AH: Theo kinh điển Đại thừa, AH là nguồn gốc của mọi âm thanh, diễn tả và chữ viết; nó không sanh ra, không tạo tác, không do cấu tạo, là sự rộng mở rỗng rang, thanh tịnh và tự nhiên. Nó không truyền đạt bất cứ sự diễn tả ý niệm nào, nhưng biểu lộ bản tánh bổn nguyên của nhất thể, tánh Không.
ánh sáng: Những ánh sáng thông thường như ánh sáng ban ngày được đặc trưng như là khía cạnh thanh tịnh của những nguyên tố thô. Ngài Natsok Rangtrol viết: "Khía cạnh thanh tịnh của những nguyên tố thô là những tia sáng, như ánh sáng và tia sáng mặt trời, và tia sáng của pha lê."
ánh sáng tuyệt đối: Theo Ngài Longchenpa, năm uẩn của thân tâm trong quan niệm thế gian chính là năm thân Phật trong Phật tánh. Năm cảm xúc phiền não là năm trí huệ bổn nguyên, và năm nguyên tố vật chất (năm đại) là năm ánh sáng thanh tịnh... Trong Phật tánh, chúng hiện diện trong bản tánh của nhất thể hay sự hợp nhất, an bình và hoan hỷ, nhưng trong tâm thức trần tục, tâm và những đối tượng của nó được tri giác, chấp giữ và kinh nghiệm như là năm uẩn thân tâm, năm cảm xúc phiền não, năm nguyên tố vật chất... theo một kiểu nhị nguyên cảm xúc và đau khổ.
bardo: Theo đạo Phật, sau khi bạn chết sẽ là giai đoạn bardo, là một giai đoạn chuyển tiếp; sau đó bạn sẽ tái sanh vào một cuộc sống khác. Trong bardo nếu được trang bị, bạn có thể chứng ngộ bản tánh tối hậu và tất cả những hình tướng xuất hiện có thể khởi lên như là nhất thể.
bản tánh chân thật (thật tánh): Còn được gọi là Phật tánh, bản tánh tối hậu, chân lý tuyệt đối, tánh giác ngộ hay Tâm Phật.
Chân ngôn của Đức Liên Hoa Sanh
OM: Chủng tử tự của Thân Phật
AH: Chủng tử tự của Khẩu Phật
HUM: Chủng tử tự của Tâm Phật
VAJRA: Kim cương (cứng chắc), Pháp Thân (Bản tánh tuyệt đối của Phật)
GURU: Đạo sư (sự phong phú), Báo Thân (Tướng thanh tịnh của Phật)
PADMA: Hoa sen (sự thanh tịnh), Hóa Thân (thân Phật người bình thường thấy được)
SIDDHI: Thành tựu, đạt được những kết quả chung và không chung
HUM: Xin ban cho; mong rằng
Chân ngôn của Đức Phật Đại Bi: Trong những kinh văn Phật giáo, chân ngôn chỉ có sáu chữ, nhưng trong phần lớn những kinh văn được phát hiện (Terma) lại có bảy chữ, thêm HRI là chủng tự tâm của đức Quán Thế Âm. Trong chân ngôn này HRI là chủng tự tâm của Phật được cầu khẩn và sáu chủng tự khác là phương tiện để cầu khẩn nó.
OM: A + O + M = OM; biểu tượng thân, ngữ và tâm của chư Phật, do đức Quán Thế Âm hiện thân.
MANI: Ngọc quý; biểu tượng cho sự thỏa mãn những ước nguyện, những phương tiện thiện xảo.
PADME: Hoa sen; biểu tượng cho sự thanh tịnh không nhiễm ô, cho trí huệ. Tu tập những phương tiện thiện xảo và trí huệ là con đường tâm linh của đạo Phật và sự toàn thiện của chúng là phương tiện thiện xảo và trí huệ của Phật tánh.
HUNG: Sự hợp nhất, sự cầu khẩn, hay việc hợp nhất. Nó tượng trưng cho sự hợp nhất giữa trí huệ và phương tiện thiện xảo. Nó cầu khẩn chư Phật ban cho trí huệ, phương tiện thiện xảo và tất cả sự gia hộ ban phước. Lần lượt hung hợp nhất thân, ngữ và tâm của người ta làm một không thể tách rời với (Thân, Ngữ và Tâm của) Phật.
HRI: Chủng tự tâm, đại diện cho tinh túy tâm của đức Phật Đại Bi để cầu khẩn và được hợp nhất.
Nghĩa đơn giản: "Ôi! Đức Phật, Ngài nắm giữ ngọc báu và hoa sen (đại bi và trí huệ), mong Ngài ban phước gia hộ cho con."
chấp ngã: Ý niệm nhận thức về chính mình ("tôi" và "của tôi") hay về người khác hoặc sự vật ("ông ấy", "bà ấy" hay "này", "kia", "đây", "đó") như thể chúng thật sự hiện hữu.
cõi giới tối hậu (Pháp giới): Ngài Shakya Chokden viết: "Cõi giới tối hậu (không gian tối hậu) là trí huệ của Phật tỏa khắp, thấm khắp nền tảng, con đường và quả." Ngài viết rằng pháp giới cũng có thể giải thích theo ba bối cảnh: "Trong bối cảnh của nền tảng, tức là luân hồi, thì pháp giới hiện diện như bản tánh tuyệt đối và thanh tịnh. Trong bối cảnh con đường, trong các bậc thánh hay chứng đắc cao của Đại thừa, nó hiện diện như phương tiện chứng ngộ (hay phát triển) của Pháp thân với hai sự thanh tịnh (thanh tịnh khỏi những nhiễm ô đột nhiên sanh khởi và thanh tịnh trong thật tánh của nó từ vô thủy). Trong bối cảnh của kết quả, Địa vị Phật, nó hiện diện như ba thân Phật và những hoạt động Phật tự nhiên thành tựu.
kim cương (vajra): Biểu tượng cho phẩm tính cứng rắn, kiên cố bất hoại và không thay đổi. Giống như thập tự giá trong đạo Cơ Đốc, kim cương là biểu hiện của đạo Phật mật truyền. Kim cương cũng giống như một vương trượng, một pháp khí được bổn tôn cầm hay được sử dụng trong những buổi lễ, tượng trưng cho sức mạnh nam tính.
mantra (chân ngôn): Chữ hay nhóm từ hoặc nhiều nhóm từ bí mật đầy năng lực bằng tiếng Phạn, hiện thân bản tánh tuyệt đối của âm thanh, ngôn ngữ, diễn tả và sức mạnh. Nó cũng là sự biểu hiện hoặc diễn tả trí huệ tinh hoa và năng lực của một bổn tôn, một vị Phật. Với hành giả, nó có thể được tụng niệm như một thiền định, cầu nguyện hay phương tiện diễn đạt tâm linh hoặc hành động.
năm màu: Mỗi một màu có sức mạnh chữa lành riêng. Ngài Kunkhyen Longchenpa viết: "Khi trí huệ (thật tánh) biểu hiện sự bất biến, ánh sáng của nó xuất hiện như màu xanh lá cây. Khi trí huệ biểu hiện thanh tịnh, ánh sáng của nó xuất hiện là màu trắng. Khi trí huệ hiện thân những phẩm tánh, ánh sáng của nó xuất hiện là màu đỏ. Khi trí huệ thành tựu tất cả bốn hành động, ánh sáng xuất hiện là màu xanh dương. Ngài viết: "Ngài Rang Shar giải thích: 'Ánh sáng màu trắng là (ánh sáng của hành động hay năng lực) của sự an bình; ánh sáng màu vàng là sự phát triển; ánh sáng đỏ là sức mạnh (khiến tất cả được kiểm soát); ánh sáng xanh lá cây là lực (giải thoát khỏi tiêu cực) và ánh sáng xanh dương là sự thành tựu của tất cả (bốn) hành động.'"
những thân Phật: Những phương tiện khác nhau của Phật. Phần lớn những giáo lý giới thiệu ba thân Phật. Thân tối hậu (Pháp thân) là tánh Không toàn thể hay khía cạnh rỗng rang của Phật tánh. Thân hưởng thụ (Báo thân) là hình tướng chân thật hay thanh tịnh của Phật. Trong đây, tất cả mọi hình tướng của chư Phật và những hình tướng hiện tượng của cõi tịnh độ là bất biến và không thể tách rời khỏi chính Phật tánh. Thân biểu lộ (Hóa thân) không phải là thân thực sự hay thanh tịnh của Phật. Nó là một dạng biểu hiện cho chúng sanh bình thường để phục vụ cho những nhu cầu và tri giác của họ.
terma: Những giáo lý và những đồ vật được tìm thấy nhờ năng lực của giác ngộ.
Tịnh độ: Những tướng chư Phật và những biểu hiện của vùng đất mà chư Phật an trụ. Trong Phật tánh không có những phân biệt chủ và khách. Tất cả đều hiện diện trong trạng thái nhất thể, như trí huệ và sức mạnh của trí huệ với an bình, niềm vui và đẹp đẽ. Từ này có thể dịch là cõi Phật hoặc đất Phật.
Thân ánh sáng: Nhiều Đạo sư Thành tựu của Đại Toàn Thiện (Dzogchen) Tây Tạng vào lúc chết đạt được "Thân ánh sáng" hay "Thân cầu vồng" (jalu), họ chuyển hóa thân sanh tử thành thân ánh sáng thanh tịnh, và chỉ để lại tóc và móng chân, tay. Một số đạt được "thân ánh sáng thanh tịnh của đại chuyển di" (jalu phowa chenpo), trong đó họ chuyển hóa thân thể thô nặng thành thân thể ánh sáng thanh tịnh, không để lại dấu vết vật chất gì.
thở theo OM AH HUNG: OM là sức mạnh bất biến và vẻ đẹp của thật tánh mà chúng ta đều sở hữu, thân Phật. AH là sự diễn tả bất tận và là năng lực thịnh hành của thực tại, ngữ Phật. HUNG là sự toàn thiện bất động của sự rỗng rang bổn nguyên của thực tại, tâm Phật. Cũng có những thực hành như thở ra chữ OM và hít vào chữ HUNG và giữ hơi thở lại với chữ AH hay thở ra với OM, thở vào với AH và giữ hơi với HUNG.
thực hành phương pháp thở bí truyền: Trong Phật giáo Tây Tạng có nhiều cách rèn luyện bí truyền về năng lực hay khí như sự rèn luyện Lung (rLung) hay Tsalung (rTsa rLung). Chúng sử dụng năng lực của cơ thể như một phương tiện đầy sức mạnh để phát sinh năng lực, nó lại đem đến sự chứng ngộ về sự hợp nhất của đại lạc và rỗng rang (tánh Không), chân lý tối hậu. Kết quả, hành giả mật truyền sống với nội nhiệt mà không cần quần áo để giữ ấm, bay trong bầu trời như chim muông; tự nuôi sống bằng năng lực thay vì phải dùng thực phẩm thô và hưởng thụ sự tươi trẻ và trường thọ. Ngoài ra, một trong những cách tốt nhất để neo buộc lại những năng lực và tâm bạn là chú tâm vào điểm ở dưới rốn (đan điền). Những giải thích về cách rèn luyện này nên đọc ở những sách khác.
tư thế hoa sen: Đây là một tư thế thiền định phổ biến nhất ở phương Đông: (1) ngồi theo thế kiết già (hoa sen), (2) đặt tay trong lòng theo tư thế thiền định, (3) giữ xương sống thẳng, (4) hơi cúi đầu xuống, (5) cánh tay hơi đưa ra giống như cặp cánh hay một cái ách, (6) hạ thấp tầm mắt tập trung trước mặt khoảng một đến hai thước ngang tầm chóp mũi, và (7) đặt đầu lưỡi đụng lên vòm họng.
tsa ba và grang ba: Theo y học Tây Tạng, mọi bệnh tật của thân thể đều liên hệ đến tsa ba (nóng) hay grang ba (lạnh). Phần trên cơ thể là trung tâm của tsa ba và phần dưới là trung tâm grang ba.