Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 44 »»

Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 44

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.59 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.73 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Đại Bửu Tích

Kinh này có 120 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42 | 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 | 51 | 52 | 53 | 54 | 55 |
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Lại nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi la Ba la mật, vì đầy đủ Thi la thanh tịnh như vậy nên Ðại Bồ Tát đấi với các hành thường tưởng là chẳng nên ưa thích, với các chúng sanh trưởng là cha mẹ, với các hữu tình tưởng khó bảo tòan, với diệu ngũ dục tưởng chẳng phải diệu, với cảm giác hay biết tưởng chẳng hay biết. Có quan niệm như vậy rồi chẳng sanh khởi tâm bình đẳng chẳng bình đẳng. Tại sao? Lúc Bồ Tát quan niệm như vậy, nếu sẽ phát khởi tâm bất bình đẳng thì nên khiến nhiễm tâm chuyển đổi bất bình đẳng, suy gẫm rằng nhãn và sắc làm duyên mà sanh nhãn thức, nhiễm tâm sanh diệt đều do chủng tử mà tâm thể ấy phát sanh, đối cảnh sở duyên vọng tâm cho là tịnh. Nếu suy gẫm biết được nó là phi lý và thể chất bất tịnh thì được giải thoát, nếu giải thoát nó thì là nó hết. Nó hết chỗ nào? Ðó là tham hết, sân hết, si hết. Hết như vậy thì chẳng phải tham hết sân hết si hết. Tại sao? Nếu sát na tham có tận diệt thì lẽ ra có tham khác hết khác. Như vậy thì lẻ ra tham là thiệt hết là thiệt. Nếu tham là thiệt thì lẽ ra chẳng diệt tận.
Nhưng nầy Xá Lợi Phất! Tất cả hữu tình đều do chẳng chánh tư duy chẳng tác ý đúng lý nên sanh tham dục, xét về tham dục do phân biệt mà khởi lên. Nếu không phân biệt thì tình chấp dứt, nếu tình chấp dứt thì không có thiệt, do vì không thiệt nên trong đó không có tham, vì không tham nên tức là chơn thiệt. Nếu là chơn thiệt thì trong ấy không khổ. Do vì không khổ thì không thiêu não. Vì không thiêu não nên tức là chơn thiệt. Nếu là chơn thiệt thì trong ấy không nhiệt. Vì không nhiệt nên tức là thanh lương nên tức là Niết Bàn. Ở trong Niết Bàn không có tham ái.
Tại sao? Nầy Xá Lợi Phất! Xét về Niết Bàn không có tư lự. Ta phải trừ diệt tham ái ấy. Vì tham ái hết nên gọi là được Niết Bàn. Nếu như vậy thì năng tham khác và sở tham khác, Niết Bàn lại khác. Ðây nếu khác thì ở kia là kia. Nếu ở kia là kia, người trí phải nên suy tầm chỗ thiệt của kia. Suy tầm rồi chẳng được chỗ chắc thiệt. Nếu không chắc thiệt thì là hư giả. Nếu là hư giả thì là tịch tĩnh. Nếu là tịch tĩnh thì là không. Không có pháp gì? Không có ngã và ngã sở hoặc thường hoặc hằng hoặc trụ hoặc biến dị thì không có hữu tình không có thọ giả. Do như vậy nên không có khởi tham sân si.
- Nầy Xá Lợi Phất! Do cớ gì có ngã và ngã sở, chấp đây là ngã đây là ngã sở hữu? Vì điên đảo chấp ngã nên chấp ngã sở hửu. Vì chấp ngã sở hữu nên có sở tác. Ở trong sở tác phát khởi bốn hành động, đó là thân sở tác, ngữ sở tác, ý sở tác, do ý tư duy khởi thô ác ngữ, từ đó bèn phát sanh vận dụng thân để làm hại.
- Nầy Xá Lợi Phất! Tất cả phàm phu ngu si do vì họ phát khởi ý tưởng mình người dị biệt nên bị ý tưởng nó nắm, bị ý tưởng nó trói.
Ðại Bồ Tát do thật hành Thi la Ba la mật nên biết rõ sự ấy là điên đảo rôéi chẳng quen gần các hành. Tại sao? Vì do quen gần mà sanh sợ sệt. Ðại Bồ Tát nghĩ rằng nay ta vì cầu không sợ sệt để độ các chúng sanh thì chẳng nên ỡ nơi kia mà sanh sợ sệt, ta phải cùng kia thân ái.
- Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là đố với chúng sanh Ðại Bồ Tát tưởng là cha mẹ?
- Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi la Ba la mật, Ðại Bồ Tát nghĩ rằng từ đời lâu xa quá khứ đến nay không có một chúng sanh nào mà chẳng phải là cha là mẹ. Tất cả chúng sanh chắc chắn từng làm cha hoặc mẹ ta, do vì ở nơi họ sanh tâm tham nên bỏ ý tưởng là mẹ, sanh tâm sân nên bỏ ý tưởng là cha, mãi lưu chuyển sanh tử chẳng dứt. Suy nghĩ như vậy rồi ở nơi chúng sanh đại Bồ Tát đều tưởng là quyến thuộc cả.
- Nầy Xá Lợi Phất! Như thuở quá khứ vô số vô lượng bất tư nghị kiếp, bấy giờ có Phật hiệu Tối Thắng Chúng xuất thế đủ mười hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Phật ấy thọ chín câu chi năm cùng chín câu chi na do tha chúng đại Thanh Văn câu hội. Lúc ấy có Bồ Tát tên Ðắc Niệm sanh tại vương cung, thân hình đoan nghiêm khả ái có đủ sắc tướng tròn sạch đệ nhứt. Lúc Bồ Tát sơ sanh, phụ vương đã ban cho tám vạn bốn ngàn thể nữ trẻ, quyến thuộc lại tặng tám vạn bốn nghìn thể nữ trẻ đẹp, bạn hữu của phụ vương cũng tặng tám vạn bốn ngàn thể nữ trẻ đẹp, muốn lúc Bồ Tát lớn lên có người theo hầu.
Bấy giờ phụ vương lại vì Bồ Tát mà xây cung điện ba mùa: Ðiện mùa nóng, điện mùa mưa và điện mùa lạnh, để Bồ Tát theo mùa tùy ý ở. Lại còn ban cho trăm ngàn kỹ nhạc làm vui Bồ Tát.
Lúc nghe nhạc âm nổi lên, Bồ Tát ấy có ý tưởng sanh diệt vô thường. Lúc tiếng nhạc tạm dứt, Bồ Tát ấy suy tìm âm thanh ấy nương gì mà khởi, chỗ nào mà sanh, từ đâu mà dứt, chỗ nào mà mất. Lúc quan sát như vậy, Bồ Tát ấy chẳng còn ý tưởng ngày đêm sai biệt, chỉ luôn tưởng vô thường, tưởng không có gì đáng vui ưa ở thế gian cả.
- Nầy Xá Lợi Phất! Trong bốn vạn năm, Bồ Tát Ðắn Niệm chưa hề ham say âm nhạc, lại trong bốn vạn năm nữa, đối với ngũ dục chưa hề tham nhiễm.
Khi ấy Bồ Tát Ðắc Niệm ở trong thâm cung nhập tứ tĩnh lự phát ngũ thần thông, liền dùng sức thần túc bay lên hư không thẳng đến chỗ đức Tối Thắng Chúng Như Lai thưa thỉnh được chút ít chánh pháp rồi trở về bổn cung.
Ngày đức Tối Thắng Chúng Như Lai nhập Niết Bàn, Bồ Tát Ðắc Niệm lại đến chỗ ở của Phật hỏi chư Tỳ Kheo hiện nay Ðức Như Lai ở đâu, tôi muốn được hầu cận cúng dường. Chư Tỳ Kheo cho biết là Ðức Phật Tối Thắng Chúng đã nhập Niết Bàn. Bồ Tát ấy được tin Ðức Phật nhập Niết Bàn liền ngã xuống chết ngất, giây lâu tỉnh lại nói kệ rằng:
Ðấng huệ nhựt soi đời
Ðến bờ kia các pháp
Ta ở chỗ phóng dật
Tại sao tự khi dối
Trăm ngàn câu chi kiếp
Phật xuất thế một lần
Mà ta chẳng phụng thờ
Lấy ai để cứu nương
Như ta tự suy nghĩ
Mẹ ta chẳng biết thương
Sao mẹ chẳng cho hay
Ðể ta sớm thấy Phật
Cha cũng chẳng biết thương
Vùi ta trong ngũ dục
Bị đó giam cầm rồi
Chẳng gần thờ Như Lai
Chẳng được nghe lời Phật
Sáu mươi âm thanh diệu
Ðời sống mất lợi lành
Vì chẳng phụng thờ Phật
Ðấng đại bi cứu đời
Ðến bờ kia các pháp
Ta bị kiêu dật nắm
Chẳng gần thờ Thế Tôn
Ngàn ức do tha kiếp
Khó thấy được chư Phật
Ta chẳng lo cúng dường
Nhập diệt rồi mới đến
Nay ta lại suy nghĩ
Cha mẹ đều chẳng tốt
Lúc ta vừa lớn khôn
Sao chẳng nhắc đến Phật
Cho ta được thấy Phật
Thường gần kề Như Lai
Ðể luôn luôn cúng dường
Và được nghe chánh pháp
Ðức Như Lai tuyên dương
Sáu mươi âm thanh diệu
Mà ta chưa được nghe
Nhập diệt rồi mới đến
Nay ta mất lợi lành
Niết Bàn rồi mới đến
Không ai nói diệu pháp
Như Phật trước đã nói.
- Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ðắc Niệm đi đến bên giướng đức Tối Thắng Chúng Như Lai nhập Niết Bàn khóc than thảm thiết đi nhiễu bên hữu giường Như Lai trăm ngàn vòng rồi đứng qua một phiá mà nói kệ rằng:
Phật là đấng quần sanh tôn quí
Hiển dương pháp nhiệm mầu Vô thượng
Nay ta phát khởi tâm chí thành
Ðể được Bồ Ðề tối thắng ấy
Nay ta kính lễ chưn Như Lai
Ðấng trí huệ lớn lời chơn thiệt
Nguyện ta sẽ được trí huệ ấy
Ðồng như trí huệ Phật đã được
Xưa ta hèn kém không trí huệ
Ðọa trong phẩm loại hàng ma ngoại
Ở nhà ở cung nhiều ép buộc
Chẳng được gần Phật để phụng thờ
Ta đã từng tu phước thắng diệu
Do đó được tạm thấy Như Lai
Nhưng chưa được Phật rộng dạy truyền
Nên nay ta phải khổ sầu lớn
Nay ta đối trước chúng Thiên Long
Phát nguyện chí thành lời chơn thiệt
Nếu ta kỳ vọng mà chơn thiệt
Sẽ đúng như lời đều toại nguyện
Nguyện ta sẽ ở đời vị lai
Chư Phật Như Lai hiện ra đời
Thấy nghĩa thậm thâm dụng rộng lớn
Tuyên nói chơn thiệt pháp Vô thượng
Ta chẳng sanh nhằm các chướng nạn
Ðối với ngũ dục chẳng ham gần
Tự tại với sắc chẳng bị chuyển
Xô sập nhà giam của quân ma
Ðời đời thường được thấy chư Phật
Hiện tiền được nghe pháp Vô thượng
Thầy Phật sanh lòng tin thanh tịnh
Sanh lòng tin rồi tu các hạnh
Nếu nguyện chí thành của ta phát
Quyết sẽ thiệt được không hư luống
Khiến Ðức Như Lai lại ngồi dậy
Như đương ngủ say bỗng thức giấc.
- Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ðắc Niệm phát lời chí thành xong, đức Tối Thắng Chúng hiện nằm nhập Niết Bàn thoạt ngồi dậy. Bấy giờ trăm ngàn câu chi chư Thiên đem y thượng diệu rải lên cúng dường. Bồ Tát Ðắc Niệm vui mừng bay bọt lên hư không nói kệ rằng:
Ðấng đại từ bi soi sáng đời
Ðấng đại Ðạo Sư đại thần thông
Ðấng đại giác ngộ thế gian nương
Ðấng tuyên chánh pháp diệu Vô thượng.
- Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ðắc Niệm nói kệ ca ngợi Ðức Phật rồi lại muốn cho đại chúng càng thêm vui mừng nên ở trước Ðức Phật nói kệ rằng:
Ta ở đời sau sẽ là Phật
Xuất thế độ sanh như Thế Tôn
Ðại chúng phải nên bắt chước học
Sắm đủ mọi thứ cúng dường Phật
Ðấng đời dựa nương khó nghĩ bàn
Có ai thấy Phật chẳng kính mến
Phật thương chúng ta và chúng sanh
Ðã nhập Niết Bàn lại ngồi dậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ðắc Niệm ấy ở trong chánh pháp của đức ối Thắng Chúng Như Lai sắp đặt cúng dường to lớn tròng các gốc lành. Do sức thiện căn ấy, sau khi mạng chung sanh lên các cọi trời, trải qua hai mươi câu chi đại kiếp chẳng đọa ác đạo, lại trải qua hai mươi câu chi đại kiếp chẳng thọ dục lạc. Trong thời gian ấy, Bồ Tát Ðắc Niệm gần gũi cúng dường bảy ngàn Ðức Phật. Vì cầu Vô Thượng Bồ Ðề nên thường tu phạm hạnh. Ở kiếp sau cùng trong thời kỳ mạt thế cảm được thân thắng thượng từ sức thiện căn phát khởi thành Ðẳng Chánh Giác hiệu là Ta La Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, thọ hai mươi câu chi năm, cùng các đệ tử hai hội thuyết pháp. Hội thứ nhứt có hai mươi câu chi đệ tử đại Thanh Văn. Hội thứ hai có bốn mươi ngàn đệ tử đại Thanh Văn. Tất cả đều là đại A La Hán hết phiền não có thế lực lớn tâm được tự tại đã đến bờ kia. Sau khi Ðức Phật Ta La Vương nhập Niết Bàn, Xá lợi lưu bố xây tháp cúng dường. Chánh pháp ở đời đủ mười ngàn năm".
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
"Xá Lợi Phất nên biết
Bồ Tát Ðắc Niệm ấy
Hai mươi câu chi kiếp
Chẳng sa đọa ác đạo
Lại bằng thời gian ấy
Chẳng gần các tham dục
Trong khoảng thời gian ấy
Gặp bảy ngàn Ðức Phật
Ưa thích các Phật pháp
Thường tu hạnh thanh tịnh
Sau cùng chứng Bồ Ðề
Hiệu Ta La Vương Phật
Chứng Vô thượng giác rồi
Lợi ích các chúng sanh
Hai mươi câu chi năm
Tuyên rộng pháp vi diệu
Chúng hai mươi câu chi
Hội thứ hai bốn vạn
Ðều là đại La Hán
Thánh đệ tử của Phật
Sau khi Phật nhập diệt
Xá lợi rộng lưu bố
Xây sàu vạn câu chi
Linh tháp để cúng dưởng
Chánh pháp trụ tại thế
Ðủ mưởi ngàn năm trọn
Người nghe Phật chánh giáo
Sanh lòng tin thanh tịnh
Ðức Phật nói chánh pháp
Người trí chẳng nghi ngờ
Trọn chẳng đọa ác đạo
Mau chứng đại Niết Bàn.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát do thật hành Thi la Ba la mật nên giới tụ thanh tịnh, với chúng sanh tưởng là cha mẹ. Ðại Bồ Tát nghĩ rằng xưa kia ta vì tâm tham mà bỏ ý tưởng là mẹ, vì tâm sân mà bỏ ý tưởng là cha. Nay ta thật hành Thi la Ba la mật an trụ nơi giới thanh tịnh, nơi ngũ dục kia luôn có ý tưởng nhàm chán xa rời. Do có chánh tư duy như vậy nên đại Bồ Tát có thể biết rõ tướng ngũ dục, lại hay biết rõ ngũ dục đáng chán đáng rời.
Những gì là tướng ngũ dục và nhàm lìa?
Gọi là dục tức là tham ái. Với nhãn thức tham, những sắc bị biết thì gọi là dục. Với nhĩ thức tham, những âm thanh bị biết thì gọi là dục. Với tỷ thức tham, những hương bị biết thì gọi là dục. Với thiệt thức tham, những vị bị biết thì gọi là dục. Với thân thức tham, những xúc bị biết thì gọi là dục. Nếu có tham ái thì có chấp trước. Xét về chấp trước thí gọi là kết. Kết gọi là phát khởi. Phát khởi gọi là trói. Lại cũng gọi là hí luận chẳng thiệt.
- Nầy Xá Lợi Phất! Tất cả chúng sanh đều bị hí luận chẳng thiệt ấy nó trói, nó quấn, nó trói khắp, nó tăng thượng trói khắp mà chẳng giải thoát được.
- Nầy Xá Lợi Phất! Tất cả chúng sanh bị những gì trói cột mà gọi là bị trói? Ðó là bị sắc nó trói, bị thanh hương vị và xúc nó trói nên gọi là bị trói.
Lại những gì là sắc nó trói? Ðó là ở nơi tự thân chỗ có những hình sắc vọng sanh ý tưởng là ngã, là mạng giả, là hữu tình, là thường hằng, là chẳng biến dị, là thiệt, là toàn, là hiệp nhứt. Những ý tưởng ấy gọi là sắc nó trói.
- Nầy Xá Lợi Phất! Những gì gọi là sắc trói? Ðó là ở nơi tự thể tướng ngã đã được phát khởi ấy rất mến, rất quí trọng sanh ngã ái lớn, với thê thiếp quyến thuộc luyến ái chẳng thôi. Ðây gọi là bị sắc trói.
- Nầy Xá Lợi Phất! Các chúng sanh ấy đã được thọ dụng các dục lạc rồi tạo nên các nghiệp bất thiện, chẳng biết được đúng thiệt lỗi lầm của ngũ dục.
- Nầy Xá Lợi Phất! Tất cả ngũ dục không thứ nào là chẳng phải tọi lỗi. Thếnên đối với các tội lỗi, người trí chẳng nên tham dục. Nhưng đọa ác đạo là lỗ nặng của tham dục, Phật sẽ khai thị tướng ấy cho ông.
- Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là hay đọa ác đạo là lỗi nặng của ngũ dục?
- Nầy Xá Lợi Phất! Người quen gần gũi dục thì chẳng có chút ác nào mà chẳng gây tạo. Lúc nó chín mùi thì chẳng có chút khổ nào mà chẳng gánh chịu. Vì thế nên, nầy Xá Lợi Phất! Ðức Phật xem thấy tất cả chúng sanh trong thế giới, oán hại lớn của họ không gì hơn thê thiếp nữ sắc các tham dục.
Nấy Xá Lợi Phất! Xét về trí tức là Như Lai. Nói là người vô trí tức là chúng sanh vậy. Nếu là chỗ bị quở trách của người trí thì gọi là chơn thiệt. Nếu là những sự nhiếp thọ của người vô trí thì chẳng chơn thiệt.
- Nầy Xá Lợi Phất! Người vô trí nhận chịu những gì? Ðó là nhiếp thọ những pháp hữu vi, nhiếp thọ thê thiếp con cái. Những người vô trí ấy trở lại bị thê thiếp con cái nhiếp thọ. Cứ mãi xoay vần nhiếp thọ nhau như vậy thí chẳng nhiếp thọ thánh đạo.
- Nầy Xá Lợi Phất! Vì bĩ trói buộc nơi thê thiếp vợ con nên người vô trí ấy sanh nhiều chướng ngại nơi pháp lành. Chướng ngại những gì? Ðó là chướng ngại xuất gia, chướng ngại Thi la, chướng ngại tĩnh lự, chướng ngại thiên đạo, chướng ngại Niết Bàn, lại hay chướng ngại các pháp diệu thiện.
- Nầy Xá Lợi Phất! Người vô trí ấy nhiếp thọ thê thiếp nữ sắc con cái như vậy, nói tóm lược là nhiếp thọ oán thù, là nhiếp thọ địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ các ác đạo, là nhiếp thọ các pháp ác bất thiện, mà chướng ngại tất cả pháp Hiền Thánh. Vả lại nhiếp thọ thê thiếp nữ sắc như vậy còn chướng ngại cả sự ăn ngon huống là những thắng pháp khác.
- Nầy Xá Lợi Phất! Tóm lược mà nói về chướng ngại ấy, đó là chướng ngại thấy Phật, chướng ngại nghe Pháp, Chướng ngại phụng Tăng, chướng ngại lòng tin đối với Phật, Pháp và Tăng, chướng ngại được vô hạn, chướng ngại bảy Thánh tài: tín, giới, văn, xả, huệ, tàm và quý.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nếu nhiếp thọ những sắc dục thê thiếp nam nữ tức là nhiếp thọ bất tín, ác giới, tà văn, xen lẫn và tà kiến cùng vô tâm vô quý, lại cũng nhiếp thọ bịnh ung, tên độc, khói lửa, rắn độc.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu thích ở nhà mê say chẳng rời bỏ tức là thích mồ mả. Thế nên Phật nói ở tại gia như gò mả, như ở đồng hoang không chỗ dựa nương liền mất tất cả pháp trắng sạch.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nếu say đắm nơi sắc dục nam nữ thê thiếp, phải biết đó chíng là say đắm ngòi nổ của trái pháo, là say đắm mũi nhọn của dao bén, là say đắm hòn sắt nóng đỏ lớn, là say đắm nằm giường sắt nóng, là say đắm ngồi ghế sắt nóng.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nếu say đắm trang điểm vòng hoa hương xoa, chính là say đắm vòng sắt nóng cứt đái xoa thân.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nếu nhiếp thọ nhà cửa để ở, đó là nhiếp thọ chum sắt nóng lớn. Nếu nhiếp thọ tôi trai tớ gái công nhơn, đó là nhiếp thọ quỉ tốt ác địa ngục. Nếu nhiếp thọ gia súc, đó là nhiếp thọ chó sắt, ngựa đen ở địa ngục, lại là nhiếp thọ trăm ngàn lính cấm vệ địa ngục. Nếu nhiếp thọ nữ sắc thê thiếp, phải biết đó là nhiếp thọ tất cả khối sầu lo buồn khổ.
- Nầy Xá Lợi Phất! Thà gá nằm trên giường sắt nóng rộng ngàn na do tha, chớ chẳng dùng lòng ái nhiễm xa nhìn các nữ sắc thê thiếp của cha mẹ cung cấp, huống là gần kề ôm ấp.
- Nầy Xá Lợi Phất! Phải biết phụ nhơn là gốc các sự khổ, là gốc chướng ngại, là gốc sát hại, là gốc trói buộc, là gốc ưu sầu, là gốc oán đối, là gốc sanh manh.
Phải biết phụ nhơn diệt mất thánh huệ nhãn. Phải biết phụ nhơn như hoa sắt nóng đỏ rải trên đất chưn dẫm lên đó. Phải biết phụ nhơn lưu bố tăng trưởng các tánh tà ác.
- Nầy Xá Lợi Phất! Cớ gì gọi là phụ nhơn?
Chữ phụ ấy có nghĩa là mang gánh nặnh. Tại sao ? Vì hay khiến chúng sanh mang gánh nặng. Vì hay khiến chúng sanh chịu lấy gánh nặng. Vì hay khiến chúng sanh khốn nơi gánh nặng. Vì hay khiến chúng sanh khốn nơi gánh nặng. Vì hay khiến chúng sanh giữ lấy gánh nặng mà đi. Vì hay khiến chúng sanh vác gánh nặng đi khắp nơi. Vì hay khiến chúng sanh lòng khổ nhọc đối gánh nặng ấy. Vì hay khiến chúng sanh bị gánh nặng ấy nung bức. Vì hay khiến chúng sanh bị gánh nặng thương tổn vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Chữ phụ ấy lại có nghịa là chỗ mà chúng sanh thua thiệt. Chỗ trôi chìm của mọi tham ái. Chỗ nộp thuế của kẻ thuận theo vợ. Chỗ mê hoặc của vợ đẹp. Chỗ quy đầu của vợ hơn. Chỗ roi vọt của kẻ sợ vợ. Chỗ phóng túng của vợ tự do. Chỗ khổ mệt của kẻ làm mọi vợ. Do các cớ ấy nên gọi những chỗ như vậy là phụ.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Chúng sanh trong đời vì cớ vợ chẳng bỏ nên gánh nặng chẳng bỏ. Những gánh nặng gì? Ðó là ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
Phụ nhơn trong đời có thể làm cho chúng sanh chẳng bỏ gánh nặng ngũ uẩn như vậy, nên gọi ngũ uẩn là phụ.
- Nầy Xá Lợi Phất! Lại cớ gì người đời gọi vợ là cố đệ nhị? Vì nữ nhơn ấy là bạn thứ hai phạm Thi la, là bạn thứ hai phạm oai nghi, là bạn thứ hai phạm chánh kiến, là bạn thứ hai khi uống ăn, là bạn thứ hai đi đến địa ngục, bàng sanh, quỉ đạo, là bạn thứ hai làm chướng Thánh huệ, làm ngại vui Niết Bàn nhiếp lấy tất cả khổ vậy. Vì thế nên người đời gọi vợ là cố đệ nhị.
- Nầy Xá Lợi Phất! Lại cớ gì người đời gọi vợ là mẫu chúng? Vì nữ nhơn sanh nhiều lỗi lầm vô biên sự ào dối, nên gọi là mẫu chúng. Nếu ai đeo theo mẫu chúng tự do thì nên biết là sa vào trong tay quân ma tự do làm ác.
Phải biết tất cả nữ nhơn trong đời sanh nhiều lỗi lầm vô biên ảo dối, lòng họ nhiều tháo động, nhiều lưu đảng ngiêng úp chẳng dừng, lòng họ như khỉ như vượn, họ khéo thuật hiện bày ảo dối, vì thế nên gọi nữ nhơn là mẫu chúng.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nói mẫu chúng tức là thôn mẫu ảo, cũng gọi là thành ảo, là ấp ảo, là thủ đô của ảovương, là nhà trọ của ảo khách, là quán xá của ảo nhơn, là ảo quốc, ảo thôn, ảo xứ, ảo phương, là thế gian ảo, thế giới ảo, vô biên ảo, quảng đại ảo, vô lượng ảo, bất tư nghị ảo, quảng đại ảo, vô lượng ảo, bất tư nghị ảo. Do vì là lỗi nặng dục lạc hay đến ác đạo nên hiệu nữ nhơn là thôn mẫu ảo.
Thí như nhà ảo thuật học giỏi ảo thuật ở giữa công chúnh hiện ra nhiều sự ảo dối.
Cũng vậy, mẫu ảo thôn học giỏi thuật ảo dối của nữ nhơn, có thể khiến người chồng hoặc thấy hoặc nghe hoặc rờ hoặc chạm đều bị trói buộc.
Nữ nhơn lại giỏi cách mê hoặc, do đó họ có thế lực nhiều. Phàm họ có động tác như ca vũ cợt cười khóc than, hoặc đi đứng ngồi nằm đều khiến người chồng chẳng tự chủ mà bị trói buộc sai sử.
Thí như trong đời ruộng lúa chín bị mưa đá phá nát ngập lụt.
Cũng vậy, mẫu ảo thôn như mưa đá tuôn vào ruộng người chồng phá nát tất cả pháp lành lúa tốt.
- Nầy Xá Lợi Phất! Phu nhơn có bao nhiêu là lỗi nặng thẳng đến ác đạo mà phàm phu ngu si bị họ mê hoặc chẳng hay biết là lỗi nặng, trởi lại nhiếp thọ thê thiếp nữ sắc rồi mê say trong ấy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Vì Ðại Bồ Tát trí huệ thật hành Thi la B la mật nên ở nơi các dục lạc biết rõ là lỗi bèn y theo chánh pháp phát khởi hai ý tưởng: đó là với hàng ngu phu có ý tưởng là ác nhơn, với chư Phật và Bồ Tát có ý tưởng là thiện nhơn. Có ý tưởng ấy rồi, Ðại Bồ Tát ấy nghĩ rằng nay ta phải đến chỗ thiện nhơn mà không nên đến chỗ ác nhơn. Ta không nên đến chỗ địa ngục, bành sanh ngạ quỉ. Ta không nên đến chổ phá Thi la, chỗ phạm luật nghi. Ta phải đến chỗ tối thắng Vô thượng vô chướng ngại rời lìa hẳn các pháp ác trược. Ta phải đến chỗ chư Phật Như Lai đại trí huệ. Ta phải ngược dòng mà đi, không nên thuận dòng. Ta phải như sư tử rống, chẳng phải như cheo kêu. Ta phải hiển hiện thế lực như kim sí điểu vương, chẳng nên hiển hiện sức mọn của côn trùng nhỏ. Ta phải làm người hiền lương, chẳng nên làm người hiểm ác hư hỏng. Ta phải ăn món ăn hiền lương thắng thượng trong sạch, chẳng nên ăn món vô lương, hạ tiện nhơ bẩn. Ta phải tu hành tĩnh lự vi diệu, tĩnh lự tối thắng, tĩnh lự thù đặc, tĩnh lự đệ nhứt, chẳng nên tu hành các tĩnh lự hạ liệt không phải các loại tĩnh lự trên.
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát nghĩ rằng ta phải du hí trong tĩnh lự chư Phật, chẳng nên di hí trong các tĩnh lự của Thanh Văn, Ðộc Giác phàm phu. Ta phải tu hành tĩnh lự không y dựa, chẳng nên tu hành tĩnh lự y dựa nơi sắc, y dựa nơi thọ tưởng hành thức, chẳng nên tu hành tĩnh lự y dựa nơi địa thủy hỏa phong, cũng chẳng tu hành tĩnh lự y dựa dục giới sắc giới vô sắc giới, cũng chẳng tu hành tĩnh lự y dựa nơi đã thấy đã nghe đã nhớ đã biết đã được đã chạm đã chứng. Ta phải tu hành tĩnh lự không y dựa. Do tu tập như vậy nên chẳng tổn mình cũng chẳng tổn người cũng chẳng cùng tổn. Ta phải cần cầu viên thành Phật trí há lại nên cầu các dục lạc thế gian.
- Nầy Xá Lợi Phất! Lúc tu hành Thi la Ba la mật có chánh quán như vậy rồi, Ðại Bồ Tát lại phải phát khởi bốn thứ chán lìa:
Một là có thể đối với các dục lạc mà sanh chán lìa.
Hai là đối với các cõi có thể sanh chán lìa.
Ba là đối với các chúng sanh chẳng biết ơn hay sanh chán lìa.
Bốn là đối với tất cả chỗ làm những khổ não hay sanh chán lìa.
- Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi la Ba la mật, Ðại Bồ Tát quan sát các hữu tình ở nơi ác đạo thấy nữ sắc đẹp sanh lòng tham thì phải phát khởi bốn ý tưởng chán lìa, đó là những ý tưởng thối thất, té ngã, đi cầu tiêu và mủ chảy cứt thúi dơ.
- Nầy Xá Lợi Phất! Các hữu tình ở ác đạo mà có hiểu biết, thấy nữ sắc đẹp còn phải có bốn ý tưởng như trên huống là loài người.
- Nầy Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử ở Ðại thừa, những người chán lìa tất cả pháp hữu vi khi thấy nữ sắc đẹp phát khởi bốn ý tưởng: Thối thất, té ngã, đi cầu tiêu, mủ cứt, nếu còn sanh lòng tham thì lại phải phát sanh ba ý tưởng thân thuộc, nếu bằng mẹ thì tưởng là mẹ, bằng chị em thì tưởng là chị em, bằng con cháu thì tưởng là con cháu.
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát nghe Phật giảng dạy mà khéo hiểu được thì phải tùy thuận kinh điển Thi la Ba la Mật như vậy. Tại sao? Vì khó có chúng sanh nào từ đời lâu xa đến nay mà chẳng phải đã từng làm cha mẹ ta. Nếu gần kề thê thiếp nữ nhơn đó là gần kề người mẹ đời quá khứ vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nghe Phật giảng dạy rồi, Ðại Bồ Tát vì được thanh tịnh nên phải siêng tu học như vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Ngu phu trong đời trái nghịch chẳng tin chánh pháp ấy. Bồ Tát thì tùy thuận chánh pháp không trái nghịch.
Nếu ai đã tu hành chánh quán ấy mà tâm tham vẫn còn, thì phải theo đúng lý để quán sát tâm tham ấy thấy gì mà phát sanh. Nếu do nơi nhãn căn mà khởi tâm tham, lại phải theo đúng lý quán sát: Ta do nhãn căn mà phát khởi ái nhiễm, vậy ai thấy được nhãn căn? Có phải là nhãn căn thấy nhãn căn chăng, thế thì tự nó thấy nó cjhăng? Tại sao? Kia cũng là nhãn căn mà đây cũng là nhãn căn, đều do tứ đại tạo thành, lại do đại chủng sanh ra. Chẳng phải do tự thể kia ở nơi tự thể nầy mà sanh nhiễ ái, lại chẳng phải nơi tự thể ta mà sanh nhiễm ái. Tại sao? Vì kia tức là đây vậy. Nếu ở nơi kia sanh nhiễm ái thì phải ở nơi đây sanh nhiễm ái. Tại sao? Vì không sai khác vậy.
Phàm phu trong đời ngu si cùng chung trong tham ái, ta phải cầu những pháp khác biệt họ. Tại sao? Vì những cảm giác ái dục đều vô sở đắc vậy".
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằnh:
"Lẫn nhau đồng một thể
Ðều không tánh sai khác
Do trái lý tà chấp
Phát khởi tâm tham ái
Sao do tứ đại sanh
Lại nhiễm được đại tạo
Các pháp dường như ảo
Không gì khởi tham ái
Ngu phu nhận biết sai
Vọng sanh lòng tham ái
Kẻ bất hiếu sanh tham
Người hiền thiện không ái
Khắp cả mười phương cõi
Không tìm được tham thiệt
Chỉ do nhận biết sai
Nên sanh lòng tham ấy.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi la Ba la mật, Ðại Bồ Tát quán sát như vậy rồi mà lòng tham ấy vẫn còn, lại phải tùy thuận kinh điển như vầy: Nhãn căn như khối bọt nước chẳng bốc nắm được. Tại sao? Vì khối bọt nước chẳng bốc nắm được. Tại sao? Vì khối bọt nước ất cũng như tất cả pháp đều không có ngã cũng không có tình, không có thọ giả, không tri giả, không kiến giả, không nhơn giả, không ý sanh, không tác giả, không thọ giả. Ở trong tất cả pháp vô tác vô thọ như vậy thì ai nhiễm ái được và nhiễm ái chỗ nào?
- Nầy Xá Lợi Phất! Nhãn căn như bóng nước chẳng cứng chắc. Tại sao? Vì bóng nước cũng như tất cả pháp vốn không có ngã, không có tình, không thọ giả, không tri giả, kiến giả, không có nhơn, không tác giả, không thọ giả. Ở trong những pháp không tác không thọ như vậy ai nhiễm ái được, nhiễm ái chỗ nào?
- Nầy Xá Lợi Phật! Nhãn căn như dương diệm do khát ái sanh như cây chuối chất chẳng cứng chắc, như cảnh mộng chẳng thiệt, như vang docác duyên, như bóng y nghiệp mà hiện, như áng mây bay tan, như chớp xẹt liền mất, như hu không rời ngã ngã sở, như cỏ cây đất đá vì là vô tri, như máy chuyển động theo gió, như đống rác mục mau thúi rã, như giếng trên gò luôn gìa khô, nhãn căn chẳng còn lâu rồi sẽ chết hư vốn không ngã, không tình, không mạng, không tri giả kiến giả, không nhơn, không tác giả thọ giả, ai nhiễm ái và nhiễm ái chỗ nào?
Như nhãn căn, quán sát những căn những trần tất cả các pháp cũng theo đúng lý như vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Lúc Ðại Bồ Tát quán sát đúng lý như vậy mà còn bị các tham ái kéo dắt thì không bao giờ có.
Ðại Bồ Tát chánh quán như vậy, phải biết là rời hẳn tham ái đối với các pháp. Ðây gọi là lúc thật hành Thi la Ba la mật, đại Bồ Tát diệt các tham ái trọn vẹn thanh tịnh.
- Nầy Xá Lợi Phất! Thật hành Thi la Ba la mật như vậy, Ðại Bồ Tát chẳng là những nghiệp hại chúng sanh, dầu cho lúc mạng sống của mình bị đe dọa cũng chẳng làm tổn hại tất cả chúng sanh, chẳng làm những nghiệp trộm cướp, tà hạnh, vọng ngôn, ác khẩu, ly gián, ỷ ngữ, chẳng sanh lòng tham, lòng sân, tà kiến. Dầu cho mạng sống của mình bị đe dọa cũng chẳng phạm các điều ác ấy. Ðây gọi là Thi la thanh tịnh.
- Nầy Xá Lợi Phất! Do thật hành Thi la Ba la mật nên Ðại Bồ Tát đầy đủ vô lượng vô biên Phật Pháp.
Do thật hành Thi la Ba la mật nên Ðại Bồ Tát đầy đủ thành tựu Thi la chẳng khuyết, vì chẳng gần kề kẻ vô trí vậy. Ðầy đủ thành tựu Thi la chẳng lủng, vì hay xa rời pháp bất bình đẳng vậy. Ðầy đủ thành tựu Thi la chẳng lem, vì chẳng gần kẻ ác và các phiền não vậy. Ðầy đủ thành tựu Thi la chẳng ô nhiễm, vì chỉ do pháp lành làm tăng trưởng vâ(y. Ðầy đủ thành tựu Thi la ứng cúng, vì làm như sở nguyện vậy. ÐDầy đủ thành tựu Thi la khen ngợi, vì chẳng bị người trí quở trách vậy. Ðầu đủ thành tựu Thi la khéo giữ gìn, vì viên mãn chánh niệm và chánh tri kiến vậy. Ðầy đủ thành tựu Thi la chẳng chê, vì các lỗi lầm chẳng sanh vậy. Ðầy đủ thành tựu Thi la khéo hộ trì, vì khéo phòng vệ các ăn vậy. Ðầy đủ thành tựu Thi la cao rộng, vì được chư Phật nhớ biết vậy. Ðầy đủ thành tựu Thi la thiểu dục, vì biết lường vậy. Ðầy đủ thành tựu Thi la tri túc, vì dứt vui mừng vậy. Ðầy đủ thành tựu Thi la chánh hạnh, vì thân tâm xa rời vậy. Ðầy đủ thành tựu Thi la tịch tĩnh, vì chán phiền rộn vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la thánh chủng thiện hỷ, vì chẳng mong chẳng đoái nhan sắc vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la công đức ít sự việc, vì tự tại sanh trưởng các thiện căn vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la làm đúng như lời, vì chẳng dối trới người thế gian vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la đại từ, vì chẳng hại mạng sống của tất cả vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la đại bi, vì nhịn chịu tất cả sự khổ vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la đại hỷ, vì chẳng thối giảm nơi pháp lạc vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la đại xả, vì tất cả tham sân dứt sạch vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la thường Xét lỗi mình, vì nội tâm thường khéo có soi xét vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng chê người kém khuyết vì khéo thuận hộ tâm chúng sanh vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la thành thục chúng sanh, vì rốt ráo hay đến thí Ba la mật vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la khéo thủ hộ, vì rốt ráo hay đến Giới Ba la mật vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la không lòng ghét hại, vì rốt ráo đến Nhẫn Ba la mật vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la định phần viên mãn, vì rốt ráo đến Tĩnh lự Ba la mật vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la chánh văn chẳng nhàm, vì rốt ráo đến Ðại huệ Ba la mật vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la thân cận thiện hữu, vì khéo tu tập Bồ Ðề phần tư lương vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la xa rời ác hữu, vì vứt bỏ đạo bất bình đẳng vậy. Thánh tựu đầy đủ Thi la chẳng đoái luyến thân thể mình, vì hằng quán sát vô thường vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng đoái luyến mạng sống mình, vì chẳng thường bảo thủ chỗ sở trọng của mình vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng sanh lòng ăn năn, vì lòng khéo thanh tịnh vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng dối hiện, vì phương tiện khéo thanh tịnh vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng não nhiệt, vì ý tăng thượng khéo thanh tịnh vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng bồn chồn, vì rời xa các tham ái vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng cao mạn, vì hòa nhu chất trực vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng ngang ngược, vì tánh hiền thiện vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la khéo điều phục, vì không giận hờn vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la tịch tĩnh, vì tánh an nhiếp vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la thiện ngữ, vì đúng như lời đã nói không trái nghịch vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la thành thục hữu tình, vì thường chẳng bỏ rời các nhiếp pháp vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la thủ hộ chánh pháp, vì chẳng tự làm hư thánh pháp tài vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát trí huệ thanh tịnh giới tụ như vậy, thành tựu đầy đủ Thi la Ba la mật, vì Vô thượng Bồ Ðề nên có thể khéo tu hành Bồ Tát diệu hạnh. Ðây gọi là Ðại Bồ Tát Thi la Ba la mật.
Nếu chư Ðại Bồ Tát chuyên cần tu hành Bồ Tát hạnh nầy, thì tất cả chúng ma, ma dân, thiên ma chẳng nhiễu loạn được, lại chẳng bị dị đạo hay tha luận đè bẹp".
Pháp Hội Bồ Tát Tạng
Phẩm Thi La Ba La mật
Hết

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 120 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 2


An Sĩ toàn thư - Khuyên người tin sâu nhân quả - Quyển Thượng


Giọt mồ hôi thanh thản


Chuyện Vãng Sanh - Tập 1

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.128.226.128 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập