Một trong những nỗ lực mạnh mẽ nhất có thể giúp chúng ta nhanh chóng dứt 
		bỏ được sự giết hại là thực hành việc phóng sinh.
	  Trong thực trạng hôm nay, mỗi ngày quanh ta đều xảy ra vô số việc giết 
		hại. Chim trời, cá nước... mỗi ngày đều bị bắt giữ, giết hại đến số 
		không sao tính đếm hết. Nếu trong những sinh mạng đang bị đe dọa sắp 
		giết hại đó, có thể bằng cách này hay cách khác cứu thoát chúng, trả 
		chúng về với cuộc sống bình thường trong tự nhiên, dù chỉ là một con, 
		hai con cho đến nhiều con, đều là thực hành việc phóng sinh, đều là tạo 
		ra thiện nghiệp vô cùng to lớn, có thể xóa bỏ đi rất nhiều ác nghiệp đã 
		tạo.
	  Việc phóng sinh vì thế rất đơn giản. Lấy ví dụ như trước đây ta vẫn 
		thường ra chợ mua cá về ăn. Nay đã biết hồi tâm từ bỏ nghiệp giết hại 
		nên không ăn nữa, cũng có thể ra chợ mua lấy một vài con cá còn sống rồi 
		mang thả xuống sông, cứu nó thoát khỏi sự giết hại. Điều đó thật dễ 
		dàng, vì mua cá để phóng sinh thì cũng không khác gì với trước đây ta 
		vẫn ngày ngày mua cá để ăn vậy thôi. 
	  Nhưng ý nghĩa của hai sự việc lại hoàn toàn thay đổi theo chiều hướng 
		trái ngược nhau. Việc làm trước đây là ngày ngày gây thêm ác nghiệp, 
		việc làm bây giờ là ngày ngày tạo thêm thiện nghiệp, xóa dần ác nghiệp.
	  Tiến thêm một bước nữa, khi điều kiện cho phép, chúng ta có thể cố gắng 
		mua nhiều cá hơn để phóng sinh. Nỗ lực càng nhiều thì thiện nghiệp càng 
		lớn, cũng giống như người làm ruộng, gieo cấy càng nhiều thì sẽ gặt hái 
		được càng nhiều.
	  Không chỉ là cá, mà chim, thỏ, cua, ếch... bất cứ loài vật nào cũng đều 
		có thể mua để phóng sinh. Chỉ cần cứu thoát được chúng khỏi sự giết hại 
		là việc phóng sinh xem như thành tựu.
	  Như trên đã nói thì việc phóng sinh quả thật rất dễ làm. Dù là có nhiều 
		tiền hay ít tiền cũng đều làm được. Dù là thực hiện trong một ngày hay 
		nhiều ngày, cũng đều có thể tùy theo khả năng mà làm, không nhất thiết 
		phải hạn định ở mức nào mới được. Vì thế, nếu xét theo sự đơn giản và 
		cách thức thực hiện dễ dàng như vậy thì việc phóng sinh quả thật chỉ là 
		chuyện nhỏ...
	  Nhưng chuyện nhỏ này lại có thể mang đến cho chúng ta những sự lợi ích 
		không nhỏ chút nào!
	  Trước hết, phóng sinh là hành vi mạnh mẽ nhất để đối trị với tập khí 
		giết hại nhiều đời của chúng ta. Trong thực tế, do đã làm việc giết hại 
		trong nhiều đời, nên ngày nay cho dù chúng ta có nhất thời nghe biết đạo 
		lý, phân biệt được thiện ác mà phát tâm từ bỏ việc giết hại thì cái tập 
		khí sâu nặng kia vẫn còn đó, luôn có khuynh hướng thúc giục chúng ta 
		quay lại con đường cũ. Khi ta thực hành việc phóng sinh, mọi tư tưởng 
		giết hại sẽ không còn có thể sinh khởi trong ta nữa. Đơn giản chỉ là vì 
		bạn không thể cùng lúc nghĩ đến cả hai việc phóng sinh và giết hại!
	  Thứ hai, việc phóng sinh nuôi dưỡng tâm từ bi của chúng ta. Khi thực 
		hành việc phóng sinh là ta thực hành quan tâm đến sự sống của loài vật, 
		thấu rõ được sự đau đớn của chúng khi bị giết hại, cảm nhận được nỗi vui 
		mừng của chúng khi được cứu sống. Do có sự quan tâm như vậy mà lòng từ 
		bi của chúng ta được nuôi dưỡng, tâm hồn chúng ta trở nên nhạy cảm và dễ 
		cảm thông hơn với loài vật cũng như với tất cả mọi người khác.
	  Thứ ba, như đã nói trên, nếu như giết hại là việc ác lớn nhất, thì phóng 
		sinh lại là điều lành lớn nhất. Phóng sinh là cứu sống kẻ sắp chết, là 
		mang lại sự bình an cho kẻ đang nguy cấp, là noi theo tâm từ bi vô lượng 
		của chư Phật, vì thương xót chúng sinh đang khổ não mà ra tay cứu giúp.
	  
	  Điều mà mỗi chúng sinh yêu thương, quyến luyến nhất chính là sinh mạng 
		của mình. Ai cướp đi sinh mạng của ta, người ấy sẽ là kẻ thù lớn nhất; 
		ai cứu thoát sinh mạng của ta trong lúc nguy cấp, người ấy sẽ là người 
		ơn lớn nhất. Vì thế, thực hành phóng sinh chính là việc thay đổi oán thù 
		thành ân nghĩa, chuyển điều ác thành điều thiện. 
	  Chỉ một việc làm mà có thể mang lại những kết quả lớn lao như thế, chẳng 
		phải là việc rất tốt đẹp hay sao?
	  Nếu nhìn theo góc độ nhân quả nhiều đời thì từ vô số kiếp đến nay ta đã 
		gây biết bao sát nghiệp, lại cũng đã biết bao lần bị kẻ khác giết hại, 
		vì thế mà kết thành không biết bao nhiêu oan nghiệt oán thù. Nếu không 
		hồi tâm tỉnh ngộ thì nghiệp lực chiêu cảm, tất phải đời đời thọ sinh 
		trong cõi luân hồi để trả nợ cho nhau. Cho nên luận Hộ pháp nói rằng: 
		“Tất cả chúng sinh cứ lần lượt mà ăn nuốt lẫn nhau.” (Nhất thiết chúng 
		sinh đệ tương thôn đạm.) Đó cũng là muốn nói lên ý này vậy.
	  Nhưng vì sao việc phóng sinh thật dễ làm và có thể mang lại lợi ích lớn 
		lao như thế mà rất nhiều người lại không làm được? Điều này cũng có 
		những nguyên nhân nhất định, nhưng một trong những nguyên nhân quan 
		trọng nhất có thể nói là do chưa hiểu được thông suốt ý nghĩa của việc 
		phóng sinh.
	  Cũng chính vì không hiểu được một cách trọn vẹn và đúng đắn ý nghĩa của 
		việc phóng sinh, nên có rất nhiều người đã không tự mình làm việc phóng 
		sinh mà còn đưa ra những lý lẽ phản bác, công kích người khác khi thấy 
		họ làm việc này. 
	  Lại cũng có không ít người, dù đã phát tâm làm việc phóng sinh, nhưng 
		khi nghe người khác phản bác, công kích thì lại đâm ra hoang mang, hoài 
		nghi rồi từ bỏ không làm nữa. 
	  Kẻ chê bai vốn đã sai lầm, mà người nghe lời chê bai ấy lại động tâm 
		thay đổi, bỏ đi việc tốt đáng làm, cũng là rơi vào chỗ sai lầm như họ. 
		Tất cả đều chỉ vì không có đủ những hiểu biết và lập luận xác đáng về 
		việc phóng sinh mà thôi.
	  Vì thực trạng đó cho nên cũng có thể nói rằng, việc phóng sinh quả là 
		một chuyện nhỏ khó làm! Dù bản thân sự việc vốn dĩ không khó thực hiện, 
		nhưng việc vượt qua những rào cản của sự chỉ trích, chê bai lắm khi lại 
		rất khó khăn nên nhiều người đã không làm được. Thật đáng tiếc thay!
	  Điều đó cũng là vì những kẻ chê bai, chỉ trích thường đưa ra những lý lẽ 
		mà thoạt nghe tưởng như rất chặt chẽ, xác đáng. Còn người làm việc phóng 
		sinh thì lòng tin chưa sâu vững, lại ít khi chịu tìm hiểu về những ý 
		nghĩa sâu xa của việc phóng sinh, nên một khi bị chê bai, chỉ trích liền 
		rơi vào chỗ hoang mang, nghi ngờ. 
	  Mặt khác, có nhiều khi sự chê bai, chỉ trích của người khác lại cũng là 
		xuất phát từ cách hiểu, cách làm sai lệch của chính những người thực 
		hiện việc phóng sinh. Nên xét cho cùng thì sự lầm lạc có khi cũng là ở 
		cả đôi bên chứ không riêng bên nào.
	  Trước hết, việc phóng sinh phải là xuất phát từ tâm từ bi, mở rộng lòng 
		cảm thông với nỗi khổ của chúng sinh sắp bị giết hại mà thực hiện việc 
		phóng sinh. Nếu chỉ hiểu một cách đơn thuần rằng phóng sinh là việc 
		thiện nên làm, rồi bắt tay thực hiện, thì cho dù đó cũng là điều tốt, 
		nhưng hiệu quả của việc làm sẽ có rất nhiều hạn chế.
	  Thứ nhất, vì không cảm thông với nỗi khổ của chúng sinh khi bị giết hại, 
		nên việc phóng sinh đó không giúp ta đối trị với tập khí sát nghiệp lâu 
		đời. Vì thế, những người làm việc phóng sinh theo cách này thì hôm nay 
		phóng sinh con vật này, ngày mai lại có thể ra tay giết hại con vật 
		khác. Cái vòng luẩn quẩn giết tha, tha giết như thế rõ ràng không phải 
		là chỗ ý nghĩa tốt đẹp của việc phóng sinh.
	  Thứ hai, khi làm việc phóng sinh mà không xuất phát từ tâm từ bi, thì 
		tâm ấy vốn đã không được sinh khởi, còn nói gì đến chuyện được nuôi 
		dưỡng! Do đó mà dù có nhiều lần làm việc phóng sinh cũng không thay đổi 
		được tâm tánh, cũng không tăng trưởng được tâm từ bi.
	  Vì những lẽ trên, nên người làm việc phóng sinh mà trước hết không xuất 
		phát từ tâm từ bi thì việc làm ấy cho dù vẫn là việc tốt, mà hiệu quả 
		phải có nhiều hạn chế.
	  Hơn thế nữa, một khi đã không xuất phát từ tâm từ bi thì việc thực hiện 
		rất dễ rơi vào chỗ sai lệch. Chẳng hạn, một số người làm việc phóng sinh 
		như một cách bỏ tiền ra để mua lấy tiếng tốt, mong rằng những người khác 
		qua việc làm ấy mà sẽ đánh giá tốt về mình. Một số người khác thấy bạn 
		bè thân hữu quanh mình đều làm việc phóng sinh, nên dù không thực tâm 
		muốn làm nhưng vì sợ người khác chê cười mà làm. Lại có những người vì 
		lòng mong cầu được sự may mắn, được sống lâu, được khỏi bệnh tật... mà 
		làm việc phóng sinh. Những điều này thực ra dù không mong cầu cũng tự 
		nhiên sẽ được, vì là kết quả của việc thiện đã làm. Nhưng khi xuất phát 
		từ lòng mong cầu những điều đó để làm việc phóng sinh thay vì là phát 
		khởi tâm từ bi, thì hiệu quả của việc làm liền bị hạn chế đi rất nhiều.
	  Điều quan trọng nhất là, khi xuất phát từ những động cơ lệch lạc như 
		trên để thực hiện việc phóng sinh thì tâm từ bi sẽ không tăng trưởng. Vì 
		thế mà những người làm việc phóng sinh theo cách này thường không thể 
		đảm bảo là sẽ kiên tâm thực hiện lâu dài.
	  Một trong những sai lệch thường gặp khác nữa là người ta thường đợi đến 
		những ngày có lễ hội, những dịp quan trọng có đông người tham dự để làm 
		việc phóng sinh. Mỗi lần như thế, họ thường phóng sinh rất nhiều, thậm 
		chí có người còn ấn định trước con số vật loại sẽ phóng sinh, như ba 
		trăm, năm trăm... Vì thế, trước ngày phóng sinh, có khi họ phải tìm mua 
		ở nhiều nơi mới có đủ số để phóng sinh. Những kết quả tất nhiên của việc 
		làm này là, vào các ngày ấy thì những con vật được bán với giá cao hơn 
		và bán được nhiều hơn. Những người làm nghề săn bắt chim, thú, cá... đều 
		biết vậy, nên vào những dịp này họ nỗ lực đánh bắt nhiều hơn để mong 
		kiếm được nhiều tiền hơn.
	  Đứng từ góc độ khách quan mà nhìn vào như thế thì quả thật có rất nhiều 
		lý lẽ để chê bai, chỉ trích.
	  Thứ nhất, khi người làm việc phóng sinh đua nhau thực hiện vào những dịp 
		lễ hội và chấp nhận trả nhiều tiền hơn, khác nào là thúc giục, đôn đốc 
		những kẻ săn bắt chim, thú... phải cố gắng săn bắt cho được nhiều hơn? 
		Thậm chí họ còn chuẩn bị trước đó nhiều ngày để có được số lượng nhiều 
		hơn, làm cho càng có nhiều chim thú phải chịu cảnh khổ vì bị bắt nhốt, 
		giam cầm để chờ đợi. Ví như có dịp lễ hội nào mà số người làm việc phóng 
		sinh ít hơn thường lệ, thì số chim, thú... được chuẩn bị sẵn ấy chắc 
		chắn cũng không được thả ra, mà phải bị chuyển sang bán cho người ta ăn 
		thịt. Như vậy, việc làm dù tốt mà có khác nào gây ra hậu quả xấu?
	  Thứ hai, do chim thú bị bắt với số nhiều, phải giam nhốt trong những môi 
		trường chen chúc, chật hẹp, nên cá thiếu nước, chim thiếu khí trời... 
		hết thảy đều phải khổ sở, thậm chí rất nhiều con phải chết trước ngày 
		phóng sinh. Đã vậy, ngay cả những người mua chúng về để phóng sinh lại 
		cũng muốn chờ cho đúng ngày, đúng giờ, nên chúng lại phải tiếp tục chờ 
		đợi một cách khổ sở. Có khi trong một thùng nhỏ chứa đến hàng trăm con 
		cá, trong một cái lồng bé tí mà có đến năm bảy chục con chim... Vì thế, 
		cho đến lúc được trả về với tự nhiên thì một số trong đó đã phải mạng 
		vong, một số khác dù chưa chết nhưng vừa được thả ra đã chết ngay trước 
		mắt người phóng sinh. Số còn lại may mắn sống còn thì cũng đã phải trải 
		qua một thời gian tù ngục khổ sở khôn kể xiết!
	  Nếu là xuất phát từ tâm từ bi để làm việc phóng sinh thì không thể mắc 
		vào những sai lệch như trên.
	  Thứ nhất, các loài chim, cá, thú rừng... bị bắt về để bán cho người ta 
		ăn thịt ngày nào cũng có, mà ngày nào thì sự nguy cấp cũng đều như nhau. 
		Khi đã phát tâm làm việc phóng sinh thì chỉ sợ không có khả năng chứ 
		không đợi ngày giờ. Ngay khi vừa có chút tiền có thể dành ra để mua được 
		một con, hai con cho đến nhiều con đều sẽ lập tức tìm mua để thả ra. Bởi 
		trong lòng thương xót chúng, cảm thông với nỗi khổ bị giam cầm, bị đe 
		dọa, phải sợ hãi, đau đớn, nên làm việc cứu giúp phải càng sớm càng tốt, 
		cũng bất kể là có ai biết đến việc làm của mình hay không, chỉ cần cứu 
		sống được sinh mạng là tự thấy vui vẻ rồi.
	  Khi làm việc phóng sinh như thế này thì đến người bán cũng không cần 
		phải biết là mình mua để phóng sinh, chỉ trao cho họ đủ tiền là được. 
		Cho nên, mỗi ngày dù có một người, hai người cho đến hàng trăm người âm 
		thầm làm việc phóng sinh như thế, thì vật loại được cứu sống dù rất 
		nhiều cũng không kích thích lòng tham của những kẻ săn bắt hay buôn bán 
		chim thú.
	  Thứ hai, do xuất phát từ tâm từ bi, cảm thông với nỗi khổ của chúng sinh 
		đang bị giam cầm cấp thiết, nên ngay khi có đủ tiền mua rồi, liền lập 
		tức mang thả ra ngay. Nhờ đó mà chim, cá, thú... đều không phải bị giam 
		nhốt chờ đợi khổ sở. Bởi vậy, phóng sinh như thế này thì số con vật bị 
		chết sẽ giảm thiểu, dù chẳng may có chết cũng là rất ít, và cũng là do 
		nơi những người săn bắt, buôn bán trước đó, chứ không đến nỗi bị chính 
		người phóng sinh hại chết!
	  Vì những lẽ trên cho nên nói rằng, muốn làm việc phóng sinh, trước hết 
		nên phát khởi tâm từ bi, và xuất phát từ đó mà thực hiện việc phóng 
		sinh.
	  Nếu được như vậy thì việc phóng sinh chỉ cần tùy vào khả năng thực sự 
		của mình, cho dù ít ỏi cũng vẫn có được hiệu quả lớn lao, ác nghiệp sẽ 
		ngày một giảm nhanh, tâm hiếu sát cũng không còn nữa, tâm từ bi được 
		tăng trưởng ngày một mạnh mẽ hơn. Đến lúc đó thì nhìn thấy vật loại 
		chúng sinh bị giam cầm, bức bách, tự nhiên sẽ phát khởi tâm từ bi vô 
		lượng mà nghĩ cách cứu giúp theo khả năng của mình. Việc phóng sinh sẽ 
		trở thành tự nhiên cũng như thở hít khí trời, không một chút gượng ép mà 
		cũng không còn thấy là khó khăn như lúc ban đầu. Khi được như vậy, dù ai 
		có viện ra bao nhiêu lý lẽ để chê bai, chỉ trích cũng không thể làm lay 
		động lòng mình, chỉ phát khởi tâm từ bi mà thương xót cho kẻ mê muội ấy 
		mà thôi.
	  Còn những ai vì chưa hiểu được ý nghĩa của việc phóng sinh mà đã từng 
		thực hành theo cách sai lệch như trên, cũng không cần phải tự trách mình 
		mà thối thác, từ bỏ việc phóng sinh. Vẫn nên tiếp tục làm, chỉ cần thay 
		đổi nhận thức về việc làm của mình, tự mình phát khởi tâm từ bi, thương 
		xót loài vật. Được như vậy thì những sai lệch trước đây sẽ tự nhiên dần 
		dần mất đi, mà hiệu quả lớn lao của việc phóng sinh liền có thể cảm nhận 
		được ngay.
	  Lại có người hỏi rằng: “Những kẻ săn bắt, buôn bán chim, thú... là dựa 
		theo nhu cầu của người mua mà cung cấp. Nay khuyến khích nhiều người làm 
		việc phóng sinh, có khác nào gia tăng thêm nhu cầu, buộc họ phải gia 
		tăng thêm việc săn bắt, mua bán? Chi bằng nếu đã thấy rõ được ác nghiệp 
		của việc giết hại thì tự mình dứt bỏ là được rồi. Bao nhiêu công sức để 
		làm việc phóng sinh, có thể vận dụng để làm những việc thiện khác chẳng 
		là tốt hơn hay sao?”
	  Lời này nghe qua thật là hợp lý. Và hiểu như thế thì rõ ràng là nếu có 
		nhiều người làm việc phóng sinh, sẽ càng có nhiều người làm việc săn 
		bắt, mua bán chim thú! 
	  Nhưng cũng nên nghĩ lại rằng, chim thú vốn là đã bị bắt, mạng sống đang 
		bị đe dọa, ta mới ra tay làm việc phóng sinh. Điều đó không có nghĩa là 
		vì ta mà chim thú bị bắt, càng không có nghĩa là ta khuyến khích việc 
		săn bắt! 
	  Bản thân ta cũng vì đã tạo ác nghiệp trong nhiều kiếp mà phải sinh ra 
		trong cõi thế giới này, nên nhìn ra chung quanh thì người người đều làm 
		việc giết hại, người người đều mỗi ngày tạo thêm ác nghiệp. Nay ta có cố 
		gắng làm việc phóng sinh, tu tập, cũng là để tự cứu lấy mình khỏi những 
		ác nghiệp đã tạo. Một mai khi ác nghiệp đã dứt, thiện nghiệp đầy đủ, 
		được sinh về những cõi thế giới tốt đẹp không có người làm việc giết 
		hại, khi ấy cần gì phải làm việc phóng sinh? 
	  Vì thế, lời nói trên lẽ ra phải nên hiểu ngược lại rằng: “Chính vì có 
		người làm việc săn bắt, mua bán chim thú, nên mới phải có người làm việc 
		phóng sinh. Càng nhiều người làm việc săn bắt, mua bán chim thú, lại 
		càng phải có nhiều người làm việc phóng sinh hơn.” 
	  Những người làm việc săn bắt, mua bán chim thú vốn có ác nghiệp riêng 
		của họ. Ta dù có thương họ cũng không cứu giúp được, chỉ có thể cầu mong 
		cho họ được nghe biết pháp Phật, hiểu được đạo lý thiện ác, tự mình từ 
		bỏ ác nghiệp đang làm, thì mới có thể tự cứu được mình mà thôi. Cũng như 
		những chim thú bị bắt giết kia, vốn cũng có ác nghiệp của chúng nên mới 
		sinh làm loài cầm thú. Nay ta có thương xót cũng chỉ có thể nhất thời 
		cứu thoát sinh mạng của chúng chứ không thể cứu được ác nghiệp mà chúng 
		đang gánh chịu.
	  Nay dù không có ai làm việc phóng sinh, cũng không phải vì thế mà không 
		có người làm việc săn bắt chim thú, bởi mục đích chính của họ vốn là bán 
		cho người ta ăn thịt chứ không phải để bán cho những người làm việc 
		phóng sinh!
	  Bởi vậy, bắt giết có ác báo của việc bắt giết, phóng sinh có thiện báo 
		của việc phóng sinh. Nếu vì có nhiều người phóng sinh như ta mà những 
		người săn bắt, mua bán gia tăng thêm việc làm của họ, đó cũng là xuất 
		phát từ lòng tham lam của bản thân họ, không phải do nơi thiện tâm của 
		chúng ta. Nếu họ chẳng tham lam muốn kiếm nhiều tiền hơn, thì dù ta có 
		mua nhiều chim thú để thả ra, cũng không khiến họ gia tăng việc săn bắt. 
		Vì thế, lòng tham là ở nơi họ, thì ác nghiệp là do họ tạo. Ta làm việc 
		phóng sinh là xuất phát từ tâm từ bi, thì thiện nghiệp đã rõ ràng không 
		thể nghi ngờ gì nữa!
	  Lại có người hỏi rằng: “Trong tự nhiên đã sẵn có quy luật, dù là giữa 
		rừng sâu mà muông thú cũng đều biết tuân theo. Nếu có nhiều loài sinh 
		sản, thì cũng phải có những loài bắt giết, nhờ đó mà giữ được sự cân 
		bằng trong thiên nhiên. Nếu mọi người ai ai cũng làm việc phóng sinh, 
		hoặc chẳng còn ai làm việc săn bắt, thì các loài chim, thú chẳng phải là 
		sẽ sinh trưởng tự do, lan tràn ra khắp chốn mà làm rối loạn cả môi 
		trường sống hay sao?”
	  Lời này thoạt nghe cũng thấy là hợp lý. Thử tưởng tượng, hiện nay mỗi 
		ngày đều có đến số hàng nghìn, hàng triệu con vật bị bắt giết trên trái 
		đất này, vậy mà chim vẫn có, cá vẫn còn... vẫn tiếp tục sinh trưởng khắp 
		nơi. Nay nếu như đột nhiên người người đều bỏ ác làm thiện, không bắt 
		giết chúng nữa, thì rõ ràng là số lượng loài vật sẽ tăng lên nhanh biết 
		bao nhiêu? Bởi những con vật kia chẳng những đã không phải chết, mà lại 
		còn tiếp tục góp phần vào việc sinh sản, như vậy thì không bao lâu số 
		chim, thú... chắc chắn sẽ nhiều đến mức không sao tưởng tượng được!
	  Nhưng cũng nên nghĩ lại, cái gọi là “quy luật tự nhiên” đó vốn cũng chỉ 
		là do ta gọi tên mà có. Thực ra, những con thú ăn thịt kia vốn chỉ là do 
		nghiệp giết hại đã tạo từ nhiều đời trước nên nay mới phải làm loài thú 
		và tiếp tục giết hại. Chúng như những kẻ trộm đã lâu ngày, lún sâu vào 
		việc trộm cắp nên không còn có thể hồi tâm thay đổi được nữa, chỉ tiếp 
		tục việc làm của mình và phải chịu sự trừng phạt của luật pháp. Bản thân 
		chúng ta vốn không giống như các loài thú ăn thịt đó, vì ta có quyền lựa 
		chọn của riêng mình, không bị bắt buộc phải sống nhờ vào sự giết hại 
		những con vật khác.
	  Còn sự cân bằng của môi trường tự nhiên vốn không chỉ dựa vào sự giết 
		hại lẫn nhau của muông thú. Điều đó còn liên quan đến nhiều yếu tố phức 
		tạp khác như nhiệt độ, khí hậu, điều kiện sống... Mặt khác, sự giết hại 
		lẫn nhau của các loài thú trong điều kiện cạnh tranh sinh tồn giữa tự 
		nhiên cũng hoàn toàn không phải là điều mà con người nên bắt chước. 
		Chúng ta luôn tự hào là có lý trí và tình cảm vượt xa tất cả các loài 
		vật, vì thế mà việc làm của chúng ta cũng phải xuất phát từ những sự 
		chọn lựa sáng suốt, đúng đắn hơn. Một trong những sự chọn lựa ấy chính 
		là từ bỏ sự giết hại.
	  Và điều này ngày nay đã được không ít các nhà bảo vệ môi trường lên 
		tiếng khẳng định. Mặc dù họ hoàn toàn không dựa vào những niềm tin của 
		tín ngưỡng, tôn giáo, nhưng những kết quả nghiên cứu khoa học khách quan 
		của họ đã đưa đến kết luận tương tự: sự giết hại của con người ngày nay 
		đang hủy hoại môi trường đến mức báo động! Trong thực tế, mối đe dọa 
		trước mắt đối với chúng ta hiện nay không phải là “quá đông” các loài 
		động vật, mà là nguy cơ đang phải vĩnh viễn chia tay với nhiều loài động 
		vật. Nếu không có các biện pháp bảo vệ kịp thời, trong một ngày không xa 
		trái đất của chúng ta sẽ có khả năng trở thành một hành tinh chết, với 
		sự hiện hữu cô độc và tuyệt vọng của con người trong một môi trường 
		thiên nhiên đã hoàn toàn bị phá hủy!
	  Bạn không tin điều đó sao? Sự thật thì cái gọi là “chim vẫn có, cá vẫn 
		còn...” đó chỉ là cách nhìn thiển cận, giới hạn trong một phạm vi thời 
		gian ngắn ngủi mà chúng ta đang nhìn thấy mà thôi. Hiện nay, danh sách 
		các loài động vật được ghi vào “sách đỏ”1 của thế giới đang nhanh chóng 
		gia tăng, thậm chí nhiều loài đã mất hẳn trước khi con người kịp quan 
		tâm bảo vệ chúng. Hơn thế nữa, sự giết hại hàng loạt của con người cũng 
		đe dọa làm thay đổi, biến dạng nhiều cảnh quan xinh đẹp trong thiên 
		nhiên, xua đuổi các loài vật phải rời khỏi nơi sinh trưởng thích hợp tự 
		nhiên của chúng. Nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận ra điều này và 
		đang mở rộng dần các khu vực bảo vệ tự nhiên, nghiêm cấm tuyệt đối mọi 
		hành vi săn bắt, giết hại trong các khu vực ấy.
	  Như vậy là, cuối cùng thì con người cũng đã nhận ra những sai lầm của 
		mình trong việc phá hoại môi trường. Và điều này càng khẳng định hơn nữa 
		việc từ bỏ sự giết hại và thực hành phóng sinh chỉ có thể là mang lại 
		những kết quả tốt đẹp chứ không còn nghi ngờ gì nữa!