Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]          [ Trang chủ ]
Thư tòa soạn
(Chim Việt Vành Nam số 21 ngày 11-11-2005)
Người đời hay gắn liền Tôn Giáo với  " Đức Tin ", và Khoa học với "Lý Trí " và rất nhiều khi cho rằng Tôn Giáo làm u mê con người, ngăn trở bước tiến của Khoa Học. Vấn đề có lẽ không đơn giản như vậy. Ranh giới giữa " Đức Tin " và "Lý Trí " không rõ rệt như nhiều người hằng tưởng, chẳng thế mà rất nhiều tu sĩ cũng là những nhà khoa học, và có những nhà khoa học đã khoác áo tăng sĩ .

Một thí dụ, nhìn lại Đạo Phật , một tôn giáo phi thượng đế : cùng một Đạo Pháp, cùng một giáo chủ , nhưng bên cạnh Tịnh Độ Tông chủ yếu dựa vào lòng tin nơi Phật Di Đà , lại có Mật Tông chuyên tụng Chú, có Đại Thừa với luận lý vững chắc của Duy Thức , cũng như có Nguyên Thủy với Vi Diệu Pháp, có Thiền Tông với chủ trương của Ni Sư Diệu Nhân thời Lý : "... Chẳng cầu Thiền, Phật - Ngậm miệng, không lời ". 
Đạo Phật tại Việt Nam lại chủ trương "Thiền-Tịnh-Mật đồng tu " .

Vậy đâu là sợi dây nối liền Đức Tin và Lý Trí  ?

Thực ra, Tôn giáo và Khoa học nhìn sự vật ở mức độ khác nhau. Cái Trí Tuệ của Khoa học không nhất thiết là cái Trí Tuệ của Tôn Giáo, và trong Trí Tuệ của Tôn Giáo, Đức Tin có chỗ đứng. 
Bên cạnh đó, "Nhà Bác học" không nhất thiết phải là "Người Hiền ", là " Thánh Nhân", hai quả bom nguyên tử chụp lên nước Nhật trong thế chiến thứ hai không phải là thành quả của khoa học ư ? Những cuộc tàn sát khủng khiếp nhất của nhân loại trong thế kỷ 20, với hơi độc, bom Napalm, với diệt chủng, đàn áp thống trị ... nào phải là hậu quả của Đức Tin tôn giáo ?

Xu hướng của Khoa Học là  "hướng ngoại ", là tìm hiểu thế giới khách quan, đối tượng khảo cứu và chủ thể  khảo cứu là hai thực thể biệt lập, bệnh nhân và bác sĩ được tách rời. Xu hướng của  Tôn Giáo là "hướng nội ". Đối tượng quán sát và chủ thể  quán sát là một, bệnh nhân và bác sĩ cũng chỉ là một. Tu hành trước hết là quán sát chính mình.

Vậy có cách nào bắc cầu nối tiếp giữa "hướng nội " và "hướng ngoại " ?

Phải chăng nhà vật lý học Bohm với  thuyết " sự vận động toản thể " cho phép ta bước đầu nghĩ đến một câu trả lời cho câu hỏi trên . Để tìm hiểu rõ thêm về vấn đề này xin xem bài " Từ David Bohm Đến Kinh Lăng Nghiêm. " của nhà văn và nhà khoa học vật lý Nguyễn Tường Bách, và bài " Cái Không trong lượng tử   /  (  PDF )   " của Giáo Sư Phạm Xuân Yêm. ( Vì có nhiều ký hiệu toán, khó lên trang, bài của Giáo Sư Phạm Xuân Yêm, lần này mang dạng hình ảnh (Jpeg) và PDF , mong độc giả châm chước ).
Một cách tổng quát hơn, mời bạn đọc bài  " Đạo Phật và Khoa học " của Bác Sĩ Trịnh Nguyên Phước,  " Science et Bouddhisme : A la croisée des chemins " của Giáo Sư Trịnh Xuân Thuận  , được Tâm Hà Lê Công Đa dịch qua Việt : " Khoa Học và Phật Giáo: Trước Ngã Tư Đường  ",  " Gặp gỡ giữa khoa học và Phật giáo"  của Phan Tấn Hùng.
 

Ở mức độ thuần túy Khoa học, chúng ta tiếp tục tìm hiểu sự hình thành của tinh thần khoa học hiện đại qua loạt bài " Thế giới quan khoa học  " của Hàn Thủy.

***

Thời gian " Chả là cái gì cả ! Chưa ai thấy mặt mũi thời gian ngang dọc ra sao.
Nhưng phải nhắm mắt thừa nhận rằng thời gian rất hấp dẫn, rất quan trọng.
Chả thế mà khắp đông tây nam bắc, từ thời thượng cổ đến tận bây giờ, người ta thi nhau sáng chế máy này máy nọ để đo thời gian. Người ta rủ nhau đi đo cái vô hình vô ảnh. Đo cái mà mắt trần không thấy được.
Các thứ máy đo thời gian, thô sơ hay tinh xảo, to hay nhỏ, ta đều gọi chung là đồng hồ."
(...)
" Nước ta biết dùng đồng hồ từ bao giờ ? "

Để "giết thì giờ " mời bạn cùng Nguyễn Dư qua bài " Thời gian và cái đồng hồ  " đi tìm lời giải cho câu đố "Nước ta biết dùng đồng hồ từ bao giờ ? ".

*
" Những nhân vật lưu truyền trong dân gian phản ánh gần như trung thực tâm tư, nguyện vọng cũng như tính nết của người dân ..."
Hòa Đa giới thiệu Bác Ba Phi , một nhân vật biểu tượng của người dân miền Nam :
" Chuyện Bác Ba Phi  chỉ mới xuất phát gần đây và tương đối khá phổ biến trong dân quê miền Nam. Cũng như nhân vật Trạng Quỳnh ở ngoài Bắc, những chuyện kể nào có tính cách hơi phóng đại và ngộ nghĩnh đều được gán cho Bác Ba Phi."
*

Trong phần tranh ảnh, xin mời bạn thưởng thức hơn 40  tranh Thủy Mạc   của Vũ Ngọc Cẩn, một nhà khoa học nhưng cũng là một họa sĩ .

Ta cùng Anthony Ducoutumany dạo trên Đường phồ Sài Gòn những ngày hè 2004 . Những hình ảnh này không sắp xếp, không tính trước, nên chỉ xem như những ánh chớp , trên đường đi, về một vài khía cạnh nào đó của Sài Gòn ngày nay. Trông mong những ánh chớp khác đem đến cho ta hình ảnh sống đầy đủ hơn của người dân việt qua năm tháng.

Ta cũng có thể dạo quanh Hồ gươm, một buổi sáng, đầu xuân 2005. Những ánh chớp nháy lên : buổi sáng bên hồ gươm có gì ? có hai người đang tập võ dưỡng sinh, có bà bán hàng rong với một cái giá nhỏ vỏn vẹn vài quả khế,  quả cam, có những cậu sinh viên ngồi ôn bài , đọc sách, có đàn em thơ theo cô giáo dạo chơi bờ hồ, trong con mắt mơ màng của các cụ già đã về hưu trí ... Có ai còn nhớ thuở xa xưa "đi bờ hồ, chén kem kẹo dừa " ? Rời bờ hồ, chợt thấy đám học sinh đang tíu tít vui chơi chờ trường mở cửa đón mời, rồi ta vào chợ Đồng Xuân. Đây là cảnh xuân năm nay, năm sau sẽ ra sao ? rồi năm sau nữa ? Những ánh chớp của tương lai sẽ trả lời ...

*
Vườn thơ Chim Việt vẫn là trạm dừng chân của nhiều nhà thơ Việt sống rải rác trên khắp năm châu. Lần này, vào vườn Chim Việt bạn sẽ có duyên với Nguyễn Hồi Thủ - Xích Long từ Pháp đến , Quỳnh Chi của xứ Anh Đào, Thu Nguyệt từ Đồng bằng sông Cửu Long, và từ Mỹ có Ngô Tằng Giao - Trần Thế Phong- Vũ Quyên - Vũ Tiến Lập

.Nguyễn Hồi Thủ : Bức tường rêu  -  Chỉ một lần
 Quỳnh Chi : Giấu  - Bắt đền - Nụ hôn của gió - Thương mãi ngàn nam  . phóng dịch :Thu ca (Lý Bạch)  - Thu dạ khúc (Vương Duy) - Sơn cư thu minh (Vương Duy) - Thu tịch (Bạch Cư Dị)
. Thu Nguyệt : Ru đá - Tản mạn - Qui luật
. Xích Long :  Mưa huyền  - Ngàn cánh hạc
. Ngô Tằng Giao dịch : Henry Wadsworth : Những ngày mưa - Alfred, Lord Tennyson : Dịu dàng và êm ái
. Trần Thế Phong : Cầm thu
. Vũ Quyên :  Cời tro tìm lại chút tàn âm - Em một dòng sông
. Vũ Tiến Lập : Phôi pha - Chân dung đen - Tháng mười - Hồn cầm

*
Mặc dù trong văn học xứ ta ít ai bàn tới Manga, một thể loại văn chương xuất xứ từ Nhật, dựa trên hình ảnh , đang là một hiện tượng xã hội của khắp năm châu. Phim ảnh, sách báo Manga tràn ngập khắp nơi, trên mọi màn ảnh TV , nhắm đến mọi từng lớp xã hội, mọi thế hệ tuổi tác.

Manga, theo từ điển tiếng Nhật  ( Mạn Họa ) , có nghĩa là "lối vẽ đơn sơ, nhẹ nhàng nhưng hình ảnh có tính cách khôi hài hay qua loa hoặc để mua vui, hoặc để phụng thích xã hội. Phác họa, Tốc họa. " Tuy nhiên, thể loại Manga - khởi xướng bởi  Katsushika Hokusai ( 1760-1849 ) - ngày nay có nghĩa rộng lớn hơn, vì đã hòa nhập với nhiều thể loại tranh vẽ tây phương, có lẽ chỉ có thể định nghĩa là một thể loại " truyện bằng tranh ".

Qua truyện " Câu chuyện đôi mèo " , phóng tác, Xích Long gửi đến chúng ta một vài khía cạnh của thể loại này .
" XL phóng tác một trong các truyện tranh đầu tay của Tsukasa HOJO. Nhắc tới tên tuổi Tsukasa HOJO là chắc chắn ai cũng nhớ đến tập manga "City Hunter", được Thành Long đưa lên màn bạc Hồng Kông với cuốn phim mang cùng tựa (dịch sang tiếng Hoa là "Thành thị liệp nhân"). Nếu như nhân vật chính của "Thành thị liệp nhân", Ryo Saeba (Nicky Larson) là một nhân vật anh hùng cứu khổn phò nguy và được tác giả chấm phá qua những nét dí dỏm và "dê dổm" nhưng lại rất chung tình và hùng tài đởm lược (mẫu người yêu lý tưởng của phái đẹp mà !), thì "câu chuyện đôi mèo", tác phẩm đầu tay dưới hình thức truyện ngắn, lại là một câu chuyện hết sức cảm động.....

XL chỉ mong sẽ chuyển đạt đúng mức những cảm xúc mà tác giả muốn truyền lại cho độc giả, và điều này thật không dễ qua lối truyện phóng tác, nếu có sơ xuất mong các bạn thông cảm ! "

Bước vào vườn hoa của xứ Anh Đào, luôn luôn phong phú , mời bạn bắt duyên với truyện dịch " Cổng Rashomon của Akutagawa Ryunosuke " , DDTM chuyển ngữ .

Cung Điển giới thiệu truyện Kappa của cùng tác giả ( Hà Đồng , Xin chịu khó đọc là Kappa ):
"Theo tự điển Nhật Kenkyusha , kappa được tả như một tiểu yêu , một quái vật sống dưới nước với cái đầu bờm xờm dúm tóc . Trên đỉnh đầu có một hòm đựng nước . Kappa (chữ Hán Việt : Hà Đồng , do ghép từ hai chữ Hà , Kawa và Đồng , wappa ) đứa con nít sống dưới sông, hình dạng giống khỉ , mũi dài , mắt tròn , có râu mầu nâu hung dưới cằm , da hơi xám , tay chân có 5 ngón , và có mùi tanh như mùi cá . Kappa thích ăn dưa , trứng , táo và gan người . Nếu trêu chọc , chúng khóc như một đứa trẻ ; làm vừa lòng Kappa , chúng sẽ đền ơn . Du khách tới Nhật có thể thêm mục đi kiếm kappa vào trong chương trình thăm viếng xứ mặt trời mọc , bằng cách thăm vùng Mito hay đi bơi trên sông Oise gần Nagoya . Ngày nay trẻ con tại thôn quê vẫn còn có thói quen trước khi bơi lội , quẳng dưa xuống sông làm lễ vật lấy lòng Kappa để khỏi bị chúng trêu ghẹo ."

Với Tanizaki, xin nghe Nguyễn Nam Trân :

" Sắn Dây Núi Yoshino   (1930) được xem như một truyện của Tanizaki mà độc giả ngoại quốc khó lòng tiếp thu và làm khổ tâm người dịch không ít vì nó đầy dẫy chi tiết lịch sử, dã sử truyền thuyết dân gian và tuồng kịch mà ngay dân bản xứ có khi còn không nắm vững. Dầu vậy, theo gương can đảm của Anthony H. Chambers, người đã chuyển ngữ nó sang tiếng Anh (Arrowroot, 1983, Secker & Warburg, UK), chúng tôi cũng xin táo bạo làm việc giới thiệu Sắn Dây Núi Yoshino đến bạn đọc Việt Nam, một tác phẩm quan trọng hàng đầu trong văn nghiệp của Tanizaki. Đây cũng là một trong những tác phẩm mà ông đắc ý đắc ý nhất.

Sắn Dây Núi Yoshino giống dây mơ rễ má, cái nhau núm ruột nối liền một cá nhân với quê hương và kỷ niệm luyến tiếc nhưng cũng là sợi dây dẫn đường cho cuộc hành trình đi vào chiều sâu tâm hồn con người Nhật Bản như một tập đoàn. Nó còn đánh dấu điểm khởi hành của giai đoạn thứ hai (1930-1965) trong đời sáng tác phong phú của Tanizaki, khi ông từ bỏ lối thuật truyện khách quan hầu hết dựa trên đối thoại, để sử dụng một cách viết mới, hầu như độc thoại, tinh tế và chủ quan hơn. Nhiều người bàn đến ở đây ảnh hưởng cách hành văn của "tiểu thuyết tùy bút" hay "tùy bút tiểu thuyết" kiểu Stendhal trong tác phẩm L'Abbesse de Castro ( trong tập Chroniques Italiennes) mà Tanizaki đã có cơ hội dịch sang Nhật ngữ."

Phạm Vũ Thịnh giới thiệu Murakami Haruki qua truyện Quỷ Hút Máu Trên Xe Taxi ("TakushiNi Notta KyuKetsuKi", ). Truyện ngắn này,  ra mắt người đọc trong tạp chí "Torefuru - Trefle" khoảng 1981 - 1983, là truyện thứ 4 trong tuyển tập "Ngày Đẹp Trời Để Xem Kangaroo - Kangaruu Biyori".

*

Với sáng tác " Phở Huế " của Quỳnh Chi, dù bối cảnh là đất Nhật, nhưng nội dung có thể là câu chuyện của biết bao gia đình người Việt sống nơi đất khách quê người. Đây là câu chuyện của những người Việt xa xứ cố gắng tìm lại hơi hướng của quê hương qua cọng húng , cọng ngò gai tự mình cấy trồng. Đây cũng là câu chuyện của một cậu bé " thế hệ hai ", cũng như mọi cô bé cậu bé thế hệ hai sinh trưởng trên khắp năm châu, những " Nhật con ", " Tây con " , " Mỹ con " ... Dù cha mẹ cố gắng truyền lại cho con văn hóa của ông bà , nhưng với môi trường sống, với  bạn bè , trường học , xã hội, sự dung hóa hai nguồn văn hóa không phải là chuyện đương nhiên. Điều quan trọng có lẽ không phải là những lứa trẻ này sẽ có một phong cách, tâm tư, văn hóa y hệt như những lứa trẻ lớn lên tại quê nhà, mà là làm sao cho những " Nhật con ", " Tây con " , " Mỹ con " ... đừng quên quê cha đất tổ ,  cách xa hàng vạn dậm . Chim Việt non ơi ! " cây có cội, suối có nguồn " , đừng bao giờ quên gốc mình nhé .

Tìm lại hương vị của quê hương qua bữa ăn thường ngày cũng là tâm trạng của người Việt tại mọi nơi khác, và đặc biệt tại Mỹ. Lê Kim Anh chắc cũng muốn nói đến điều này qua bài " Vườn rau Việt Nam trong lòng nước Mỹ "
" ... Các nhà nghiên cứu Christopher Airriess và David Clawson trong một bản nghiên cứu năm 1994 về cộng đồng Việt Nam nói rằng: "Người Việt Nam hơn bất cứ một dân tộc nào khác đã tìm cách tái tạo tại nơi định cư mới của mình một khung cảnh quê hương sắc thái mới, trong đó cây cỏ đóng vai trò quan trọng. Họ mang theo những giống cây từ Việt Nam hoặc cố gắng tìm kiếm tại Tây Bán Cầu những cây cùng loại mà họ đã quen thuộc ở cố hương hoặc rộng hơn nữa là khắp vùng Đông Nam Á ". "

Trở lại quê nhà, mời các bạn bước vào thế giới lãng mạn của một cậu bé sắp bước sang tuổi vị thành niên với Trần Thanh Diệu qua truyện " Tiếng sấm đầu mùa " , câu chuyện xảy ra đã khá lâu.

Việt Hải tạm chấm câu phần Truyện - ký này với bài " Beethoven, người nhạc sĩ lãng mạn ".
( ...Tạm chấm câu, vì còn một số sáng tác vừa nhận được sẽ được CVCN đưa thêm trong những ngày tới .)

*
Nguyễn Đắc Xuân khai duyên phần  Dân Tộc Học - Lịch Sử, với bài " Đại thần Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902), một nhân cách lớn thời Nguyễn suy tàn " . Bài này được trình bày tham luận trong " Hội Thảo Khoa Học : Người Hà Nội Thanh Lịch " được tổ chức tại Hà Nội ngày 01-10-2005.

Và chúng ta cùng Lê Văn Hảo tiếp tục nhìn lại đất nước - con người Việt Nam qua loạt bài " Nẻo về văn hóa văn minh Việt Nam  " .
Tiếp theo lần trước , mời bạn đi từ  "Xứ Thanh * Xứ Nghệ, gạch nối giữa hai đại vùng văn hóa Bắc và Trung  " qua " Xứ Huế - Thuận Hóa - Phú Xuân giữa đại vùng văn hóa ven biển miền Trung ".

Bài viết thật súc tích, nhưng hình ảnh vẫn còn nghèo nàn. Tác giả đã gửi cho CVCN rất nhiều hình ảnh nhưng vì lý do kỹ thuật chưa kịp đưa lên. Mong tác giả và độc giả miễn thứ. Chúng tôi sẽ cố gắng đưa lên sau . 

CVCN cũng mong nhận được thêm từ độc giả tất cả những hình ảnh về đất nước, con người , sinh hoạt của mọi vùng trên đất nước. 

Xin giới thiệu cùng độc giả sách " Quảng cáo Truyền Hình trong Kinh tế thị trường " của Giáo Sư Đào Hữu Dũng ( Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo )

" Chính sách Đổi Mới từ những năm sau 1986 đã đưa Việt Nam hội nhập với cộng đồng thế giới. Một thành quả mang tính cách chiến lược của nó là Việt Nam được tổ chức ASEAN chấp nhận như một thành viên. Từ một nền kinh tế chỉ huy, bao cấp, chỉ chú trọng đến việc bảo đảm quyền "được mua", Việt Nam đã chuyển hướng thực hành chính sách kinh tế thị trường, chú trọng cả đến việc bảo đảm quyền tư hữu của người dân và quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh của người sản xuất. Tích cực động viên những nguồn vốn đầu tư và kỹ thuật chế tạo của các công ty ngoại quốc, chính phủ đã châm ngòi để sự phát triển kinh tế bùng nổ, và quan trọng hơn nữa, đánh thức được tiềm năng của người Việt trên bình diện cả nước. "
(...)
" Trong bối cảnh ấy, tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quí độc giả quyển sách Quảng Cáo Truyền Hình Trong Kinh Tế Thị Trường của Giáo Sư Đào Hữu Dũng. Có thể xem đây là một cẩm nang cho các nhà kinh doanh lẫn các nhà chuyên môn làm quảng cáo. Bởi vì nó chứa đựng những khái niệm, kiến thức cơ bản, vừa lý thuyết vừa cụ thể thực dụng. Trong quyển sách này, tác giả đã chứng minh cho ta thấy quảng cáo là phương tiện hữu hiệu nhất giúp tạo ra danh tiếng cho sản phẩm hay dịch vụ, nhanh chóng đưa tên tuổi của công ty đến đại chúng, trong và ngoài nước. Có thể khẳng định rằng chưa quảng cáo được trên Ti-Vi thì không thể đạt được thành công đồ sộ trong kinh doanh. "
( Đinh Văn Phước , Giám Đốc Điều Hành Công Ty Yamakyu Chain, Tokyo, Nhật Bản )

Thực ra, Giáo Sư Đào Hữu Dũng không phải là một nhân vật xa lạ với Chim Việt Cành Nam, mà vốn là một trong những người bạn đồng hành tích cực nhất từ nhiều năm tháng qua, nhưng dưới bút hiệu khác ... CVCN xin phép không tiết lộ để gây kỳ bí .

Chúng ta tạm biệt Đào Hữu Dũng với Kinh tế học hữu ích nhưng khô khan, để đi tìm gặp Nguyễn Nam Trân trong thế giới của văn thơ , Man.yô-shuu (Vạn Diệp Tập) Tìm hiểu cái đẹp của dòng thơ Waka trong tuyển tập thơ tối cổ Nhật Bản :

" Ngày nay khi bàn về thi ca Nhật Bản, người ta hầu như chỉ nhắc đến haiku. Trên thế giới có bao nhiêu Haiku-ist, từ người già đến em bé. Dĩ nhiên đó là điều đáng mừng cho văn học Nhật Bản vì ảnh hưởng sâu rộng của loại thơ ngắn gọn, cô đọng mà học giả phái cấu trúc người Pháp Roland Barthes đã ví von với những "vết xước trên khung thời gian". Đó là chưa kể việc có thêm một bài thơ thì bớt đi một viên đạn, điều rất quan trọng để giữ sự hòa bình an thái cho tinh cầu xanh của chúng ta.

" Thế nhưng sự toàn cầu hóa và đại chúng hóa haiku không làm ta quên rằng thi ca Nhật Bản không chỉ là haiku mà còn biết bao nhiêu hình thức khác, trong đó có waka, Hán thi và thơ mới. Cho đến thế kỷ 17 thì haiku chỉ là một sản phẩm phụ và "thấp hèn" của waka. Nếu không hiểu waka thì khó lòng thưởng thức haiku và thơ mới (shintaishi) một cách trọn vẹn. Bài viết nầy có mục đích thử lội ngược dòng văn học sử để tìm hiểu những nét đẹp của waka (Hòa ca), hình thức thi ca nguyên thủy Nhật Bản nghĩa là những bài thơ viết bằng kana, văn tự biểu âm của người Wa (Hòa, Nhật cổ). "

Phạm Doanh đưa ra " Vài nhận định về sự đối câu trong thơ Đường Luật ".

Tiếp theo những số trước, ta cùng Nguyễn Thị Chân Quỳnh trở về thăm "Lối xưa xe ngựa ", lần này với hai chương :
Chương VII - Khoa cử thời Hậu Lê dưới mắt Samuel Baron - Chương VIII - Công chúa đời Trần
Samuel Baron là ai ?
S. Baron là một người Hoà Lan lai Bắc kỳ, có lẽ sinh tại "Ca Cho" (= Kẻ chợ, tức Thăng Long). Cha là đại diện cho công ty Ấn Độ của Hoà Lan ở Bắc vào năm 1663, nhưng có thể đã sống ở đấy từ trước. Lớn lên, S. Baron nối nghiệp nhà, cũng làm cho công ty Ấn Độ của Hoà Lan, sau chuyển sang làm cho công ty Ấn của Anh, nhập tịch dân Anh, và cuối cùng bỏ đi buôn riêng quanh vùng Đông Nam Á. Năm 1678, 1680 và 1682 có trở về "Ca Cho". Trong sách, S. Baron công nhận mình đã sinh ra ở Bắc kỳ và viết cuốn này có ý giới thiệu Đằng Ngoài với người Anh, do đó đã đề cập đến đủ cả mọi vấn đề : sử ký, địa dư, dân tộc, phong tục, chính sự, y học v.v...

Trong số trước, Giáo sư Nguyễn Phú Phong đã trình bày quá trình hình thành chữ Quốc Ngữ theo con chữ La tinh. Nhưng hình thành rồi làm sao đem áp dụng ? đây là câu hỏi của bài : Tranh luận về việc áp dụng chữ quốc ngữ

" Rõ ràng là sáng chế một thứ chữ viết đòi hỏi đến một tư duy khoa học. Nhưng khi đã có chữ viết rồi mà muốn đem ra áp dụng nó thì phải có một quyết định chính trị. Riêng trường hợp chữ quốc ngữ tuy được ra đời công khai từ giữa thế kỷ 17 - có thể lấy năm 1651 năm xuất bản cuốn Dictionarium annamiticum lusitanum, et latinum của A. de Rhodes làm khởi điểm dù rằng công cuộc sáng chế đã phải bắt đầu nhiều năm trước đó - nhưng phải chờ đến khi Pháp chiếm Sài Gòn - Lục Tỉnh thì mới có quyết định dùng chữ quốc ngữ một cách chính thức và rộng rãi. "

Trong phần các nhà văn tiền chiến, lần này xin giới thiệu :
  - Đái Đức Tuấn (TCHYA)  - Hồ Dzếnh (1916 - 1991)
 
 

Chim Việt Cành Nam (*)
-------------------
(*)1 - Chim Việt Cành Nam, lấy từ chuyện Chim Trĩ , do vua Việt ở phương Nam tân cống cho vua nhà Chu (Chu Thành Vương). Chim chọn cành phía Nam để làm ổ . "Việt điểu sào nam chi" (Sào là làm tổ chim)  , ý nói nhớ quê hương phía Nam. 
2 - Ngựa Hồ hí gió Bấc , là chuyện ngựa của rợ Hồ (Mông Cổ) dâng cho vua Hán Vũ Đế , khi gió Bấc thổi, thì hí lên "Hồ mã tê bắc phong", ý nói nhớ quê, phương bắc.

Trở Về  ]