Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 50 »»

Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 50

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.52 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.67 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Đại Bửu Tích

Kinh này có 120 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 39 | 40 | 41 | 42 | 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 | 51 | 52 | 53 | 54 | 55 | 56 | 57 | 58 | 59 | 60 | 61 |
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

- Nầy Xá Lợi Phất! Phải biết Ðại Bồ Tát được thông trí ấy là do tâm thanh tịnh, tâm trắng bóng, tâm sáng sạch, tâm không ô trược, tâm rời lìa tùy phiền não, tâm khéo tùy thuận, tâm khéo tịch tĩnh, tâm khéo sửa trau, những tâm tướng như vậy là do phát khởi tĩnh lự giải thoát định và giải thoát huệ vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát ấy ở các thế giới là cố tác ý mà sanh chớ chẳng phải bị nghiệp buộc mà sanh, cũng chẳng phải do nghiệp buộc mạng chung mà sanh. Tại sao? Vì Ðại Bồ Tát ấy đã giải thoát tất cả hư vọng phân biệt vậy, đã giải thoát tất cả phiền não phược chẳng chơn thiệt vậy, giải thoát tất cả chỗ y chỉ của những điên đảo vọng chấp vậy. Thế nên đại Bồ Tát ấy hiện thân thế giới: giải thoát mà sanh, giải thoát mà mạng chung, giải thoát mà thọ sanh. Thọ sanh rồi, Ðại Bồ Tát ấy làm xong Ðại thừa viên mãn chánh giáo của tất cả chư Phật, …khắp mười phương rộng cầu Phật pháp. Dầu chí có chỗ cầu, mà không lấy không được, tùy nhập chư Phật pháp tức là tất cả pháp, tùy nhập tất cả pháp tức là chư Phật pháp. Ðại Bồ Tát ấy tùy nhập Phật pháp và tất cả pháp, nhưng chẳng tùy theo pháp hành phi pháp hành ấy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Chư Ðại Bồ Tát lúc có thể như thiệt cầu các pháp mà an trụ không lấy không được như vậy thì không có một pháp nào có thể đem vào toán số. Tại sao? Vì tất cả pháp siêu quá đạo toán số vậy. Nếu rõ thấu được pháp tánh bình đẳng thì chẳng chấp pháp cùng phi pháp. Tại sao? Vì tất cả pháp tánh không chấp vậy. Nếu tính cho rằng trong ấy có nghĩa thì có vô nghĩa lớn rộng. Nếu khéo chẳng tính nơi nghĩa thì nghĩa và vô nghĩa đều không. Người chẳng thấy nghĩa đối với tất cả chỗ có giác huệ vô ngại. Ðại Bồ Tát ấy nếu có thể rõ biết vô ngại thì là được trí vô ngại. Nếu có trí vô ngại thì chẳng chấp trước tất cả. Nếu không sở trước thì là không sở trụ. Nếu không sở trụ thì là không chỗ thiếu. Nếu không chỗ thiếu thì không ngu si không nguyện cầu. Nếu không ngu si không nguyện cầu thì không mê không lầm. Nếu không mê không lầm thì không ngã sở. Nếu không ngã sở thì không nhiếp thọ. Nếu không nhiếp thọ thì không chỗ chấp. Nếu không chỗ chấp thì không tranh luận. Nếu không tranh luận thì là pháp vô tránh của Sa Môn . Nếu có pháp vô tránh của Sa Môn thì là tất cả không chướng không ngại như hư không. Nếu không chướng không ngại như hư không thì chẳng hệ thuộc ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Nếu chẳng hệ thuộc các cõi thì không sắc tướng và hình lượng. Nếu đều không sắc tướng và hình lượng thì có thể tùy giác. Nếu có thể tùy giác thì có thể thông đạt.
- Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là tùy giác thông đạt?
Ðại Bồ Tát nếu có thể liền giác ngộ thông đạt chỗ ấy không có chút pháp có được, thì gọi là tùy giác thông đạt.
- Nầy Xá Lợi Phất! Chư Ðại Bồ Tát do bình đẳng chứng nhập tùy giác thông đạt như vậy, nên gọi là Ðại Bồ Tát y Tĩnh lự Ba la mật được thành tựu pháp hi kỳ chưa từng có.
Thế nào là pháp hi kỳ chưa từng có?
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát y Tĩnh lự Ba la mật, dầu thật hành đại từ mà luôn quán vô ngã. Dầu thật hành đại bi mà biết không chúng sanh. Dầu thật hành đại hỉ mà biết không thọ mạng. Dầu thật hành đại xả mà biết không hữu tình. Dầu rộng thật hành đại thí mà tâm luôn điều thuận. Dầu duyên cảnh tịnh giới mà tâm thường tịch tĩnh. Dầu thật hành nhẫn nhục mà tâm vô biên tế. Dầu siêng tinh tấn mà tâm hay chọn họp. Dầu nhập các tĩnh lự mà chánh tâm quán sát. Dầu khắp hành trí huệ mà tâm vô sở hành. Dầu hành tứ niệm trụ mà tâm không duyên niệm cũng không tác ý. Dầu hành tứ chánh cần mà tâm không sanh diệt. Dầu hành tứ như ý túc mà tâm chẳng hí luận. Dầu hành tịnh tín mà tâm không hệ trước. Dầu hành tinh tấn mà tâm luôn xa rời. Dầu hành nơi niệm mà tâm thường tự tại. Dầu ở trong định mà tâm chứng bình đẳng. Dầu hành nơi huệ mà tâm vốn vô tướng. Dầu hành ngũ lực mà tâm không dẹp phục. Dầu hành giác phần mà phân tích Bồ Ðề. Dầu tu đạo phần mà tâm không tu. Dầu hành chỉ mà tâm luôn tịch diệt. Dầu hành quán mà tâm không định quán. Dầu tu hành thánh đế mà cứu cánh biến tri. Dầu thành thục chúng sanh mà tâm vốn thanh tịnh. Dầu nhiếp thọ chánh pháp mà chẳng hoại pháp tánh. Dầu tịnh Phật Ðộ mà tâm đồng hư không. Dầu chứng pháp vô sanh mà tâm vô sở đắc . Dầu hành bất thối chuyển địa mà tâm tánh không thối chuyển . Dầu được các diệu tướng mà biết tánh không có tướng. Dầu trang nghiêm đạo tràng mà tâm đi trong tam giới thường ở khắp nơi. Dầu hàng phục quân ma mà đối với tất cả hữu tình không có xô dẹp. Dầu biết các pháp là tánh bồ đề mà tâm liền biết rõ. Dầu chuyển pháp luân mà tâm an trụ pháp tánh không hoàn không chuyển. Dầu hiện Niết Bàn mà tâm thường bình đẳng đối với sanh tử.
Ðây gọi là Ðại Bồ Tát bình đẳng chứng nhập tùy giác thông đạt. Pháp hi kỳ chưa từng có ấy phải biết là do tu hành Tĩnh lự Ba la mật mà thành tựu.
- Lại này Xá Lợi Phất! Những gì gọi là tướng Ðại Bồ Tát y Tĩnh lự Ba la mật tu học Bồ Tát tĩnh lự?
- Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát tĩnh lự chẳng trụ tự tánh, vì để đầy đủ những chánh định như vậy. Bồ Tát tĩnh lự không có mến mùi, vì chẳng tham trước để tự an vui vậy. Bồ Tát tĩnh lự duyên nơi đại bi, vì dứt phiền não tất cả chúng sanh vậy, Bồ Tát tĩnh lự chánh định không thối chuyển, vì duyên nơi tánh dục tăng thượng vậy, Bồ Tát tĩnh lự nháng phát thần thông vì rõ thấu các tâm hành của chúng sanh vậy, Bồ Tát tĩnh lự tâm thích mến vui, vì khéo có thể hiển phát tâm tự tại vậy. Bồ Tát tĩnh lự biết rõ tất cả tam ma bát đề, vì chói che tất cả cõi Sắc, vô Sắc vậy, Bồ Tát tĩnh lự là tịch tĩnh tối thắng, vì chói che chánh định của Thanh Văn, Ðộc Giác vậy. Bồ Tát tĩnh lự không có phân biệt, vì tột cứu cánh thanh tịnh vi diệu vậy, Bồ Tát tĩnh lự hành phẩm tối thắng, vì tập khí tương tục đã trừ diệt hẳn vậy, Bồ Tát tĩnh lự dùng huệ siêu độ, vì siêu độ tất cả các thế gian vậy, Bồ Tát tĩnh lự làm đạo thủ dục giải cho các hữu tình, vì khéo độ thoát được các hữu tình vậy. Bồ Tát tĩnh lự nối giống Tam Bảo chẳng dứt vì lấy tĩnh lự Phật làm cứu cánh vậy. Bồ Tát tĩnh lự tối cao hiển, vì đại tự tại thường hiện tiền vậy. Bồ Tát tĩnh lự tối cao hiển, vì đại tự tại thường hiện tiền vậy. Bồ Tát tĩnh lự tự tại chuyển vận, vì những chỗ làm đều viên mãn vậy. Bồ Tát tĩnh lự là đại ngã, vì dùng trí huệ vi diệu làm đại ngã vậy
Bồ Tát tĩnh lự có vô lượng tướng như vậy đều do Ðại Bồ Tát y Tĩnh lự Ba la mật tâm chứa họp phát khởi.
- Lại nầy Xá Lợi Phất! Pháp gì làm tiền đạo cho Tĩnh lự Ba la mật của Ðại Bồ Tát?
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát Tĩnh lự Ba la mật ấy, lấy tâm tĩnh quán trí làm tiền đạo, lấy tâm an trụ một cảnh sở duyên làm tiền đạo, lấy tâm không tán dộng làm tiền đạo, lấy tâm an trụ làm tiền đạo, lấy tâm xa ma tha làm tiền đạo, lấy tâm tam ma địa làm tiền đạo, lấy căn tam ma địa làm tiền đạo, lấy lực tam ma địa làm tiền đạo, lấy giác phần tam ma địa làm tiền đạo, lấy chánh tam ma địa làm tiền đạo, lấy giải thoát tĩnh lự làm tiền đạo, lấy cửu thứ đệ định làm tiền đạo, lấy chín pháp diệt trừ làm tiền đạo, lấy tất cả pháp lành làm tiền đạo, lấy phục phiền não oán làm tiền đạo, lấy khối tam ma địa đầy đủ viên mãn làm tiền đạo, lấy các tam ma địa Ðại Bồ Tát làm tiền đạo, lấy các tam ma địa chư Phật Thế Tôn làm tiền đạo. Vô lượng tĩnh lự như vậy đều làm tiền đạo cho Tĩnh lự Ba la mật cả. Lại còn có vô lượng vô biên pháp tịch tĩnh được chứng đều là tiền đạo cho Tĩnh lự Ba la mật cả.
Ðây gọi là Ðại Bồ Tát Tĩnh lự Ba la mật. Ðại Bồ Tát vì Vô Thượng Bồ Ðề phải ở trong ấy phát khởi tinh tấn tu học đầy đủ, thật hành Bồ Tát hạnh".
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Tĩnh lự giải thoát đến bờ kia
Siêng tu hạnh nầy nhiều số kiếp
Tâm ấy tịch tĩnh không dơ đục
Chẳng nhiễm thế pháp như hoa sen
Có đại tĩnh định tên biến chiếu
Y định nầy tu đến bờ kia
Có tên nguyệt quang tịnh trang nghiêm
Lại tên điện quang được nghiêm sức
Hoặc tên cao hạnh tên tâm dũng
Có định tên là vô cấu quang
Tên giới đức biện tên vô ưu
Hoặc tên chư pháp tự tại chuyển
Tên là pháp cự hoặc pháp dũng
Hoặc tên sơn oai pháp tự tại
Hoặc chánh pháp trí tự nhiên siêu
Hoặc trì chánh pháp diệu thanh tịnh
Hoặc tên quán sát tha tâm định
Hoặc tên chánh pháp bửu quang minh
Hoặc tên diệt hoặc nghiêm thắng tràng
Có định tên là tồi ma lực
Hoặc tên đoạn nghi tên vô trước
Có định tên là tịch tĩnh đăng
Tên lực cao thắng tên thập lực
Hoặc tên kính thủ đại danh xưng
Hoặc tên trì sơn thiện an trụ
Tên Tu di sơn đại minh đăng
Hoặc tên vô thắng thắng bỉ thắng
Hoặc tên trí cự tên huệ hành
Tên vô biên trí tên tự tại
Hoặc tên phát huệ tịch tĩnh định
Hoặc tên nguyệt định nhựt âm thanh
Tên na la diên tồi kiêu mạn
Tên thiện điều long sư tử hống
Tên là viễn ly chủng chủng tưởng
Hoặc tên triền chuyển tên phàn hoàn
Tên vô minh nhãn lực thanh tịnh
Có định tên là niệm chư Phật
Có tên niệm Pháp tên niệm Tăng
Hoặc tên trí chuyển tên nhập không
Hoặc tên vô tướng tên vô nguyện
Tên kim cương dụ tên địa tịnh
Tên kim cương địa tên cao thắng
Hoặc tên sơn vương tên chẳng tối
Tên vô biên chuyển tên tịnh âm
Tên ly phiền não tên quán sát
Tên hư không diệu tên như không
Tên phát quảng đại chư công đức
Tên xu giác huệ tên niệm huệ
Tên biện vô tận tên tương tục
Tên vô biên thuyết từ vô tận
Tên vô hoài thiện tác sở tác
Tên là quan sát tên chúng duyệt
Hoặc tên từ biện tên bi quảng
Tên nhập hoan hỉ tên hân khánh
Tên xả tên thoát hai thứ ngại
Hoặc tên pháp quang tên pháp nghĩa
Tên kim cương tràn tên trí hải
Tên giải thoát kiên tên chúng hỉ
Hoặc tên trí cự vô động định
Có định tên là thắng liên hoa
Tên giản tập pháp tên vô động
Hoặc tên huệ thượng tên tịch tĩnh
Tên vô biên quang tên Phật hải
Hoặc tên giải thoát tên trí thọ
Hoặc tên Như Lai diệu trang nghiêm
Hoặc tên vô biên thắng quang diệm
Hoặc tên hoan hỉ trang nghiêm độ
Hoặc tên duyệt dự chúng sanh ý
Có định tên là nhứt thiết thời
Thuận Bồ Ðề đạo tam ma địa
Có định tên là đáo bỉ ngạn
Giác phần hoa nghiêm thí bửu kế
Tên thí cam lồ tên giải thoát
Tên phong tam động thạnh quang minh
Hoặc tên hải triều dòng bửu tạng
Tên chư kim cương sơn phong lực
hoặc tên thần thông quảng đại nghĩa
Tên thiện nhiếp thọ tam ma địa
Có định tên là đại thông chiếu
Cảnh giới của chư Phật Như Lai
Chứng được định tịch tĩnh dường ấy
Và câu chi vô biên định khác
Tu hành tĩnh lự đến bờ kia
Bồ Tát công đức rộng vô lượng
Ði đứng luôn du cảnh tĩnh lự
Tâm ấy không loạn thường đạm bạc
Hoặc đi hoặc nằm ở trong định
Hoặc đứng hoặc ngồi thường tại định
Ở định hay phát âm thanh lớn
Bởi vì pháp tánh thường tịch tĩnh
không dị phân biệt không tự tại
Không ngã không mạng không phân biệt
Như vậy và những không biên tế
Vô số vô lượng biển công đức
Bồ Tát sáng suốt thương chúng sanh
Tu hành tĩnh lự Ba la mật.
11. PHẨM BÁT NHÃ BA LA MẬT
Ðức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: "Thế nào là Ðại Bồ Tát Bát Nhã Ba la mật mà Bồ Tát vì Vô Thượng Bồ Ðề nên y theo đó siêng tu hành Bồ Tát hạnh?
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát vì thật hành Bát Nhã Ba la mật. Nên đối với pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần trịnh trọng nghe học thọ trì, hoặc đọc hoặc tụng suy gẫm nghĩa lý, tự mình được thông đạt rồi cũng vì người mà giảng dạy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Ðại Bồ Tát nghe Phật nói rồi theo đúng pháp mà phụng hành, đối với pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần trịnh trọng nghe học thọ trì đọc tụng nghiên tầm thông đạt nghĩa lý và giảng dạy cho người, phải biết người ấy chứng được tướng vô tận huệ như vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Huệ ấy có những tướng gì, thế nào nhập chứng?
- Nầy Xá LợiPhất! Nói là huệ ấy lấy nghe làm tướng , Bồ Tát đúng như lý mà chứng nhập nên gọi là tướng vô tận huệ. Những tướng ấy Phật sẽ nói rộng.
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát vì cầu chánh pháp nên lấy dục lạc làm tướng, dục giải làm tướng, phương tiện làm tướng, thiện hữu làm tướng, không kiêu mạn làm tướng, với người đa văn cung kính làm tướng, tôn trọng làm tướng, quanh quẩn làm tướng, khiêm cung làm tướng, gần gũi làm tướng, nghe kỹ làm tướng, tôn thờ làm tướng, tư duy làm tướng, chẳng loạn làm tướng, tưởng như trân bửu làm tướng, tưởng là lương dược làm tướng, tưởng dứt hết bịnh làm tướng, chánh niệm làm tướng, xu hướng Bồ Ðề làm tướng, thích đại huệ làm tướng, chứng nhập Bồ Ðề làm tướng, nghe không nhàm đủ làm tướng, xả thêm lớn làm tướng, điều thuận làm tướng, thân căn người đa văn làm tướng, với những việc làm mến vui làm tướng, thân điều thích làm tướng, thân dũng nhuệ làm tướng.
- Lại nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát đối với cúng thính pháp, lắng nghe không mỏi làm tướng, nghe chánh nghĩa làm, nghe chánh pháp làm tướng, nghe chánh hạnh làm tướng, nghe chứng trí làm tướng, nghe Ba la mật làm tướng, nghe pháp Bồ Tát tạng làm tướng, nghe các nhiếp pháp làm tướng, nghe phương tiện thiện xảo làm tướng, nghe phạm trụ làm tướng, nghe thần thông làm tướng, nghe chánh niệm chánh trí làm tướng, nghe niệm trụ làm tướng, nghe chánh thắng làm tướng, nghe thần túc làm tướng, nghe duyên khởi làm tướng, nghe vô thường làm tướng, nghe khổ làm tướng, nghe vô ngã làm tướng, nghe tịch tĩnh làm tướng, nghe không làm tướng, nghe vô tướng làm tướng, nghe vô nguyện làm tướng, nghe không gia hạnh làm tướng, nghe thiện căn gia hạnh làm tướng.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Tự tại làm tướng, nghe pháp làm tướng, đối trị tạp nhiễm làm tướng, chế phục tất cả phiền não làm tướng, khen ngợi người trí làm tướng, gần kề bực thánh làm tướng, rời xa kẻ phi thánh làm tướng, lắng nghe bực thánh làm tướng, nghe các căn làm tướng, nghe tu tập tùy niệm làm tướng, nghe giác phần làm tướng,nghe bát chánh đạo làm tướng, nghe Phật lực, vô sở úy, vô ngại biện, đại từ đại bi đại hỉ đại xả, mười tám Phật pháp bất cộng làm tướng.
- Nầy Xá Lợi Phất phải biết Ðại Bồ Tát nếu ở nơi ấy lắng nghe thì ở nơi ấy hiểu rõ, nếu ở nơi ấy hiểu rõ thì ở nơi ấy hành động đúng. Tại sao ? Vì nếu Ðại Bồ Tát ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nghe tướng rồi hướng vào thì có vô lượng phương tiện. Nay Phật lược nói bốn mươi mốt phương tiện.
Một là nếu có Ðại Bồ Tát ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ấy mà sanh dục lạc, phải biết tức là lắng nghe, nghe liền hiểu rõ, đã hiểu rõ thì thật hành chánh hạnh.
Hai là nếu có Bồ Tát ở nơi pháp môn ấy mà sanh dục giải, phải biết tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba là nếu có Bồ Tát ở nơi pháp môn ấy phương tiện xu nhập, phải biết tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Bốn là nếu có Bồ Tát gần gũi thiện hữu, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Năm là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn, tâm không khinh mạn tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Sáu là nếu có Bồ Tát cung kính người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Bảy là nếu có Bồ Tát tôn trọng người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Tám là nếu có Bồ Tát quây quần cung phụng người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh .
Chín là nếu có Bồ Tát khiêm hạ đối với người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười là nếu có Bồ Tát gần kề người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười một là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn mà lắng tai để nghe, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh
Mười hai là nếu có Bồ Tát đối với người đa văn mà hầu hạ tiếp rước, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười ba, là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn, tư duy nghĩa lý tâm định chẳng loạn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười Bốnlà nếu Bồ Tát ở nơi người đa văn có ý tưởng là trân bửu, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười lăm là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn có ý tưởng là lương dược, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười Sáu là nếu Bồ Tát ở nơi người đa văn có ý tưởng dứt diệt tham sân si, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười bảy là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn nghe rồi hay thọ trì, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười tám là nếu có Bồ Tát xu hướng giác ngộ nơi pháp, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười chín là nếu có bồ Tát thích trí huệ của người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh .
Hai mươi là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn được nghe rồi giác ngộ, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi mốt lá nếu có Bồ Tát lắng nghe chẳng nhàm đủ, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi hai là nếu có Bồ Tát nghe nói Ðàn na thì tăng trưởng xả, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi ba là nếu có Bồ Tát nghe nói Thi la thì thủ hộ giới, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh .
Hai mươi bốn la nếu có Bồ Tát nghe nói Sằn đề thì hay tu hạnh nhẫn nhục, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi lăm là nếu có Bồ Tát nghe nói Tỳ lê gia thì phát khởi tinh tấn không mỏi, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi sáu là nếu có bồ Tát nghe nói Tĩnh lự thì nhập chánh định tâm chẳng tán, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh
Hai mươi bảy là nếu có Bồ Tát nghe nói Bát Nhã tâm liền tu trí huệ dứt phiền não, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi tám là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn lòng rất vui mừng, người nầy tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi chín là nếu có Bồ Tát được nghe pháp trồi thân thể điều thích, Bồ Tát ấy tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi là nếu có Bồ Tát được nghe pháp rồi tâm liền dũng nhuệ, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi mốt la nếu có Bồ Tát được nghe kinh Ðại thừa tâm sanh tín nguyện, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi hai là nếu có bồ Tát nghe nhiếp pháp rồi tâm liền xu nhập, tức lá lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi ba là nếu có Bồ Tát nghe nói niệm trụ liền quán thân thọ tâm pháp, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh
Ba mươi bốn là nếu có Bồ Tát nghe nói chánh cần liền dứt bỏ, với pháp lành sanh trưởng, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi lăm là nếu có Bồ Tát nghe nói thần túc liền phụng hành sanh thân khinh tánh, dục khinh tánh. Bồ Tát ấy tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi sáu là nếu co Bồ Tát nghe nói tĩnh lự thì yên tĩnh tư duy tâm xu nhập, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi bảy là nếu có Bồ Tát nghe hạnh bất khinh trong các pháp, bèn đối với chúng sanh phát khởi đại từ tâm, với kẻ thọ khổ phát khởi đại bi tâm, với chánh pháp khởi đại hỉ tâm, với bất thiện khởi đại xả tâm, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi tám là nếu có Bồ Tát nghe nói các căn liền xu nhập các căn ấy, đó là tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, huệ căn và định căn, Bồ Tát ấy tức là lắng nghe hiễu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi chín là nếu có Bồ Tát nghe nói giác phần tâm liền xu nhập giác ngộ pháp tánh, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Bốn mươi là nếu có Bồ Tát nghe nói đạo chi tâm liền xu nhập Niết Bàn chánh lộ, tức là là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Bốn mươì mốt là nếu có Bồ Tát nghe nói Phật lực vô úy, vô ngại trí, đại từ đại bi đại hỉ đại xả, mười tám pháp bất cộng và vô lượng Phật pháp, đều xu nhập Vô Thượng Bồ Ðề, Bồ Tát ấy tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
- Nầy Xá Lợi Phất! Phật đã nói bốn mươi mốt pháp về tướng dạng xu nhập văn huệ. Chư Ðại Bồ Tát phải nên học.
Ðây gọi là bổn tướng Ðại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật văn huệ.
- Lại nầy Xá Lợi Phất! Ðại BồTát tu Bát Nhã Ba la mật thực hành Bồ Tát hạnh, phải ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng trịnh trọng lắng nghe thọ trì đọc tụng suy gẫm nghĩa lý thông đạt chỉ thú lại giảng dạy cho người về chánh hạnh tư lương ấy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là Ðại Bồ Tát ở pháp ấy mà khởi chánh hạnh?
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát ở pháp ấy mà khởi chánh hạnh là: đúng như lời nói mà tu hành kiến lập mà an trụ, đây là khởi chánh hạnh. Nếu có thể chẳng lấy tất cả, đây là khởi chánh hạnh. Tại sao? Vì nếu lấy pháp thì gọi là người tà hạnh chấp lấy pháp không xứ không vị. Không bao giờ do pháp tà hạnh ấy mà được xuất ly. Tại sao? Vì người không lấy pháp hành ở nơi pháp không hành còn phải sanh nghi, vì không tác dụng. Huống là lấy pháp hành mà chẳng phải tà hạnh. Vì thế nên phải chẳng lấy các pháp mà làm chánh hạnh.
- Lại nầy Xá Lợi Phất! Nếu ở nơi các pháp không có chướng ngại thì gọi là chánh hạnh. Nếu ở nơi các pháp không khinh miệt thì gọi là chánh hạnh. Nếu ở nơi các pháp chẳng lấy chẳng bỏ chẳng sanh chẳng diệt thì gọi là chánh hạnh. Nhẩn đến nếu ở nơi các pháp không hiệp không tan thì gọi là chánh hạnh.
- Lại nầy Xá Lợi Phất! Như Phật đã nói: Nếu có là đúng phải thì không có một chút pháp nào có thể thấy được nghe được cũng không thể nói được, các pháp như vậy chẳng phải có thể thấy được, chẳng phải có thể nắm lấy được. Tại sao? Vì tất cả các pháp đều là một tướng, đó là vô tướng.
- Lại nầy Xá Lợi Phất! Tất cả các pháp tánh nó vốn vô tướng. Nếu có Bồ Tát nói nơi vô tướng thì vô tướng trở lại lẽ ra là nói được. Tại sao? Vì vô tướng và hữu tướng đều là vô tướng cả. Chẳng nên nói rằng đây hữu tướng, đây vô tướng.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát tỏ ngộ được tất cả pháp tướng như vậy tức là vô tướng chẳng thể thấy được, chẳng thể nắm lấy được, biết rõ đúng như pháp thì gọi là chánh hạnh.
Ðại Bồ Tát siêng tu chánh pháp hạnh ấy rồi ở nơi các pháp sẽ chứng nhập huệ vô chướng chiếu minh.
Ðây gọi là tướng dạng chánh hạnh Bát Nhã Ba la mật của đại Bồ Tát.
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Người sáng suốt an trụ chánh hạnh
Với Bồ Tát tạng khéo quyết định
Nói pháp người ấy chẳng khởi chấp
Hành tướng không chấp thủ như vậy
Chứng được các pháp chẳng là không
Chẳng phải các pháp bình đẳng không
Chẳng phải pháp không có sở chấp
Tướng chánh hạnh không chấp như vậy
Nơi pháp không thủ cũng không xả
Cũng chẳng lấy pháp để làm pháp
Không lấy gọi là các pháp tướng
Chánh hạnh không lấy tướng như vậy
Nơi các pháp nếu trí vô ngại
Trí ấy không gì chẳng đốt cháy
Nơi trí đốt cháy không nắm lấy
Chánh hạnh các pháp tướng như vậy
Người trí an trụ đức viễn ly
Với pháp phải khởi siêng tinh tấn
Nếu hay y chỉ quỹ tắc hành
Bấy giờ sẽ nhập môn thanh tịnh
Môn thanh tịnh ấy thông các pháp
Cũng biết dục giải của hữu tình
Người trí dầu biết không chổ thấy
Mà hay diễn tuyên pháp như vậy
Nơi pháp thậm thâm rõ thắng nghĩa
Nơi thắng nghĩa sâu thường biết rõ
Vọt hiện vô biên công đức hạnh
Trí sáng đa văn như đại hải
Nơi các văn nghĩa được nói kia
Cứu cánh không ai chứng được đó
Bởi văn nghĩa kia đều vô biên
Chánh hạnh chơn thiệt luôn bất động.
- Lại nầy Xá Lợi Phất! Lúc Ðại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật, với pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần lắng nghe nhẫn đến giảng dạy cho người rồi, phải biết Ðại Bồ Tát ấy ở nơi tất cả pháp được quang minh lớn hay phá tất cả hắc ám vô minh và các màn lòa. Quang minh ấy tức là trí huệ. Tại sao? Vì biết rõ đứng thiệt các pháp thiện bất thiện vậy. Ðại Bồ Tát tu pháp ấy được minh huệ rồi, dầu có gặp nạn khổ đến chết cũng không tạo các pháp bất thiện.
- Nầy Xá Lợi Phất! Vì muốn đứt hẳn các pháp bất thiện nên Ðại Bồ Tát tùy nghe được chánh pháp thì rất khéo thông đạt. Ðã thông đạt rồi thì nói là mâu ni tịch tĩnh .
Ðây gọi là tướng chánh hạnh lúc Ðại Bồ Tát tu Bát Nhã Ba la mật.
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Như người vào nhà tối
Che bít tuyệt ánh sáng
Dầu có các sắc tượng
Mắt sáng cũng chẳng thấy
Như vậy tùy có người
Tâm đủ các minh giải
Chẳng được nghe chánh pháp
Sao hiểu được thiện ác
Ða văn hiểu rõ pháp
Ða văn chẳng tạo ác
Ða văn bỏ vô nghĩa
Ða văn được Niết Bàn
Khéo nghe thêm lớn văn
Ða văn thêm lớn huệ
Huệ hay tu tịnh nghĩa
Ðược nghĩa thì cảm vui
Thông huệ được nghĩa rồi
Chứng hiện pháp Niết Bàn
Tương ưng pháp tịnh giác
Chứng được vui đệ nhứt
Nghe Bồ Tát tạng rồi
Khéo an trụ chánh pháp
Làm quang minh cho đời
Tu diệu hạnh Bồ Tát.
- Lại nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát vì tu hành Bát Nhã Ba la mật nên ở nơi người chánh hạnh hay thọ trì kinh Bồ Tát tạng lòng rất cung kính có ý tưởng là thiện tri thức, và càng tìm cầu pháp môn vi diệu Ðại Bồ Tát tạng cho pháp môn ấy càng thêm sáng sạch.
- Nầy Xá Lợi Phất! Vì cầu Bồ Tát tạng nên Bồ Tát ấy phát sanh tín dục sách lệ tinh tấn kiểm nhiếp tâm mình khiến an trụ chánh định. Ðại Bồ Tát ấy phương tiện tu hành tứ chánh cần, được không chướng ngại trong tất cả pháp.
Ðây là tướng chánh hạnh Bát Nhã Ba la mật của đại Bồ Tát.
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Quan niệm ngươi thuyết pháp
Tức là thiện tri thức
Cung kính lắng nghe pháp
An trụ nơi chánh hạnh
Dục giải thường không thối
Tinh tấn thường cao dũng
Tịnh huệ thường sữa trau
Nơi trí thường an trụ
Tự nhiên đạt các pháp
Chẳng theo nơi tín hành
Dùng trí quán các pháp
Ðây là lời Phật dạy
Người trí phân biệt câu
Lý nghĩa khéo siêng học
Nơi pháp thiện bất thiện
Thường tu thường viễn ly
Tâm không hề nhàm mỏi
Nơi pháp không quên mất
Thân dục đều khinh an
Mau được tâm tinh tấn
Do nghe pháp thêm trí
Trí thêm niệm không thối
Trí luôn y niệm trụ
Biết rõ pháp tịnh uế
Học nơi pháp vô thượng
Ðược sức niệm huệ thắng
Biết chúng sanh dục giải
Tự học thời gian lâu
Học pháp đã thăng tiến
Cực tiến trí thanh tịnh
Biết chúng sanh dục giải
Theo cơ bèn khai thị.
- Lại này Xá Lợi Phật! Lúc tu hành Bát Nhã Ba La Mật, đại Bồ Tát tìm cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng như vậy thông đạt giác huệ y theo thiện pháp minh môn thanh tịnh ấy. Bồ Tát phải thường tu học như vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát tu học nơi pháp thì phải suy nghĩ hai nhơn duyên có thể phát sanh chánh kiến. Những gì là hai? Ðó là nghe âm thanh nơi người khác và tự mình tác ý đúng lý.
Bồ Tát ấy lại suy nghĩ nghe âm thanh nơi người và tác ý đúng lý có những tướng gì? Liền lại suy nghĩ nếu có tướng thích chánh định mà tu thì nên thật hành pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng mà chư Bồ Tát chưa từng được nghe.
Lại nếu chẳng được nghe Phật pháp luật giáo chỉ ở trong tam ma địa mà sanh ý tưởng đủ rồi, nên biết người ấy do sức ngạo mạn mà phát khởi tăng thượng mạn. Phật nói người ấy chẳng có thể giải thoát sanh già bịnh chết sầu ưu khổ não. Ðã chẳng thoát được các khổnhiệt não, há lại thoát được năm môn sanh tử kia, bị nó nhận chìm trôi lăn chẳng dứt.
Người ấy thiệt chẳng phải giải thoát mà tự nói tôi đã giải thoát. Thiệt chưa khỏi khổ mà tự nói tôi đã khỏi khổ. Vì thế nên Ðức Như Lai y cứ người ấy mà thuyết pháp như thiệt, nếu có thể từ nơi người khác mà tùy thuận lắng nghe thì giải thoát được các lão tử khổ não. Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng như tôi trước kia nghe Ðức Thế Tôn nói:
Ða văn biết rõ pháp
Ða văn chẳng tạo ác
Ða văn bỏ vô nghĩa
Ða văn được Niết Bàn
Nghe pháp thêm lớn văn
Văn hay thêm lớn huệ
Huệ hay tu tịnh nghĩa
Ðược nghĩa hay cảm vui
Thông huệ dược nghĩa rồi
Chúng hiện pháp Niết Bàn
Nghe pháp được tịnh huệ
Chứng được vui đệ nhứt
- Nầy Xá Lợi Phất! Vì thế nên chư Ðại Bồ Tát suy nghĩ như vậy rồi nên đối với pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng và Phật pháp luật giáo mà ân cần trịnh trọng lắng nghe thọ trì đọc tụng giảng dạy cho người.
- Lại này Xá Lợi Phất! Nếu các hữu tình ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng dầu được nghe mà chẳng có thể phương tiện tác ý đúng lý. Phải biết người ấy chẳng thể tu chánh hạnh nói thánh đạo. Vì thế nên đức Như Lai y cứ nơi người ấy mà nói pháp yếu rằng: Nếu muốn giải thoát sanh lão bệnh tử thì phải có tự mình suy nghĩ đúng lý. Chư đại Bồ Tát phải học như vậy. Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là phương tiện đúng lý? Những gì là Bồ Tát tác ý đúng lý mà có thể tu học?
- Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là phương tiện đúng lý? Những gì là Bồ Tát tác ý đúng lý mà có thể tu học.
- Nầy Xá Lợi Phất! phương tiện đúng lý là không có một pháp nào hoặc hiệp hay ly cả.
Tại sao? Vì phương tiện đúng lý là chẳng phải phương tiện vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nếu Bồ Tát có an trụ phương tiện và tác ý đúng lý, phải biết tướng ấy chỉ là âm thanh, mà âm thanh ấy, tánh nó không bị phát khởi cũng chẳng chuyển khởi và do nơi kia mà phát âm thanh. Tại sao? Vì tất cả đều bất khả đắc vậy.
Bồ Tát lại quan sát âm thanh ấy, tiền tế hậu tế từ gì mà sanh, qua đâu mà diệt. Quan sát như vậy trọn bất khả đắc.
Lại suy tìm âm thanh ấy là tại đã nói, là tại nay nói, là tại sẽ nói?
Lại suy tìm âm thanh ấy là hoặc đã bị nói, hoặc nay bị nói, hoặc sẽ bị nói? Âm thanh ấy là vì đoạn dứt nên đã nói, vì đoạn dứt nên nay nói, vì đoạn dứt nên sẽ nói ? Âm thanh ấy là vì chứng nhập nên đã nói, vì chứng nhập nên nay nói, vì chứng nhập nên sẽ nói.
Tất cả lẽ tìm cầu âm thanh như vậy rồi trọn không có được. Rồi lại quan sát hoặc tướng quá khứ, hoặc tướng vị lai, hoặc tướng hiện tại cũng đều không có được.
- Nầy Xá Lợi Phất! Lúc Ðại Bồ Tát chánh quan sát thì gọi là phương tiện tác ý đúng lý. Chư Ðại Bồ Tát phải học như vậy.
- Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là đại Bồ Tát quan sát đúng lý?
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát quan sát tất cả pháp, tự tánh nó tịch diệt. Ðây gọi là quan sát đúng lý. Nếu quan sát các pháp tự tánh nó tịch tĩnh. Ðây gọi là quan sát đúng lý. Nếu quan sát các pháp, tự tánh nó không tịch. Ðây gọi là quan sát đúng lý. Nếu quan sát các pháp vào tánh bình đẳng. Ðây gọi là quan sát đúng lý. Nếu quán các pháp cứu cánh vô sanh,, nếu quán các pháp cứu cánh bất sanh, nếu quán các pháp cứu cánh bất khởi, nếu quán các pháp cứu cánh tịch diệt, đều gọi là quán sát đúng lý vậy.
Lúc quán sát như vậy, Ðại Bồ Tát cũng chẳng thấy có người hay quan sát. Phải nên quan sát như vậy, đó là chẳng phải quan sát chẳng phải chẳng quan sát vậy.
Nếu có Bồ Tát quan sát như vậy thì gọi là quan sát đúng lý, nếu quan sát khác đây thì gọi là quan sát chẳng đúng lý.
- Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là Ðại Bồ Tát phải nên học phương tiện đúng lý như vậy?
- Nầy Xá Lợi Phất! Phương tiện đúng lý của đại Bồ Tát là:
Chẳng phải đối với chút ít pháp có ngu mê. chẳng phải đối với chút it pháp có chướng ngại. Không có chút ít pháp nào mà chẳng phải là môn giải thoát. Không có vì đoạn dứt một phần ít phát khỏi tinh tấn. Chẳng phải vì chứng một phần ít pháp mà dũng mãnh tinh tấn. Trên đây đều là phương tiện đúng lý vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát phải dùng chánh kiến như vậy để chánh quan sát các pháp như chỗ chánh kiến ấy.
Thế nào gọi là quan sát các pháp như chỗ chánh kiến ấy?
- Nầy Xá Lợi Phất không chỗ thấy thì gọi là quan sát các pháp . Những gì là không chỗ thấy?
- Nầy Xá Lợi Phất! không chỗ thấy ấy gọi là vô sanh . Nói vô sanh ấy là vô khởi. Nói vô khởi ấy là không chỗ chiếu . Y cứ chánh pháp ấy mà Ðức Như Lai nói rằng: Nếu có Bồ Tát lúc quan sát các pháp ấy vô sanh, tức là xu nhập chánh tánh quyết định. Luận về chánh kiến, đó là xu nhập chánh tánh quyết định.
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát suy nghĩ như vầy: Do nhân duyên gì sẽ được xu nhập chánh tánh quyết định?
- Nầy Xá Lợi Phất! Ðại Bồ Tát phải học như vầy:
Nếu quan sát ngã kiến là bình đẳng thì tất cả pháp bình đẳng. Quan sát như vậy gọi là xu nhập chánh tánh quyết định.
Vì thế nên chư Ðại Bồ Tát muốn xu nhập chánh tánh quyết định thì phải ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần lắng nghe thọ trì đọc tụng nghiên cứu nghĩa lý lại giảng dạy rộng cho người thì sẽ ở nơi pháp môn ấy phương tiện tác ý tu học đúng lý.
Ðây gọi là Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật vì Vô Thượng Bồ Ðề thực hành bồ Tát hạnh..

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 120 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.149.24.192 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập