệm Căn Bản Đại Minh 3 biến.
_ Tiếp, kết Đại Ấn và tụng Đại Minh 3 biến.
_ Tiếp, kết Tam Xoa Ấn, đem 2 tay nắm quyền, đều duỗi ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh như 3 cái chỉa (Tam xoa) liền thành ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Tôn – sa phộc hạ”
( OMÏ CUNÕ SVÀHÀ
_ Tiếp, kết Đảo Xử Ấn, đem 2 tay nắm quyền, 2 ngón cái cùng cài chéo nhau liền thành Ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Tả lê – Hồng”
( OMÏ CALE HÙMÏ
Tiếp, kết Tràng Ấn, dùng tay phải nắm quyền dựng thẳng ngón trỏ, ngón giữa liền thành Ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Hàng Hồng Phát tra”
( OMÏ HAMÏ MAMÏ PHATÏ
_ Tiếp, tụng Kim Cương Nẵng Khứ Tâm Minh là:
“ÁN – Nhĩ nẵng, nhĩ câu”
( OMÏ JINAJIK
_ Tiếp, kết Đồ Hương Ấn, và tụng Kinh gia trì hương xoa, dâng lên Bản Tôn với chúng Hiền Thánh. Đại Minh là:
“ÁN – Lệ Sa phộc hạ”
( OMÏ LE SVÀHÀ
_ Tiếp, kết Hoa Ấn, chẳng sửa Ấn trước, tụng Đại Minh là:
“ÁN – Tôn Sa phộc hạ”
( OMÏ CUNÕ SVÀHÀ
_ Tiếp, kết Hương Ấn. Đem ngón cái phải đè chính giữa lóng ngón trỏ liền thành Ấn.
“ÁN – Lệ Sa phộc hạ”
( OMÏ LE SVÀHÀ
_ Tiếp, kết Xuất Sinh Ấn. Đem ngón cái và ngón trỏ tay trái cùng vịn nhau liền thành Ấn. Liền tụng Hiến Thực Minh là:
“ÁN – Tôn Sa phộc hạ”
( OMÏ CUNÕ SVÀHÀ
_ Tiếp, kết Hiến Đăng Ấn, đem ngó út tay phải đè lóng thứ nhất của ngón giữa liền thành Ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Nê Sa phộc hạ”
( OMÏ DHE SVÀHÀ
Như trên đã nói về vật cúng dường cho đến thức ăn uống, hương hoa … để phụng hiến Phật với Hiền Thánh. Bao nhiêu Ấn với Đại Minh đều tùy Bản Hộ mà thi hành theo thứ tự trước sau.
Nếu tác Pháp Tức Tai, trước hết dùng hương xoa, … Sau đó kết Hiến Cúng Dường Ấn. Hoặc tác quán tưởng, hoặc Nội hoặc Ngoại, tất cả cúng dường dâng lên Hiền Thánh.
_ Tiếp, kết Đại Ấn. Đem 2 tay cùng nắm quyền, đặt ở trái tim, tưởng bên trên 2 quyền đều có chữ A ( ) liền thành Ấn. Dùng Ấn này hiến các Hiền Thánh.
_ Tiếp, kết Liên Hoa Ấn, chắp 2 tay lại, dựng 8 ngón đều cách nhau như tướng hoa sen. Co 2 ngón cái vào lòng bàn tay liền thành Ấn. Kết Ấn này hiến các Hiền Thánh. Đại Minh là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, thất ly lạc sắt di mạo sa tra”
( OMÏ CALE CULE CUNÕDHE _ ‘SRÌ LAKSÏMI MUSÏTÏI
_ Tiếp, kết Căn Bản Ấn, chắp 2 tay lại, duỗi 2 ngón cái vào trong lòng bàn tay liền thành Ấn. Đại Minh là:
“ÁN – Tôn đát la dã – A sa đát la kiến, ÁN Tô để sa phổ la. A Bát sa đát lã. ÁN Tôn hạ nẵng nẵng la thế”
( OMÏ CUNÕ TÀRÀYA - ASÏTÏA KHAMÏ - OMÏ CUTÏI SPHURA - ABHÀSATRAMÏ - OMÏ CUNÕ HANA NÀRA ‘SE
_ Tiếp, kết Bát Bức Luân Ấn. Đem 2 tay lật ngược nhau, duỗi thẳng mở rộng 10 ngón tay, lấy tay phải đè lưng tay trái liền thành Ấn. Đặt trên đỉnh dao động. Tụng Đại Minh là:
“ÁN – Tôn bát la Sa phổ la tác nhật lãm”
( OMÏ CUNÕ _ PRASPHURA CAKRA
_ Tiếp, kết Quyến Sách Ấn, co 4 ngón: cái, vô danh, út, trỏ, của tay trái như móc câu liền thành Ấn. Tụng Đại Minh là:
“ÁN – Tả lệ, tổ lệ, Tôn nễ, ngột ly”
( OMÏ CALE CULE CUNÕDHE HRÌHÏ
_ Tiếp, kết Hiến Quảng Đại Cúng Dường Ấn. Chắp 2 tay lại, co lóng thứ 3 của 10 ngón tay sao cho không dính nhau liền thành Ấn. Đặt trên đỉnh đầu. Lúc Hành nhân kết ấn này thời phát Tâm chẳng thể luận bàn ( Bất khả tư nghị Tâm ) , không có Tâm ngã sở, không có Tâm thủ xả.
Lại quán tưởng tất cả hương hoa trân bảo thù diệu của Thế gian cho đến núi báu và kho tàng báu trong biển lớn. Tất cả vật thảy đều hiện trước mặt, dùng hiến tất cả Phật với Bồ Tát. Đem công đức này hồi thí Chân Như Pháp Giới. Lại vận tâm Ngã Sở tác cúng dường như vậy. Phước lực đã đạt được chuyển rộng thành vô lượng cúng dường dâng hiến 10 phương tất cả Như Lai với các Bồ Tát, chúng trong Đại hội. Nguyện Phật, Bồ Tát chẳng bỏ Đại Bi Nhiếp thụ cúng dường. Đại Quảng Phổ Cúng Dường Minh là:
“Nẵng mạc tác ly phộc, đát tha nga đế. Tỷ dụ, vĩ thấp hộc mục khê tỷ dược, tát ly phộc tha, nghiệt mẫu nại nga để, sa phả la tứ hàm, nga nga nẵng kếim, Sa phộc hạ”
( NAMAHÏ SARVA TATHAGATEBHYU – VI‘SVA MUKHEBHYAHÏ SARVÀTHA KHAMÏ UDGATE SPHARA HÌMÀMÏ GAGANAKAMÏ SVÀHÀ
PHẬT THUYẾT TRÌ MINH TẠNG DU GIÀ ĐẠI GIÁO TÔN NA BỒ TÁT ĐẠI MINH THÀNH TỰU NGHI QUỸ KINH
QUYỂN THỨ NHẤT ( Hết )
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.217.10.200 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.