Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Sự giúp đỡ tốt nhất bạn có thể mang đến cho người khác là nâng đỡ tinh thần của họ. (The best kind of help you can give another person is to uplift their spirit.)Rubyanne
Đừng cố trở nên một người thành đạt, tốt hơn nên cố gắng trở thành một người có phẩm giá. (Try not to become a man of success, but rather try to become a man of value.)Albert Einstein
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Phật giáo và Con người »» Chương Bốn: Cái nhìn của người Á châu đối với đạo Phật »»

Phật giáo và Con người
»» Chương Bốn: Cái nhìn của người Á châu đối với đạo Phật

Donate

(Lượt xem: 3.749)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Phật giáo và Con người  - Chương Bốn: Cái nhìn của người Á châu đối với đạo Phật

Font chữ:


Diễn đọc: Giang Ngọc

SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Đạo Phật được truyền vào các nước Châu Á lần lượt từ các thế kỷ trước Công nguyên cho đến sau Công nguyên độ 500 năm. Trong 1.000 năm đầu tiên này, sau khi Đức Phật nhập diệt, hầu như mọi dân tộc của Á Châu đều biết đến Đạo Phật. Nếu ngày xưa cách đây 2.500 năm về trước, Đức Phật sanh ra tại Âu hay Mỹ Châu, chắc chắn các dân tộc này đã trở thành Phật tử rồi, không phải chờ đợi đến ngày nay họ mới tìm hiểu giáo lý của Đạo Phật. Đây có lẽ do nhân duyên và có lẽ cũng do hạnh nguyện của Đức Phật, như Ngài đã từng nói nhiều lần trong các kinh điển khác nhau rằng Ngài đã sinh ra tại xứ Ấn Độ, một xứ Á Châu có nhiều giai cấp để cứu khổ độ sanh, nên người Á Châu có cơ duyên tiếp xúc với Đạo Phật trước hơn các dân tộc Âu Mỹ khác.

Nếu ví Đạo Phật như một cây đại thụ, có gốc rễ mọc lên từ Á Châu, thì nơi đây Âu và Mỹ Châu chính là những cành lá sum sê đang đơm hoa kết trái. Vì thế cũng chẳng lấy làm lạ rằng Đạo Phật ở Á Châu ngày nay đa số ở vào thế thủ, trong khi đó Đạo Phật tại Âu Châu đang vươn vai trổi dậy trong những xứ văn minh cơ khí tại đây. Đó có lẽ là định luật bù trừ của tạo hóa chăng?

Ngày xưa chư Tăng khi còn ở trong nước, đa phần cũng chỉ lo nhiệm vụ cúng kiến, xây dựng chùa tháp và hành trì giới luật mà thôi, nhưng ngày nay khi ra hành đạo tại các xứ Âu Mỹ này, với ngần ấy hành trang vẫn không đủ để trang bị cho kiến thức của mình khi đi làm Phật sự. Do vậy, chính những vị Tăng sĩ vẫn phải tự học hỏi, trau giồi văn hóa và Phật học để ứng dụng vào trong cuộc sống của mình, nhằm ảnh hưởng tha nhân. Người Phật tử Á Châu cũng thế, khi họ bị hỏi về Đạo Phật, họ cũng bí lối như thường, mặc dầu họ là những người Phật tử đã quy y lâu đời. Do vậy phong trào học Phật ngày nay lại nổi lên khắp nơi, nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết ấy cho những người Á Châu học Phật.

Hỏi: Đạo Phật thường hay lấy hoa sen để làm biểu hiệu. Vậy hoa sen có ý nghĩa gì?

Đáp: Hoa sen là một loại hoa mọc lên từ bùn nhơ, nhưng tỏa ra hương thơm ngát nhẹ nhàng. Như thế ấy, chúng sanh sanh ra trong cõi đời ô trược này, mặc dầu tham, sân, si và ái nhiễm buộc ràng, nhưng trong chúng sanh ấy, nếu có ai tu và giác ngộ thành Phật được, thì cũng ví như hoa sen kia từ bùn nhơ nước đọng, nhưng vẫn tỏa ra được hương thơm tinh khiết dịu dàng. Ngoài ra, hoa sen còn có 5 đặc tính sau đây, ít có loài hoa nào có được. Nên Đạo Phật đã lấy hoa sen tượng trưng cho Tôn Giáo của mình.

Đặc tính thứ nhất là ở trong cuộc đời vẩn đục nhưng không bị mùi đời làm ô nhiễm, nội tâm cũng như ngoại cảnh. Điều này cho ta thấy rằng: Mỗi chúng sanh đều có tánh Phật. Với tánh Phật này nếu chúng sanh biết khổ công tu luyện thì sẽ thành Phật. Cũng thế, mặc dầu ở trong bùn nhưng hoa sen vẫn không bị nhiễm mùi bùn.

Đặc tính thứ 2, nhân và quả đồng thời. Không có một loài hoa nào trong khi ra hoa có quả như hoa sen. Điều này chứng tỏ rằng trong nhân có quả, trong quả có nhân.

Đặc tính thứ 3, nhân và quả khác thời. Đây cũng là một điều đặc biệt của loài hoa sen. Không có một loài hoa nào, khi ra hoa mà hoa không từ cành để thành hình được, ngoại trừ hoa sen. Vì lá sen và hoa sen không cùng nhau một cành, mà cành và hoa sen riêng biệt nhau. Đây gọi là nhân quả khác thời. Có nhiều loại nhân gây ra trong đời này mà quả phải chờ trong nhiều năm tháng hoặc nhiều đời khác nhau mới gặt được.

Đặc tính thứ 4, hoa sen không phải là loài hoa để trang sức. Người ta tặng nhau hoa hồng, hoa cẩm chướng v.v... nhưng không mấy ai đem hoa sen để tặng nhau, mà hoa sen chỉ dành riêng để cúng Phật. Ý nói về sự cao thượng của loài hoa này.

Đặc tính thứ 5, ong bướm không bay vào. Ý nói hoa sen rất trang nghiêm, không lả lơi, mời gọi. Đây chính là đặc tính quân tử của loài hoa quý giá này.

Trên đây là 5 đặc tính của loài hoa sen mà Đạo Phật vẫn hay dùng đến để tượng trưng cho đặc tính cao thượng của con người. Phật sinh ra cũng đi trên hoa sen, Phật thành đạo cũng ngồi trên tòa sen v.v... Đây là ý chính mà Phật giáo hay lấy hoa sen để tượng trưng vậy.

Hỏi: Người Phật tử tại gia nên tụng những kinh nào hằng ngày và ý nghĩa của những loại kinh này?

Đáp: Hằng ngày ở tại nhà quý vị nên tụng kinh Cầu An Phổ Môn vào buổi tối, hoặc giả tụng kinh Tịnh Độ hay Cầu Siêu mỗi khi trong gia đình có cúng giỗ. Nếu những kinh này đã tụng thuần thục rồi, có thể tụng những loại kinh bộ như Thủy Sám, Lương Hoàng Sám, Pháp Hoa v.v... tùy theo thời giờ chia ra mỗi lần tụng chừng 1 tiếng đồng hồ và nhiều ngày tụng như thế sẽ xong một bộ kinh. Về ý nghĩa của các kinh này khi đọc tụng sẽ hiểu. Tuy nhiên những ý chính hoặc những nghĩa lý cao siêu hơn phải cần tham khảo riêng, không thể tìm hiểu ngay khi trì tụng, vì thiếu thì giờ. Khi tụng đọc chỉ cần chú tâm vào câu kinh tiếng mõ là đủ. Vì tụng có nghĩa là tập trung tư tưởng, khi tập trung tư tưởng cao, sẽ huân tập được nhiều tư tưởng lành.

Đôi khi có những bài thần chú không thể hiểu được, nhưng điều ấy cũng không cần thiết. Vì khi trì tụng các thần chú này, chính sự đọc tụng ấy sẽ huân tập cho chúng ta có một nội lực rất thâm hậu.

Hỏi: Trước khi hành lễ, thường Phật tử lạy 3 lạy. Xin cho biết lý do về việc lễ 3 lễ này.

Đáp: Lạy thứ nhất là lạy tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai cùng với giáo pháp và chư Tăng. Lạy thứ 2 là lạy Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, các vị Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v.. Lạy thứ 3 là lạy Đức Phật A Di Đà, cùng 2 vị Đại Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí cũng như Ngài Địa Tạng Vương.

Chúng ta lễ Phật vì cung kính đức hạnh của chư Phật. Lễ Phật cũng là dịp để chúng ta hạ mình xuống, dẹp đi bản ngã cống cao, tự mãn. Cúi mình xuống cũng là để nhìn sâu vào nội tâm của mình. Lạy Phật cũng có nghĩa là lễ bái cầu nguyện cho tánh Phật của mình được trưởng dưỡng như lời chư Phật dạy. Đó chỉ là 3 lễ đầu tiên. Nếu là nghi thức sám hối gồm cả trăm lạy. Nghi thức Ngũ bách danh (500 lạy), Tam thiên Phật danh (3.000 lạy), Vạn Phật (hơn 11.000 lạy) v.v... và v.v... Tựu chung lạy Phật để thể hiện lòng mình đối với tự tánh của mình và để thể hiện sự cung kính đối với chư Phật và chư vị Bồ Tát.

Hỏi: Sau khi chết thân trả về cho tứ đại. Vậy thức nào còn và thức nào mất?

Đáp: Câu hỏi này người Âu Châu cũng thường hay hỏi, như đã trả lời phía trên, nhưng ở đây có thể đi sâu hơn một phần nữa. Trong thân xác chúng ta có hai phần. Một phần thuộc về tâm linh và một phần khác thuộc về hình tướng. Phần tâm linh thì không thấy được nên rất khó biết sự mất còn. Duy chỉ có phần hình thức có thể ngắm nhìn, sờ mó được, nên chúng ta có thể theo dõi các hiện tượng biến đổi vật lý ấy. Nhưng chúng ta biết chắc một điều ngoài thể xác, tâm linh không thể tồn tại và khi thể xác tồn tại cũng không thể thiếu sự hiện hữu của tâm linh được, nên chúng ta có thể nói rằng: ngoài A không có B và ngoài B không có A là vậy. A tồn tại trong B và B cũng hiện hữu trong A. Nếu cái này thay đổi thì cái kia cũng thay đổi. Thức hay Sắc cũng phải thay đổi tùy theo từng trường hợp của hiện tượng vật lý biến đổi. Khi chết, tất cả các chất thuộc về đất, nước, gió và lửa tan biến, nhưng thức thì thay đổi vị trí để tái sinh hay nói đúng hơn là đi nương tựa vào nơi khác, cũng giống như nước trở về nương với nước, gió trở về nương với gió, thì thức cũng sẽ nương theo những hành nghiệp của mình đã tạo ra trong kiếp quá khứ mà lãnh thọ cho kiếp vị lai.

Hỏi: Thông thường giữa thời công phu khuya quý Thầy thường cho lạy xen kẽ vào những thời khóa tụng ấy. Như vậy những lạy ấy là những lạy gì?

Đáp: Sau khi kinh hành, nhiễu Phật niệm danh hiệu Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, nếu là ngày rằm hay mồng một, nhằm ngày Bố Tát (uposatta) của chư Tăng, tức lễ tụng giới, quý Thầy hay lạy chừng 30 lạy. Đó là nghi lễ chúc tán thù ân. Nghĩa là tán dương ân đức của chư Phật, chư vị Thánh Tăng, các vị Tổ Sư, chư vị truyền thừa Phật pháp, các vị Hòa Thượng làm giới sư truyền giới cũng như Yết Ma, Giáo Thọ và các vị Tôn Chứng Tăng Già. Ngoài ra còn lạy 4 ân nặng trong những ngày này, như ân quốc gia, ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, ân dạy dỗ của Thầy Tổ và ân của chúng sinh, đồng loại.

Nếu là ngày thường, không phải rằm hay mồng một chư Tăng cũng cho lạy Phật sau khi đi kinh hành, nhưng ít hơn. Đó là lạy về công hạnh tu hành của Đức Bổn Sư từ khi sơ sanh đến lúc nhập Niết Bàn và lạy danh hiệu của 4 vị Thánh. Đó là các Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm và Địa Tạng.

Hỏi: Ai tin theo Phật, đều phải quy y Tam Bảo, hay chỉ cần tin tâm của mình là đủ? Tự mình làm lành lánh dữ là mình thấy tốt rồi, cần gì phải hình thức mà trong lòng mình không biết tu, không biết lánh dữ, làm lành, cố chấp, vị kỷ v.v...

Đáp: Tam Bảo là ruộng phước, chúng ta cần nương vào đó để tín tâm được phát sanh. Quy y là sự trở về nương tựa với những giá trị cao cả đó. Cũng giống như trường học là nơi đào tạo con người. Nếu không có học đường và Thầy dạy cho mình học, khó ai có thể thành người hữu dụng cho xã hội. Thỉnh thoảng cũng có vài người không cần đi học vẫn biết chữ, cũng có nhiều người không cần tu vẫn chứng, nhưng số này là số đặc biệt, trong hàng triệu người mới có một người. Vì thế sự quy y và giữ giới rất cần cho người mới bước vào cửa Đạo, nhằm giữ gìn tín tâm của mình trên con đường tìm về sự giải thoát.

Tâm của chúng sanh luôn thay đổi. Lúc vui, lúc buồn, lúc giận, lúc hờn, thương, ghét v.v... vì vậy tự mình khó kiểm soát được tâm của mình. Do đó quy y và giới luật chính là tấm gương soi giúp chúng ta nhận ra lỗi lầm của chính mình. Nếu không quy y và học giới luật thì tự mình khó thấy sự sai lầm được.

Hỏi: Tại sao khi niệm Phật cần phải lần chuỗi, ý nghĩa như thế nào? Sao có chuỗi dài, chuỗi ngắn?

Đáp: Chữ niệm có nghĩa là nhớ nghĩ. Thông thường tâm ta hay suy nghĩ vẩn vơ, phải trái, hơn thua, được mất, do đó dễ quên đi những gì đã làm và đã nói. Vì vậy khi nhớ nghĩ đến Phật phải cần đến tràng hạt để giúp cho tâm mình có nơi nương tựa, đỡ sai lầm, khi đã thuần thục rồi nhiều khi không cần đến tràng hạt nữa, nhưng lúc ban đầu tràng hạt rất cần cho những người mới bước vào cửa đạo.

Tràng hạt có loại 18 hạt, 108 hạt v.v... Tất cả đều lấy 6 căn, 6 trần và 6 thức làm chuẩn. Mỗi loại 6 sanh ra 3 cảnh giới của đối tượng tức thành 18. Trong 18 đối cảnh ấy nhân với 6 lần thuộc về căn, trần hay thức tổng cộng là 108. Hay có nhiều nơi lấy 18 đối cảnh ấy nhân cho 6 lần hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật” sẽ ra 108 lần. Đây chỉ thuộc về hình tướng. Khi đã niệm quen rồi thì niệm niệm tương tục, không thay đổi, lúc ấy không cần đến số lượng 18 hay 108 nữa mà niệm cho đến khi nào tiến đến giai đoạn vô niệm mới thôi.

Hỏi: Theo đạo Phật, ái dẫn đến phiền não, luân hồi. Muốn hết phiền não phải diệt ái. Trong khi cha mẹ, anh em đau khổ, làm sao chính mình không đau khổ được. Làm sao cho hết đau khổ, khi vẫn còn yêu thương cha mẹ và anh em. Yêu thương này có phải là ái mà theo Đạo Phật biểu phải diệt không?

Đáp: Thập Nhị Nhân Duyên là 12 mắc xích, làm cho chúng sanh bị luân hồi sanh tử nhiều đời nhiều kiếp. Trong đó vô minh và ái dục là hai điều căn bản của luân hồi, nhưng vô minh thì khó đoạn trừ, chỉ có ái dục là dễ hơn cả. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể thực hành được. Nếu ai muốn sớm dứt mê mờ trở về con đường giải thoát thì hãy sớm cắt đứt dây ái ân. Còn ai đó nếu bị nhân duyên ràng buộc bởi sự yêu thương của gia đình, chồng vợ thì cũng không sao. Nếu kiếp này không giải thoát được thì chờ kiếp khác. Nơi đạo Phật không có sự ép buộc để chỉ phải làm trong một đời này. Việc này hoàn toàn tự giác, muốn thoát ra khỏi biển sanh tử luân hồi, chính mình phải tự chọn, không ai có thể thay thế cho mình được. Việc yêu thương cha mẹ, anh em hay chồng vợ v.v... đều thuộc về ái dục. Nếu muốn đoạn ái dục để bước vào con đường giải thoát, tự mình phải chọn lựa lấy để mà đi.

Hỏi: Hai câu: “Nhứt cú Đi Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương” là nghĩa gì?

Đáp: Trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, Ngài có phát nguyện rằng: Nếu có chúng sanh nào đó ở thế giới Ta Bà này trước khi lâm chung mà chí tâm niệm đến một câu danh hiệu của Ngài thì Ngài sẽ cùng với Quán Âm, Thế Chí Bồ Tát đến tại nơi này để tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Nên 2 câu này cũng diễn tả lên ý nghĩa ấy.

“Nhứt cú Di Đà vô biệt niệm” nghĩa là một câu Di Đà khi niệm không tán loạn, không có niệm khác xen vào. Được như vậy thì chỉ trong giây lát có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Đó là ý nghĩa của câu: “Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương.”

Có nhiều người bảo: Cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà xa xôi trong muôn vạn dặm làm sao chỉ trong một khoảnh khắc có thể sanh về đó được?

Việc sanh về thế giới Cực Lạc cũng giống như chúng ta nằm trong cơn mộng mà thôi. Nhiều đêm thân thể chúng ta ở Âu Châu, nhưng tâm ta phiêu bồng đi đến nhiều thế giới khác như Mỹ Châu, Á Châu, Úc Châu v.v... hay nhiều khi thần thức của chúng ta còn dạo chơi ở những cõi khác nữa. Khi thức dậy vẫn thấy còn ở Âu Châu, nhưng chỉ cần trong một cơn mơ mà ta đã đi qua mấy chục ngàn cây số thì Cực Lạc cũng vậy. Tuy xa nhưng rất gần, ngược lại tuy gần nhưng cũng rất xa.

Hỏi: Trong nghi thức Mông Sơn Thí Thực tụng vào buổi chiều tại mỗi chùa có câu: “Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ, tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn” là nghĩa như thế nào?

Đáp: Nếu đọc thêm đoạn trên nữa, chúng ta sẽ có một bài kệ như sau:

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ

Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn

Tự tánh pháp môn thệ nguyện học

Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành.”

Bốn câu trên là 4 lời đại nguyện của Ngài Phổ Hiền. Bốn câu dưới tương truyền là của Ngài Lục Tổ Huệ Năng. Tổ thứ 6 Thiền Tông của Trung Quốc.

Bốn câu trên có nghĩa tiếng Việt là:

“Chúng sanh không số lượng, thề nguyện đều độ khắp; phiền não không cùng tận, thề nguyện đều dứt sạch; Pháp môn không kể xiết, thề nguyện đều tu học; Phật đạo không gì hơn, thệ nguyện được viên thành.”

Bốn câu tiếp theo có nghĩa là: “Mỗi chúng sanh đều có tự tánh, thề nguyện đều độ khắp. Phiền não đều do tự tánh mà ra, thề nguyện đều dứt sạch, Pháp môn đều từ tự tánh mà có, thề nguyện đều tu học. Phật đạo đều có tự tánh, thề nguyện được viên thành.”

Trong Mông Sơn Thí Thực phần đầu diễn tả về cảnh giới của Hoa Nghiêm như câu: “Nhược nhơn dục liễu tri, tam thế nhứt thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhứt thiết duy tâm tạo.” Nghĩa là: “Nếu ai muốn biết rõ về tất cả 3 đời chư Phật, thì nên quán sát về tánh pháp giới là tất cả đều do tâm tạo.” Rồi sau đó là thần chú rút ra từ nghi thức Du Già chẩn tế cô hồn để tế độ cho các vong linh còn chìm đắm nơi cảnh khổ đau của địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Vì vậy các vị Bồ Tát và các vị Tổ Sư đều có tâm nguyện muốn cứu độ, giúp họ nương nhờ Phật lực mà được thác sanh về những thế giới an lành hơn.

Hỏi: Làm sao để một người có thể phát tâm xuất gia?

Đáp: Xuất gia là việc lớn, không đơn giản. Có nhiều người mong muốn nhưng cha mẹ hoặc vợ hay chồng lại không đồng thuận. Ngược lại có nhiều lúc gia đình mong muốn mà chính mình lại chưa phát khởi được thiện tâm. Vả chăng việc xuất gia là do nhân duyên và vì có căn rễ nhiều đời đã gieo trồng duyên lành với Phật pháp nên kiếp này sinh ra mới được xuất gia học đạo.

Khuyến khích một người đi xuất gia học đạo được công đức rất lớn, nhưng điều quan trọng là chính đương sự phải tự phát nguyện xuất gia thì con đường đi còn lại mới vững chắc được. Tôi vẫn hay ví việc xuất gia như một người nấu cơm, như câu chuyện sau đây:

Thông thường trong nhà có người giúp việc, lo cho mình miếng cơm, đồ uống. Một hôm nọ người giúp việc lỡ tay nấu cơm không chín, khi dọn cơm lên mình chê bai đủ điều. Rồi một hôm nọ người giúp việc bận công việc ở xa không thể nấu cơm cho mình được. Do vậy, tự tay mình phải nấu cơm. Vì không có kinh nghiệm, nên nấu cơm không chín, khi dọn lên ăn rất ngon. Vì chính tự tay mình nấu. Việc xuất gia cũng giống như người nấu cơm, như ví dụ vừa nêu trên. Tuy nhiên việc trợ duyên để một người xuất gia tu hạnh giải thoát là một công đức không nhỏ. Nhưng trước khi xuất gia nên phát tâm bồ-đề để được lợi lạc cho chính bản thân mình cũng như cho những người đi sau trong mai hậu.

Hỏi: Làm thế nào để dứt bỏ hết tham, sân, si, ngã mạn trong đời sống gia đình cũng như ngoài xã hội?

Đáp: Tham, sân và si là 3 căn bản phiền não làm cho con người mãi trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử. Đây không phải là một vấn đề đơn thuần, mà là một chủng tử đã huân tập từ nhiều đời nhiều kiếp, không phải đơn giản để dứt bỏ trong một đời. Nếu muốn dứt trừ tham sân si, phải hành trì giới định huệ cũng trong nhiều đời, nhiều kiếp mới mong trừ sạch được cội rễ này. Khi thực hành giới, định và huệ cần phải tinh tấn và chuyên cần, không thối thác đạo tâm trên con đường tu học thì mới có kết quả. Ngã mạn là một vấn đề khác không liên quan nhiều đến tham, sân, si, nó cũng là loại gốc rễ của tội lỗi thuộc về trạng thái của tâm linh. Nếu ai dứt bỏ được hết, tức vô minh đã trừ diệt, nên sự giác ngộ giải thoát có thể thực hiện trong đời này. Nếu ai không thể thực hiện trong một đời được, thì phải cần nhiều thời gian để gột rửa. Nhanh hay chậm là tùy thuộc vào mỗi cá nhân hành trì mà thôi. Muốn gia đình được êm đẹp, muốn xã hội được an vui thì mỗi cá nhân phải tự tu tĩnh thân tâm của mình, thì cuộc sống mới thanh thoát hơn.

Hỏi: Bổn phận của một người Phật tử tu học tại gia ngoài việc tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, lễ bái hằng ngày, có cần đòi hỏi thêm việc gì nữa không để sự tu tập ngày càng tinh tấn hơn?

Đáp: Tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, lễ Phật là 4 công năng sinh động của người cư sĩ tại gia cũng như xuất gia. Chính nhờ những việc tu học như thế mà cái đức được phát sanh. Cái đức này không do sự cầu xin mà có. Mà chính do từ sự tu học mà ra. Cái đức này sẽ phát sinh ra trí tuệ. Trí tuệ giống như một ngọn đèn. Nếu chúng ta đem ngọn đèn này chuyền ánh sáng qua ngọn đèn khác thì ánh sáng kia càng ngày càng được sáng tỏ hơn. Nếu lỡ tắt một hai ngọn, ánh sáng ấy vẫn không bị suy giảm.

Ngoài 4 công việc quan trọng trên, người Phật tử cũng cần phải hành trì bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Đây là con đường của Bồ Tát mà chúng sanh cũng cần phải thực hành. Bố thí tài vật sẽ sinh ra được phước hữu lậu, là đời này hay đời sau sẽ giàu có an vui. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng, cái phước giống như cây đèn cầy, cháy mãi rồi một ngày nào đó cây đèn kia cũng phải hết. Vì vậy, là Phật tử tại gia nên tu học cả hai phương diện về tu phước cũng như tu huệ, nên gọi là phước huệ song tu.

Hỏi: Trong Tịnh Độ Tông, pháp môn niệm Phật là một pháp môn cho tất cả Phật tử xuất gia cũng như tại gia. Muốn đạt đến chỗ “nhất tâm niệm Phật” tràng hạt có phải là một phương tiện cho sự định tâm không? Tại sao phải lần chuỗi? Tràng hạt có từ thời nào?

Đáp: Niệm có nghĩa là nhớ nghĩ hay tập trung tư tưởng. Ban đầu hành giả phải cần đến phương tiện như tràng hạt, tượng Phật v.v... để làm chuẩn cho việc niệm Phật cũng như quán tưởng đến Đức Phật, nhưng khi đã thuần thục rồi - nghĩa là khi sự niệm Phật đã nhập tâm rồi thì những phương tiện ấy không cần đến nữa. Sự lần chuỗi giúp cho chúng ta phương tiện để định tâm, tuyệt nhiên không phải là mục đích của sự nhứt tâm.

Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã dạy về pháp môn niệm Phật như quán tượng, quán tưởng, trì danh niệm Phật v.v... Thuở bấy giờ có lẽ không dùng đến tràng hạt, nhưng khi Phật giáo Đại Thừa được phát triển từ Ấn Độ sang Trung Hoa do các Ngài Long Thọ, Mã Minh, rồi các vị Tổ Sư tại Trung Hoa đã vì phương tiện mà chế ra tràng hạt để việc trì danh niệm Phật được dễ dàng hơn chăng? Nhờ có tràng hạt mà người niệm Phật có thể biết được số lượng cũng như thời gian trong khi hành trì.

Hỏi: Cõi Tây Phương có người nữ không?

Đáp: Cõi Tây Phương Cực Lạc do Đức Phật A Di Đà làm Giáo chủ được gọi là cõi “phàm thánh đồng cư Tịnh Độ”. Có nghĩa là cả người phàm trước khi lâm chung nếu nhứt tâm niệm Phật, cũng có thể vãng sanh về nước Cực Lạc, đã là phàm thì chắc chắn cũng có người nữ, nhưng khi đã về được Cực Lạc rồi thì thân nữ sẽ hóa thành thân nam. Bởi lẽ trong kinh A Di Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng như trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, Ngài điều khẳng định rằng trong cõi nước của Ngài không có đàn bà và không có 3 đường dữ như địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh v.v...

Từ cõi tiên trở xuống cõi người, thân người nữ vẫn còn hiện hữu, vì trong cõi dục và cõi sắc cần có sự hiện hữu của nữ giới, nhưng khi lên đến cõi vô sắc và cõi của chư vị Bồ Tát và chư Phật thì các thức tự biến hóa, nên thân người nữ không cần thiết trong việc sinh sản nữa, nên tất cả tư tưởng và hình tướng đều thể hiện hình nam nhơn, nằm trong ý nghĩa này.

Giữa nữ và nam không sai biệt nhau về tánh Phật mà chỉ sai biệt nhau về hình thức. Vì thế, khi đã thành Phật hay về cõi giải thoát rồi thì không có chú ý về hình tướng nữa mà chỉ quan trọng nơi tâm thức thôi.

Hỏi: Tịnh Độ Tông là gì? Cách tu và hệ phái này khác với Thiền Tông, Mật Tông ra sao?

Đáp: Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã dạy vô lượng pháp môn cho chúng sanh thuở bấy giờ. Mục đích để chỉ bày và dẫn dắt mọi người bỏ bờ mê trở về bến giác. Đây là bản hoài chính của đức Phật. Thuở Ngài còn tại thế, tùy theo từng hoàn cảnh, trình độ của người nghe khác nhau mà Ngài phương tiện để nói pháp. Cho đến sau khi Ngài nhập diệt 100 năm, tinh thần tông phái vẫn chưa có gì rõ ràng. Nếu có, thuở bấy giờ cũng chỉ chia ra làm hai nhóm. Một nhóm bảo thủ, muốn giữ giới luật như thời Phật còn tại thế. Nhóm này gọi là Hinayana hay Tiểu Thừa Giáo và một nhóm khác đông người hơn bảo rằng phải thay đổi trong cách ăn uống để phù hợp với thời gian và phái này duy trì thay đổi mãi cho đến thế kỷ thứ nhất về phần tư tưởng cũng như triết học, nên Đại Thừa Giáo đã được hình thành.

Khi đạo Phật được truyền sang Trung Hoa vào đầu Công nguyên thì tại Trung Hoa cũng chưa hình thành các hệ phái rõ rệt. Mãi đến đời Đường thuộc thế kỷ 7 - 8, là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Trung Hoa nên các vị chuyên về Thiền muốn thành lập một Tông riêng, Tịnh Độ một tông riêng, Mật Tông một tông riêng, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Luật Tông v.v... Có tất cả 10 Tông chuyên môn hành trì các pháp môn khác nhau của Đức Phật đã dạy.

Tịnh Độ Tông do Ngài Huệ Viễn lập tông, đã khai sáng ra nền đạo này. Tông này lấy pháp môn niệm Phật làm nền tảng của việc tu học và phương pháp để được nhập môn là lấy tín, nguyện và hạnh làm pháp môn thực hành, mục đích là cầu vào tha lực của Đức Phật A Di Đà để khi lâm chung được tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

Thiền Tông do Ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ mang sang Trung Hoa vào đời nhà Lương vào thế kỷ 6 và Tông này phát triển mạnh tại Trung Quốc cũng như các nước khác trên thế giới mãi cho đến ngày nay. Tông này lấy tâm làm chủ. Khi nào tham thiền ngộ được chơn tánh, lúc ấy sẽ thành Phật. Tông này nương vào tự lực của mình để được giải thoát. Hình thức của tha lực rất ít thấy nơi Tông này.

Mật Tông lấy sự trì chú làm căn bản trong khi tu hành. Ngài Đại Nhật Như Lai là Giáo chủ của Tông này. Ngoài ra Ngài Tì Lô Giá Na Phật cũng được Tông này thờ phượng và lễ bái. Cả thân mật, khẩu mật và ý mật được đồng nhứt thể, thì Như Lai tánh sẽ hiển bày.

So ra 3 Tông phái này mỗi Tông đều có một cách hành trì khác nhau, nhưng tựu trung tất cả cũng đều đưa chúng sanh về cảnh giới giải thoát của sanh tử luân hồi và của khổ đau tục lụy.

Hỏi: Làm thế nào để áp dụng Đạo Phật vào trong cuộc sống hằng ngày của một Phật tử tại gia, mặc dầu sự phát tâm bồ-đề vẫn có, nhưng những ràng buộc trong cuộc sống gia đình vợ chồng, con cái và trong xã hội với công ăn việc làm, liệu có thể thành Phật được không?

Đáp: Đức Phật dạy rằng tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Với tánh Phật này chúng ta sẽ thành Phật. Bất luận là nam hay nữ, không có sự phân chia trong trường hợp này. Tuy nhiên nhanh hay chậm là tùy theo mỗi người tinh tấn đến đâu. Con đường sanh tử rất dài, mà con đường giác ngộ cũng không ngắn. Cũng có lắm người tu chỉ trong một kiếp rồi ngộ trong một thời gian ngắn, không cần ở kiếp thứ hai, nhưng cũng có lắm người cần đến kiếp thứ 500 hay cho đến 1.000 kiếp mới thành Phật được. Cõi Ta Bà này chỉ là cõi tạm. Mọi người đều vì sự sống mà có sự va chạm với nhau, chiến tranh giết chóc, hận thù nên tâm từ bị giảm, mà tham, sân, si, ái dục càng tăng, do đó rất khó thành Phật trong kiếp này, nếu chúng ta không dụng tâm chín chắn.

Hỏi: Hiện nay kinh sách và kinh tụng có rất nhiều danh từ Hán-Việt, nên rất khó hiểu cho số đông Phật tử, nhất là giới thanh niên, đọc thấy không thấu triệt. Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Hải Ngoại có dự định Việt hóa các kinh sách ấy không?

Đáp: Tất cả những sách viết về Phật giáo bằng tiếng Việt hầu như đã viết rất thoát nghĩa. Đôi khi vẫn còn một ít danh từ Hán-Việt. Vì lý do dễ hiểu là trong hơn 1.000 năm Việt Nam đã lệ thuộc phương Bắc nên đa số các danh từ Hán-Việt này cũng hay dùng đến, mãi cho đến gần 1.000 năm sau, người Việt vẫn không thể không dùng các chữ Hán trong văn chương, ngôn ngữ, học thuật, triết học được. Vì vậy ai muốn nghiên cứu sâu về Đạo Phật ắt phải tra cứu nhiều hơn, lâu ngày sẽ thuần thục.

Riêng phần kinh tụng còn rất nhiều bài kinh bằng chữ Hán hoặc phiên âm chữ Phạn. Tuy nhiên cũng có một số bài đã được dịch thoát ra tiếng Việt như Bát Nhã, Khể Thủ, Quy Mạng, nhưng khi tụng âm tiếng Việt, ý nghĩa nghe không thâm trầm bằng âm chữ Hán, nên một số chùa ở ngoại quốc cũng như trong nước vẫn còn dùng các bản kinh chữ xưa lẫn nay. Đây có thể gọi là thời gian chuyển tiếp, trong tương lai thế hệ trẻ có thể sử dụng chỉ một bản kinh tiếng Việt cũng đầy đủ rồi.

Ngôn ngữ là nếp sống cao của cuộc sống tâm linh. Vì vậy nếu ngôn ngữ càng phong phú chứng tỏ rằng cuộc sống tâm linh rất đa dạng. Vì vậy những nhà học Phật cần tra cứu nhiều hơn thì nghĩa lý mới sáng tỏ hơn.

Hỏi: Làm cách nào để dẹp được tâm sân hận khi có người làm cho mình giận?

Đáp: Sở dĩ mình giận người đối diện, vì mình chấp vào lời nói của người ấy. Điều thứ hai không kém phần quan trọng hơn là mình nghĩ mình bị xúc phạm, chạm đến tự ái. Khi nào mình xem lời nói của đối phương là điều không có thật, nó chỉ là một sự giả danh mà có. Khi nào mình tự dẹp bỏ được sự chấp trước nơi tâm thức của mình, thì lúc ấy tham sân si của mình sẽ khó mà hiện diện nơi tâm thức của mình. Sau đây là một câu chuyện đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế. Xin kể lại để chúng ta rút kinh nghiệm từ cái nhìn siêu việt của Đức Phật.

Chuyện kể rằng: Có một người đàn bà ngoại đạo, không muốn đạo của Đức Phật càng ngày càng được dân chúng tin theo, nên bà ta theo một mật lệnh nào đó, ngày đêm đến trước vị Giáo chủ của Đạo Phật là Đức Thích Ca để tìm cách chửi mắng Ngài. Ngày đầu tiên bà ta chửi mỏi miệng rồi nghỉ, đến ngày thứ 2 bà ta cũng bắt đầu bằng sự chửi rủa bâng quơ và đến ngày thứ 3, bà vẫn chửi như trước, nhưng sức đã kiệt, mà Đức Phật, một bậc đại giác ngộ vẫn không nói một lời nào. Đoạn bà đến trước Đức Phật gần hơn để hỏi Ngài rằng:

- Tôi hỏi ông là người hay sỏi đá?

- Ta là người, nhưng khác với mọi người.

Đức Phật trả lời như thế.

- Vậy ông có nghe những lời của tôi chửi mắng ông trong 3 ngày nay không?

- Ta có nghe, nhưng điều ấy không thuộc về ta.

Đức Phật từ tốn trả lời. Sau đó Đức Phật hỏi lại bà ta rằng:

- Ví dụ như nhà bà có đám giỗ, sau đó đem một số mâm cỗ nào cơm, canh, rau, thịt đến biếu người hàng xóm. Nhưng người hàng xóm không nhận món cỗ biếu kia, vậy mâm cỗ ấy sẽ thuộc về ai?

- Thì tất nhiên nó vẫn thuộc tôi.

Người đàn bà trả lời thế.

- Cũng như vậy đó! Những gì nhà ngươi đã mang đến trong 3 ngày qua, nhưng ta không nhận, vậy xin trả lại cho ngươi.

Người đàn bà há hốc mồm trước một bậc siêu phàm như thế.

Đúng là một câu chuyện mà trên thế gian này có một không hai. Vì thông thường chúng ta hay ăn miếng trả miếng, không bao giờ nhường nhịn lẫn nhau. Vì vậy nên mới có sân hận triền miên và chiến tranh loạn lạc. Còn những bậc Đại Giác Ngộ thì khác xa những người tầm thường của nhân thế.

Hỏi: Theo quan điểm của Phật giáo, con người có nguồn gốc từ đâu? Và theo thuyết tiến hóa của Darwin trái với quan điểm của Phật giáo như thế nào?

Đáp: Đạo Phật quan niệm rằng mỗi chúng sanh sanh ra trong thế giới này do nhân duyên và nghiệp lực, rồi chính do nhân duyên và nghiệp lực xoay chuyển mà tồn tại rồi mất đi. Con người có mặt trên quả địa cầu này từ vô thỉ. Ngày nay khoa học vẫn chưa xác định chính xác là loài người xuất hiện vào mấy trăm triệu năm về trước và vẫn chưa có kết luận cuối cùng. Dần dà thuyết của Đạo Phật lại tương ứng với khoa học nhiều hơn.

Thuyết 12 nhân duyên của Đạo Phật đã nói lên rõ ràng về nguồn gốc của vũ trụ và nguồn gốc của con người. Darwin nghĩ rằng loài người là động vật từ khỉ tiến hóa thành, nhưng ở đây và bây giờ nhiều nhà khoa học đã khám phá ra rằng khỉ thông minh hơn những loài động vật khác và gần với loài người nhất, nhưng thuyết của Darwin vẫn chưa hẳn là đúng, vì ngày nay không tìm thấy chú khỉ nào thành người. Nếu sự tiến hóa đã xảy ra trong quá khứ, thì lẽ ra nó vẫn tiếp tục trong hiện tại. Đạo Phật chủ trương mọi hiện tượng đều do nghiệp mà có, còn Darwin chủ trương rằng một sự vật mới hình thành từ sự vật có sẵn. Điều này không hoàn toàn phù hợp với giáo lý Đạo Phật.

Hỏi: Nhân loại tiến bộ do lý trí. Nhưng vì sai lầm nên nay đã hủy hoại thiên nhiên. Vậy làm sao để dùng lý trí một cách xác thực hơn?

Đáp: Trong chúng sanh có 2 phần. Một phần thuộc về tâm thức (lý trí) và một thuộc về thể xác (vật chất). Hai vấn đề này bổ sung và cộng hưởng với nhau. Cái này sẽ không tồn tại được, nếu không có cái kia. Con người thường hay ỷ vào lý trí của mình nên mới đi sát hại động vật, hủy hoại thiên nhiên và muốn cho thiên nhiên cung phụng cho loài người đủ mọi tiện nghi vật chất. Nhưng họ không ngờ rằng, chính vì sự sát hại thiên nhiên đó, như phá rừng, thử bom nguyên tử, giết hại các súc vật, cây cỏ v.v... đã làm cho môi sinh trở nên ô nhiễm. Chính loài người đã bị sự ô nhiễm này làm cho bệnh tật khó chữa trị. Vậy điều căn bản là loài người hãy biết dừng lại nơi nào để được bảo vệ cho cả hai. Đó chính là sự thể hiện của lý trí. Nếu không biết tự dừng lại thì chính loài người cũng không còn tồn tại lâu dài hơn trên quả đất này nữa, mà thiên nhiên cũng không thể bảo vệ con người, khi con người quá tàn nhẫn với thiên nhiên.

Hỏi: Đạo Phật có nói về nhân quả và nhân duyên. Hai chữ nhân đó có phải là một chữ và một nghĩa không? Liên hệ giữa 2 thuyết đó như thế nào?

Đáp: Nhân ở đây có nghĩa là nguyên nhân, quả có nghĩa là kết quả, duyên có nghĩa là tùy thuộc vào. Hai chữ nhân này nếu viết bằng chữ Hán đều là 因, có ý nghĩa giống nhau. Nhưng thế nào là nhân duyên (因緣) và thế nào là nhân quả (因果)? Ví dụ một người đem hạt bầu để gieo và sau 4 tháng thì hái trái. Đó là nhân quả, với cái nhân đem ương hạt bầu và qua thời gian ngắn 4 tháng lại gặt được quả bầu, nhưng cái duyên để có được trái bầu là nhờ vào phân, nước, thời tiết và công lao chăm sóc của người trồng. Những duyên này rất quan trọng. Nhiều khi cái nhân tốt, nhưng thiếu trợ duyên thì quả sẽ sinh ra trái xấu. Hai thuyết này liên quan rất chặt chẽ như hình với bóng. Nếu hình ngay thì bóng thẳng, hình vẹo thì bóng cong. Đơn giản thế thôi. Nhưng rất quan trọng. Cũng có nhiều nhân gây ra trong đời này nhưng mãi đến nhiều đời sau mới gặt, hoặc giả cũng có nhiều loại quả phải chờ đến nhiều kiếp sau mới sinh trưởng vì lệ thuộc bởi duyên và nghiệp mà mỗi loại nhân đã gây ra. Tựu chung, nếu nhân tốt và duyên tốt thì sẽ sinh ra quả lành. Nếu một trong ba yếu tố ấy không bổ sung cho nhau thì kết quả sẽ sinh ra khác.

Hỏi: Nhân duyên chuyển biến sinh ra mọi vật. Vậy có đúng là bản thể của nhân duyên là biến chuyển không? Và sự biến chuyển đó rất là vô tận, rộng lớn? Nếu cái biến chuyển đó phức tạp như thế, làm sao chúng ta có thể định trước được (Tây Phương có phép tính xác xuất). Làm sao chúng ta ảnh hưởng và thay đổi được nhân duyên để hướng về cái tốt đẹp hơn?

Đáp: Nếu nói bản thể của nhân duyên là sự biến chuyển cũng không hoàn toàn đúng. Ví dụ muốn có trái mít phải trồng hạt mít, mà ở sự tác ý đem trồng hạt mít, cái nhân duyên này nằm nơi A Lợi Da Thức của con người. Đó là tâm vương. Tâm là chủ của tất cả vạn pháp và pháp sẽ biến hóa vô cùng. Lối tính xác xuất là lối tính hữu hình, đem cái hữu hình để đo lường cái vô hình là điều khó thực hiện. Một ví dụ khác có thể hiểu được điều này như sau: Một hôm nọ có một người bạn đến rủ mình đi chơi, nhưng vì đã định đi Chùa trước, nên trả lời rằng: Hôm nay tôi không đi chơi với anh được. Vì tôi sẽ đi Chùa. Vậy thì cái gì làm cho mình không đi chơi và cái gì làm cho mình đi Chùa? Tất cả đều do tâm làm chủ và tâm sai khiến. Nếu chuyển tâm được thì cảnh sẽ chuyển được. Thông thường vì thiếu trí tuệ (chứ không phải thiếu thông minh) nên chúng ta để cảnh chuyển tâm, nên mới có kết quả trái ngược. Nếu tâm chuyển được cảnh thì đó là một xác xuất rất cần thiết và đứng đắn nhất để hướng về cái tốt đẹp hơn. Tất cả đều do mình làm chủ và do mình chịu trách nhiệm với việc làm của mình. Nhân duyên chỉ là một việc lệ thuộc bởi tâm, nếu tâm vững vàng thì nhân duyên sẽ thay đổi theo tâm và phải nương vào tâm để tồn tại và phát triển. Ác hay thiện, tà hay chánh, chơn hay ngụy, tốt hay xấu v.v... tất cả cũng đều do tâm mình tạo tác mà thành. Nên trong kinh Hoa Nghiêm có câu: “Tất cả đều do tâm tạo” cũng từ ý nghĩa này.

Hỏi: Ai cũng có tâm Phật và có cơ hội thành Phật. Ở trong đời mạt pháp này đã có ai chứng thành Phật quả chưa?

Đáp: Đức Phật dạy rằng: Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Vì vậy, ai cũng có thể thành Phật. Thời gian lâu hay mau lệ thuộc nơi sự hành trì của chúng sanh đó. Thời chánh pháp vì có Phật ra đời nên đã có nhiều người chứng quả A La Hán, hoặc Bồ Tát, nhưng thời mạt pháp cũng không phải là không có, chỉ ít hơn thời chánh pháp và tượng pháp thôi. Ví dụ Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng chẳng hạn. Ngài là hóa thân của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, chứng đạo ngay trong cuộc sống này và còn nhiều vị hiển thánh khác nữa, nhưng những vị này ít xuất hiện, nên chúng ta không thấy, chứ không phải là không có.

Ở Việt Nam có Hòa Thượng Quảng Đức, sau khi thiêu xác, quả tim vẫn còn, mặc dầu lửa đốt đến 4.000 độ tim vẫn không cháy. Đó không phải sự chứng đạo là gì? Hoặc giả hai vị Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường sau khi chết, nhục thân vẫn còn nguyên vẹn. Đã hơn 100 năm trôi qua, nhưng tư thế ngồi kiết già để thị tịch, quả là có một không hai trong thời kỳ mạt pháp này.

Nhân duyên là một yếu tố không kém phần quan trọng trong khi tu hành. Vì vậy cầu nguyện cho chướng duyên đừng đến trong khi phát tâm cầu đạo không phải là điều không cần thiết.

Hỏi: Khi hành giả niệm Phật, tọa thiền cần dụng công như thế nào cho đúng?

Đáp: Khi niệm Phật, miệng niệm danh hiệu Phật, tâm luôn nhớ nghĩ đến Phật, cố gắng đừng cho gián đoạn, niệm thành tiếng hay niệm thầm cũng được, nhưng điều cốt yếu là phải rõ ràng, thành tâm và tự chủ. Pháp môn niệm Phật rất cần thiết cho người sống cũng như kẻ chết. Vì thế chư Bồ Tát và chư Thánh Tăng rất nhiều vị phát nguyện vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Tọa thiền cũng cần có chánh niệm. Muốn chánh niệm được liên tục cần quán sát hơi thở cho đến khi thuần thục. Không nên cho gián đoạn sự suy niệm về hơi thở, về vô thường, khổ, không và vô ngã. Tất cả những phép quán này sẽ làm trợ duyên cho việc hành đạo. Thế ngồi phải ngay thẳng. Khi nào tâm tán loạn thì hãy buông xả, không nên cố gắng quá sức, đầu óc sẽ bấn loạn và tâm mình không thanh tịnh thì không thể điều hòa thân cũng như tâm. Trong trạng thái như vậy nên nghỉ ngơi vẫn hơn.

Hỏi: Trong khi dụng công có phải nên “gặp Phật diệt Phật, gặp ma diệt ma” không?

Đáp: Ở giai đoạn đầu thường thấy những hôn trầm và tán loạn. Đây có thể gọi là ma chướng. Chúng ta nên loại trừ chúng ra khỏi tâm mình. Đây gọi là ma phiền não. Khi ngồi thiền được thuần thục, các cảnh giới khác hiện ra nơi tâm mình, cũng không nên chấp trước vào đó. Vì tất cả những cảnh này đều giả danh chứ không phải là thực tướng, nhưng vì thức chấp ngã cho rằng có thật, nên hành giả hay bị lầm là vậy. Vì thế, nói gặp Phật diệt Phật là vậy. Mà dẫu cho có gặp Phật trong khi ngồi thiền cũng nên buông xả đi. Vì lẽ ta chưa chứng đạo, nên những cảnh ấy không do trí tuệ mà có, chỉ do sự mơ ước được gặp Phật, nên có Phật mà thôi.

Hỏi: Khi trì chú có cần điều kiện gì không?

Đáp: Trì chú cũng là một công năng tu tập giúp hành giả định tâm được dễ dàng. Mặc dầu những thần chú, ý nghĩa chúng ta không hiểu biết, nhưng mỗi một vị Phật, một vị Bồ Tát có một mật hạnh khác nhau. Khi hành mật hạnh tức đã dung thông ba cõi, trong mật chú ấy đã đầy đủ sức gia trì. Công đức thật không nhỏ.

Khi trì chú tụng kinh thì nên ăn chay, việc trì chú tụng kinh mới hiệu nghiệm hơn, như trong kinh Địa Tạng đã dạy. Ngày thường không phải là rằm hay mồng một cũng có thể trì chú tụng kinh được, tuy nhiên phước báu không bằng những ngày ăn chay, cữ ngũ vị tân và không ăn thịt của chúng sanh.

Hỏi: Sự khác biệt giữa trí tuệ và trí huệ cũng như trí huệ bát nhã như thế nào? Xin cho thí dụ.

Đáp: Nếu viết chữ Hán thì chữ trí tuệ và trí huệ đều giống nhau (智慧) nên ý nghĩa không có gì khác nhau cả, chỉ là hai cách đọc khác nhau nên có nhiều người tưởng rằng khác nghĩa, chứ thật ra không khác. Chữ trí tuệ bát-nhã ghép chung như vậy không đúng. Chữ bát-nhã dịch âm từ tiếng Phạn prajñā có nghĩa là trí tuệ. Có thể nói prajñā hoặc trí tuệ, mỗi từ trong hai từ này đều đã đủ nghĩa, không cần dùng chung vì như thế là thừa.

Muốn tu chứng trí tuệ phải giữ giới và thiền định. Có giữ giới thì tâm mới an tịnh và có thiền định thì tâm mới lắng sâu xuống để gạn lọc những phiền não của cuộc đời. Người có trí tuệ không phải là người thông minh, mà là người biết được nguồn gốc của sự khổ đau và phương pháp diệt khổ để đi đến sự an lạc tự tại. Nếu ai biết nhận chân ra giá trị đó, tức người có trí tuệ.

Hỏi: Sự khác biệt giữa tâm đối với thân theo nghĩa trong kinh và tánh đối với tướng như thế nào?

Đáp: Tâm tượng trưng cho tinh thần không có hình tướng, thân tượng trưng cho vật chất, sắc trần, có hình tướng, trông thấy và sờ mó được. Tánh là chiều sâu thẳm của tâm, là căn nguyên của thiện và ác. Tướng là mặt nổi của tâm, những gì tánh móng động thì tâm sẽ sanh khởi. Ví dụ như phiền não chẳng hạn. Những gì thể hiện nơi hành động vui, buồn, giận hờn, thương ghét v.v... tất cả đều bắt nguồn từ tánh rồi chuyển qua tâm để nổi lên bên trên, do đó ta có thể cảm nhận được những sự thể ấy.

Tâm và thân, tánh và tướng nương nhau mà tồn tại như hình với bóng. Nếu cái này thay đổi thì cái kia cũng bị ảnh hưởng, và ngược lại cũng thế, cả ảnh hưởng xấu lẫn ảnh hưởng tốt. Sự luân hồi sanh tử từ đây mà phát sanh rồi chuyển qua nghiệp để đi đầu thai trong vạn nẻo đường trần.

Hỏi: Phát tâm thành Phật đạo và nguyện độ chúng sanh là hai hay là một thực thể?

Đáp: Sự phát tâm để thành Phật là căn bản của sự tu hành, nhưng nguyện trở về cõi Ta Bà để độ sanh hay không là do tâm nguyện của Bồ Tát hạnh. Nếu là A La Hán thì các vị này chỉ muốn chứng nhập Vô Dư Niết Bàn rồi ở mãi trong cảnh tịch diệt ấy, chứ không rời bỏ chánh niệm. Chỉ những vị Bồ Tát, nếu có phát nguyện độ sanh, chính quý vị này sẽ tái sinh trở lại để cứu khổ muôn loài. Điều này không bắt buộc. Tùy theo hạnh nguyện của mỗi người mà thành.

Hỏi: Phát tâm và nguyện để thành Phật và “tu bất cầu đắc”, hai câu này có trái nghĩa hay không?

Đáp: Khi còn đau khổ thì con người muốn giải thoát khỏi sự phiền não. Nhưng khi đã được giải thoát rồi thì cầu chứng đắc cũng bằng thừa, nên câu này có nghĩa là khuyên nhắc chúng ta phải mau đổi hướng để lên bờ giải thoát vậy. Nếu chưa giải thoát thì chắc chắn vòng luân hồi vẫn còn kiểm soát tâm thức của mình. Đúng ra tu thì không cầu chứng. Đây cũng là tinh thần của Kim Cang và Bát Nhã. Vì đã dụng công ắt có ngày sẽ thành công. Quả vị ấy tự nhiên đến chứ không cần cầu. Nhưng sự cầu ở đây có nghĩa là cầu giải thoát, chứ không phải cầu lợi lạc về phương diện vật chất riêng tư cho mình thì không có lỗi lầm gì cả.

Hỏi:

Dưỡng tâm như dại là tuyệt xảo

Học tới như ngu mới diệu kỳ.

Đây có phải là tính không của tâm linh không?

Đáp: Đây là hai câu đối để định nghĩa về sự dại và ngu trong cuộc đời. Chữ dại ở câu trên không có nghĩa là dại khờ, mà dại ở đây có nghĩa là hoàn hảo và chữ ngu ở câu dưới cũng không phải là người không có trí, mà chữ ngu này có nghĩa là không còn biết gì nữa, gần giống như chữ vô học nơi ý nghĩa của A La Hán vậy.

Đức Phật cũng thường hay dạy rằng: Người trí vì tự cho mình là trí, kẻ ấy là ngu. Người ngu biết mình ngu thì kẻ ấy mới thật là trí.

Hai câu trên nói về sự đối đãi của tâm và sự học hỏi trong cuộc sống, chứ chưa thoát ra khỏi sự chấp có và chấp không, nên chưa thể hiện trọn vẹn tinh thần không của Bát Nhã. Không của Bát Nhã là không nương vào hình tướng cũng như âm thanh và màu sắc để có được tất cả những diệu dụng của chơn tâm.

Hỏi: Hai nhóm từ “phản quan tự kỷ” và “trở về chân tâm” có khác nghĩa nhau không? Nếu khác thì khác ở điểm nào?

Đáp: Nếu giải thích từng chữ một theo nghĩa tiếng Việt thì như sau: Chữ phản có nghĩa là trở lại, quan là xem, thấy, nhìn, tự kỷ là chính mình. Câu này dịch chung có nghĩa là là “quay nhìn lại chính mình”. Còn câu trở về chân tâm cũng có nghĩa là trở về với chính mình vậy. Con đường đến Đạo Phật là con đường trở về với chính mình. Nếu mình không làm chủ được mình thì sự tu học chưa dụng công đầy đủ. Nếu chỉ đi tìm cầu phía bên ngoài và nội tâm không lo kiểm soát bởi chính mình thì sự tu học ấy thiếu đi chiều sâu và sẽ không đạt đến kết quả.

Hỏi: Chúa Giê-Su có nói với con chiên của Ngài rằng: “Các con hãy yêu thương Chúa và người khác như chính yêu thương mình vậy.” Từ “yêu thương” của Chúa Giê-Su nói có khác với từ “từ bi” của Đạo Phật không? Nếu khác thì khác ở điểm nào?

Đáp: Đạo Chúa có chữ “bác ái”. Đạo Phật có chữ “từ bi”. Chữ “bác” có nghĩa là rộng khắp, “ái” có nghĩa là yêu thương. Chữ “từ” có nghĩa là lòng nhân của con người, “bi” có nghĩa là vì tình thương mà cứu giúp. So ra hai chữ vẫn có sự khác biệt. Tuy nhiên việc hành trì lệ thuộc vào mỗi động tác của công việc thì đúng hơn. Ví dụ Chúa vì chuộc tội cho nhân sinh nên chịu đóng đinh. Phật vì cứu khổ cho chúng sanh, nên đã xả bỏ tất cả những gì riêng tư của chính mình để đi tìm đường cứu khổ.

Tất cả mọi danh từ đều có tính cách đối đãi với nhau. Điều quan trọng nơi đây là hành động thể hiện việc làm ấy, chứ không phải hình thức rao nói việc làm.

Hỏi: Trong Đạo Phật tại sao rất nghiêm khắc đối với những người không giữ đúng giới luật? Nhưng trong pháp môn niệm Phật thì cho rằng dầu tốt hay xấu, khi lâm chung nếu nhứt tâm niệm sẽ được Đức Phật trợ niệm vãng sanh. Sự khác biệt giữa hai việc này ra sao?

Đáp: Giới được dịch là biệt giải thoát, là hàng rào ngăn cản tội lỗi. Nếu ai giữ trọn các giới cấm thì tư cách của người đó trang nghiêm thanh tịnh, sẽ được lợi lạc cả tâm linh lẫn hình tướng. Nhưng nếu giữ không tròn, tự người đó chịu lỗi, chứ người khác không chịu thay cho mình. Vì vậy sự sám hối cần phải thể hiện nhiều hơn khi có lỗi, chứ không phải bị trừng phạt bởi một ai cả, ngoại trừ chính mình.

Đức Phật A Di Đà là tha lực. Ngài sẽ dìu chúng ta vào cõi bất sanh, bất diệt. Nhưng khi vào đó rồi thì phải tự tu thì hòn đá nghiệp kia mới tan đi từ từ cũng giống như tội lỗi của mình phải tự sám hối vậy. Tuyệt nhiên Đức Phật A Di Đà sẽ không làm cho mình hết tội, ngoại trừ chính mình phải tự tu. Chỉ một điều duy nhất được lợi lạc là, khi sanh về thế giới Cực Lạc không còn bị tái sanh trong vòng luân hồi sanh tử nữa. Điều ấy đã minh xác được qua lời nguyện của chư Phật để chúng ta vững lòng mà tu tiếp vậy.

Hỏi: Một người thường đi Chùa, lạy Phật, ăn chay, làm công quả Chùa, ai nhìn vào cũng nói người đó là một Phật tử thuần thành. Nhưng khi học giáo lý thì không tham dự, không đọc kinh sách, không nghe băng giảng. Khi xúc sự ồn náo thô tháo, chấp chặt. Xin định nghĩa rõ, thế nào là một Phật tử thuần thành, đúng nghĩa. Thân, miệng, ý cần hợp nhất hay không?

Đáp: Mỗi chúng sanh đi vào đời này bằng một loại nghiệp khác nhau. Lành, dữ, thiện, ác đều có sai khác. Vì do chúng sanh đã tạo ra trong nhiều đời nhiều kiếp, trong hiện tại chỉ là kết quả của những gì đã tạo ra trong quá khứ, nên quả của chúng sanh trong kiếp này cũng không đồng nhau. Vì thế Đức Phật có chế ra 5 giới cho người tại gia. Nếu ai giữ tròn 5 giới thì đời này và đời sau luôn luôn được mọi người kính trọng, thân trang nghiêm, tướng lưỡi rộng dài, hay nói ra những lời chân thật và được mọi người tin cẩn. Nếu ai không giữ tròn được 5 giới, đương nhiên có chỗ khiếm khuyết, do đó không được sự hộ trì của chư thiên, hộ pháp và ngay cả loài người. Một người có quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới được gọi là một người Phật tử chân chính. Điều này khác với một Phật tử thuần thành. Người này cũng có thể đã quy y mà cũng có thể chưa quy y. Người này hay đi Chùa làm phước, làm công quả v.v... biết rõ giáo lý căn bản của Đạo Phật.

Có những người chỉ ham tu phước như cúng dường xây chùa, hộ trì Tăng Ni tu học v.v... nhưng ít tham gia những buổi thuyết pháp hoặc nghe kinh giảng, vì điều kiện gia đình của họ không đủ thì giờ chẳng hạn. Vì vậy cũng không nên trách họ, vì họ chưa có điều kiện đó thôi. Nếu chỉ tu phước thì đời sau sẽ hưởng được phước còn huệ thì không. Vì vậy chư Tổ vẫn thường hay khuyên là nên có đầy đủ phước huệ song tu là vậy.

Cũng có người chỉ tu huệ, ngược lại khi nhờ làm phước việc gì đó thì không làm mà còn chê bai, coi thường v.v... cả hai thái độ ấy đều không phải là một người Phật tử thuần thành. Vậy là Phật tử cần nên giữ thân khẩu ý cho thanh tịnh, học hỏi kinh luật luận, để khi hữu sự xảy đến, nên áp dụng đúng theo lời Phật dạy thì công đức của người ấy không nhỏ. Chúng ta cũng không nên thấy người khác làm hoặc không làm mà sinh thối tâm. Việc này lệ thuộc nơi mỗi cá nhân và chính mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm việc của mình làm và không ai chịu thay cho ai được cả.

Hỏi: Trong kinh Phật dạy: “Ba nghiệp hằng thanh tịnh”. Tức ba nghiệp thân khẩu và ý. Nhưng thanh tịnh như thế nào? Xin giải cho biết về sự thanh tịnh của từng nghiệp.

Đáp: Chúng sanh sanh ra trong đời mạt pháp này phước mỏng mà nghiệp dày, tội nhiều mà phước ít, chướng nhiều mà huệ mỏng. Vì thế, tu hành trong thời mạt pháp này để gạn lọc thân tâm không phải là điều đơn thuần. Nhưng cũng không phải là không có người làm được.

Chữ thanh tịnh ở đây có nghĩa là gạn lọc. Cũng giống như gạn đục khơi trong vậy. Thân, khẩu, ý chúng ta cũng giống như một ly nước vậy. Làm cho ly nước đục thì dễ, nhưng làm cho ly nước trong phải cần dụng công thật tinh vi. Nhưng nước trong cũng không có nghĩa là không còn bụi bặm nữa. Bụi nằm ngay dưới đáy ly, hay ở tận cùng nơi tâm thức, chờ ngày tâm mình chao đảo thì bụi kia lại nổi lên lại. Do đó, muốn sự thanh tịnh được dài lâu vĩnh cửu thì phải dụng công bằng 4 phương pháp: tụng kinh, trì chú, tọa thiền và lễ bái. Đây là 4 chất xúc tác lớn để làm cho tâm được thanh tịnh và 4 chất này là những tia phóng xạ cực mạnh, đẩy lui đi tất cả những bụi bặm đóng dưới đáy ly kia, hay nói khác hơn là làm tiêu trừ phiền não, ma chướng tham sân si để giới định huệ được bừng sáng dậy. Cốt yếu ở nơi sự dụng công, nếu sự dụng công triệt để thì nghiệp nào dầu lâu đời lâu kiếp có căn sâu từ trong vô lượng kiếp vẫn có thể cắt đứt được như thường. Điều quan trọng nằm ở tâm ta, chứ không nằm phía bên ngoài.

Hỏi: Trong tương lai Phật giáo Việt Nam sẽ như thế nào?

Đáp: Câu hỏi này phải chia ra làm hai phần để trả lời. Một phần ở trong nước và một phần ở ngoại quốc.

Phần trong nước: Sau hơn 20 năm người Cộng Sản nắm quyền (1975-1996) mọi sự tự do Tôn Giáo đều bị cấm đoán, cũng giống như trường hợp của Tây Tạng, chính quyền chỉ cho Phật giáo hay các Tôn Giáo khác do chính quyền lập ra hoạt động dưới sự kiểm soát của nhà nước và quyền quyết định sinh hoạt, diễn giảng v.v... đều thuộc về nhà nước chứ không thuộc về Giáo Hội. Về mặt chính trị lúc nào cũng có hai phía để đương đầu: một bên tuyên truyền và một bên phản tuyên truyền. Bên nào cũng có lợi mà bên nào cũng có hại cả. So ra trên mặt nổi, Phật giáo vẫn còn tồn tại, nhưng đi sâu về vấn đề phát triển thì tại Việt Nam trong hiện tại chiều sâu không có, chỉ duy trì vấn đề lễ bái là nhiều. Tuy có một vài Phật Học Viện vẫn được mở cửa, tiếp nhận Tăng sinh, nhưng cả một nước Việt Nam mà không có hơn 10 trường Đại Học Phật giáo thì quả là điều khiêm tốn vô cùng. Tuy nhiên người Cộng Sản cũng không thể nào tiêu diệt được niềm tin của quần chúng Phật tử đối với Phật giáo nói riêng hay các Tôn Giáo khác nói chung. Họ chờ ngày tự do, sẽ phát triển lại, giống như người Phật tử miền Bắc đã chịu đựng mấy mươi năm nay, bây giờ họ bắt đầu thể hiện tinh thần học Phật bằng nhiều phương diện khác nhau.

Còn Giáo Hội truyền thống tuy bị trù dập, đàn áp, khống chế, bắt bớ, giam cầm, nhưng với những vị lãnh đạo, đây chỉ là chướng duyên như bao chướng duyên khác trong cuộc sống cần phải đấu tranh và chống đỡ lại và chờ ngày đẹp trời sẽ có cơ phục hoạt.

Đối với Phật giáo Việt Nam tại ngoại quốc ngày nay, càng ngày sự học Phật của người Phật tử càng tiến bộ hơn. Với 2 triệu người hiện có mặt khắp nơi trên thế giới, đa số là Phật tử, với sự hiện diện của hơn 400 ngôi chùa và 400 Tăng Ni hiện hành đạo khắp đó đây là một gia bảo rất lớn cho những thế hệ đi sau, họ sẽ kế tục để thừa hành những công việc của những thế hệ đi trước đã làm. Có một số Phật Học Viện, Tu Viện đã và đang đào tạo các Tăng Ni sinh nề nếp, sống đời đạo hạnh, lo tu học và phục vụ con người trên nhiều bình diện văn hóa, xã hội, từ thiện, triết học v.v... Đây là một niềm vui và từ đó người Phật tử Việt Nam cũng như người ngoại quốc sẽ có thêm phần lợi lạc về vấn đề tinh thần.

20 năm trong một thế kỷ là ngắn, nhưng với 1.000 hay 2.000 năm sau nữa, đây là bước căn bản để mang Đạo vào Đời cho các thế hệ mai sau. Nếu nền tảng này vững chắc thì các lâu đài sẽ được xây dựng trong nay mai trên nền móng tâm linh ấy sẽ được phát triển không ngừng. Đây là một điều rất quan trọng và cần thiết cho Cư sĩ tại gia lẫn người xuất gia.

Hỏi: Theo tinh thần Đại Thừa, chúng sanh phát tâm bồ-đề, lập nguyện thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh. Còn theo tinh thần Tiểu Thừa có phải chúng sanh cũng phải phát tâm, lập nguyện dứt đoạn các phiền não cầu giải thoát, chúng ta có được dùng chữ phát tâm bồ-đề để chỉ cho tinh thần Tiểu Thừa hay không?

Đáp: Chữ tâm Bồ-đề dịch sát nghĩa là tâm giác ngộ. Chữ giác ngộ gồm có 3 nghĩa là tự mình giác ngộ cho mình, sau khi được giác ngộ rồi, đem sự giác ngộ ấy giúp cho chúng sanh. Điều này gọi là giác tha. Nếu muốn tiến lên quả vị Phật, Bồ Tát của Đại Thừa phải phát tâm dõng mãnh hơn nữa, khi nào làm tròn hai công hạnh tự giác và giác tha thì quả vị mới tròn đầy. Đây gọi là phát Đại thừa tâm để cầu thành Phật quả.

Tiểu Thừa khác với Nguyên Thủy Phật giáo, xin đừng hiểu lầm. Tiếng Sanskrit gọi Tiểu Thừa là Hynayana, mà Nguyên Thủy gọi là Theravada. Tiểu Thừa Giáo vẫn cầu giác ngộ, nhưng đa phần các vị A La Hán của Thánh quả này khi đã chứng được địa vị vô sanh rồi, thường hay ở luôn nơi Niết Bàn và ít có phát nguyện trở lại Ta Bà để độ sanh. Do đó phát bồ đề tâm của Đại và Tiểu Thừa có sự khác biệt nhau như thế.

Hỏi: Bài kinh Bát Nhã trì tụng hằng ngày hoàn toàn bằng chữ Hán, mà thế hệ trẻ của chúng con thì không thể hiểu hết nghĩa. Vậy có nên kèm theo mỗi bài kinh chữ Hán là lời giải thích bằng tiếng Việt? Nếu dịch bài kinh sang tiếng Việt thì nghĩa sẽ không diễn tả một cách thông suốt như nguyên bản, như vậy sẽ không hay. Hoặc theo ý quý Thầy có nên trong tương lai tất cả các bài kinh đều được dịch sang tiếng Việt?

Đáp: Các bộ kinh lớn như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cang, Đại Bát Niết Bàn, Bảo Tích, Thủy Sám, Lương Hoàng Sám v.v... tất cả đều đã được dịch ra chữ Việt và Phật tử Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước trì tụng những bộ kinh lớn này ít nhất là từ thập niên 60 trở lại đây, kể cũng hơn 35 năm rồi, không có vấn đề khó hiểu và đòi hỏi nơi Phật tử nữa. Tuy nhiên trong những thời khóa tụng hằng ngày một số bài kinh vẫn còn để nguyên chữ Hán như Bát Nhã, Khể Thủ, Quy Mạng v.v... Nói cho đúng ra những bài kinh này cũng đã được dịch hết ra tiếng Việt rồi, nhưng rất ít chùa tụng, không phải là vì ý nghĩa mà có lẽ vì âm điệu khi tụng bằng tiếng Việt nó không thâm trầm bằng âm chữ Hán, nên các Chùa đều giữ nguyên chữ Hán. Nếu ai muốn tham cứu thêm từng chữ, từng bài kinh trong 2 thời khóa tụng công phu khuya và công phu chiều thì nên đọc quyển “Nhị Khóa Hiệp Giải” của cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh dịch và chú thích rất rõ ràng bằng tiếng Việt từ năm 1947 mà trong chùa các chú Tiểu Sa Di đều phải học. Tuy văn xưa có hơi khó hiểu, nhưng ý chính đã được Hòa Thượng dịch giải rất rõ ràng.

Nếu người trẻ xem Hán văn cũng là một môn ngoại ngữ như Anh, Pháp, Đức, Nhật thì thêm một môn học nữa cũng tốt thôi. Cũng không nên nại cớ rằng khó hiểu nên không trì tụng đến. Tại sao có những loại ngôn ngữ ta không hiểu nhưng cũng phải học nói, học viết như tiếng Pháp, Anh. Trong khi đó mới gặp chữ Hán chúng ta đã chối bỏ, mà nên nghĩ rằng Văn hóa Việt Nam của chúng ta vốn lâu đời có liên hệ với chữ Hán, nên học rất dễ hiểu. Hãy tập làm quen với một ngôn ngữ khác. Như trên đã trình bày, bài kinh Bát Nhã đã được dịch sang tiếng Việt rồi, khi nào cần tham cứu hoặc tụng đọc, quý Phật tử có thể tìm hiểu thêm. Còn khi tụng, nếu chùa nào đó vẫn còn đọc nguyên âm chữ Hán, chúng ta cũng có thể cùng đọc tụng mà không có thắc mắc gì cả.

Hỏi: Tựa bài kinh là “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh”. Nghĩa chữ “Tâm Kinh” ở đây là thế nào? Hoặc là thuộc nằm lòng, hoặc là suy nghiệm để tìm thấy ý nghĩa sâu sắc của kinh?

Đáp: Chữ Tâm Kinh dịch cho sát nghĩa là kinh nằm lòng, kinh chính yếu. Nếu ai trì tụng tâm kinh này sẽ hiểu rõ về tánh không của Đạo Phật. Rất hay và rất khó hiểu. Triết học Âu Châu không có loại nào giống sự lý luận và so sánh của tâm kinh. Học thuộc lòng cũng là một điều căn bản của sự định tĩnh và tập trung tư tưởng vậy. Người Âu Mỹ vốn ít học thuộc lòng như người Á Châu. Nhưng nếu là một công thức của toán học hay hóa học, vật lý v.v... thì họ cũng phải học thuộc lòng. Nếu không, sẽ không giải được bài toán. Khi giải bài toán dùng công thức để giải, chứ đâu có ai phải giải công thức ra để làm gì, vì điều đó các nhà phát minh đã giải và tìm kiếm ra rồi. Ở đây cũng vậy, Đức Phật là nhà phát minh, Ngài đã cho ra công thức là bài kinh, bài chú, chúng ta cứ thế mà ứng dụng vào đời sống để giải về không, vô thường, vô ngã, vô tướng, chứ chúng ta đòi giải công thức của bài kinh để làm gì? Điều ấy có ích lợi gì chăng?

Từ đó chúng ta nên tìm hiểu ở một vị trí khác, mà khi trì tụng thì không nên tìm hiểu. Vì không có thì giờ. Một chữ kinh lướt qua rất nhanh, liệu trong ý ta có đủ điều kiện để hiểu chăng? Hay chúng ta cứ chấp nhận dầu cho đó là loại ngôn ngữ nào đi chăng nữa để tâm ta được định tĩnh?

Hỏi: Người trì tụng kinh Bát Nhã như thế nào mới đúng?

Đáp: Trong mỗi thời kinh vào buổi sáng và buổi chiều đều có tụng bài kinh Bát Nhã. Mỗi lần trì tụng như vậy chúng ta sẽ thấy giá trị của lời kinh khác nhau. Tuy nhiên nếu muốn nghiên cứu thêm, bộ Đại Bát Niết Bàn 3 cuốn hơn 1.500 trang cũng đã được Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch ra Việt Văn thì sẽ hiểu rõ hơn về triết học tánh không của Bát Nhã. Dĩ nhiên, tự đọc chúng ta cũng có thể hiểu, nhưng nếu chỗ nào đó ý nghĩa chưa thông suốt, hãy ghi lại và tìm cách hỏi quý Thầy khi có khóa giáo lý hoặc mỗi khi quý Thầy đến địa phương mình để giảng pháp.

Hỏi: Xin cho biết về ý nghĩa của báo thân, pháp thân và hóa thân.

Đáp: Chúng ta, những chúng sanh phàm trần ở trong cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc đều chỉ có một thân, thường hay gọi là nhục thân hay báo thân. Tuy cõi Sắc và Vô sắc các chúng sanh chỉ còn có tư tưởng, nhưng đôi khi cũng nương vào hình tướng mất còn của Tam giới, nên các chúng sanh trong cõi này chỉ có một thân. Đó là báo thân.

Như Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni chẳng hạn. Ngài đã sinh ra trong cõi này từ trong thai mẹ, hình thức này được gọi là báo thân của Phật. Cũng có nghĩa là thân này do nghiệp báo mà có sinh ra, lớn lên, già đi, bịnh hoạn và chết chóc. Tất cả đều phải trải qua các giai đoạn thành trụ, hoại và diệt.

Pháp thân có nghĩa là chư Phật, chư vị Bồ Tát có pháp thân thanh tịnh, không đến, không đi, không còn, không mất, không được, không thua. Tất cả đều như như bất động. Đây cũng có thể xem là bản thể của vũ trụ vạn hữu. Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật cũng đã dạy rằng: Quá khứ chư Phật đã nói, hiện tại chư Phật đang nói, vị lai chư Phật sẽ nói. Tất cả đều cùng một ý nghĩa. Chỉ có thời gian và năm tháng sai khác, chứ nội dung của kinh đều giống nhau. Vì vậy đôi khi Phật đã chẳng nói một lời nào là nằm trong ý nghĩa này vậy. Pháp thân vốn thanh tịnh, trong suốt với thời gian và không gian, chỉ có chư Phật và chư vị Bồ Tát mới có được thân này.

Còn hóa thân hay cũng gọi là ứng thân có nghĩa là tùy cơ nghi mà hóa độ để thuyết pháp cứu khổ chúng sanh, như Đức Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng hạn. Ngài có tất cả là 32 thân. Nếu muốn độ cho loài nào, Ngài thường hiện ra loài đó để độ. Đây là hạnh nguyện lợi tha của chư vị Bồ Tát và các Đức Phật. Các Ngài cảm nhận rằng thế gian này còn quá nhiều đau khổ, nên sự thị hiện của Ngài rất cần thiết nên biến hóa ra nhiều hình thức khác nhau để cứu độ sinh linh.

Hỏi: Xin giải thích rõ về tướng và tánh của pháp.

Đáp: Tánh thuộc về nội dung, tướng thuộc về hình thức. Chữ pháp ở đây không nhất thiết phải hiểu là lời dạy của Đức Phật, mà phải hiểu rằng tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều có thể hiểu là pháp. Ví dụ tướng của cái bàn là cao thấp, lớn nhỏ, loại cây gì. Còn tánh của cái bàn là đẹp, xấu và công dụng của nó.

Riêng con người cũng có 2 phần. Phần tánh nằm sâu nơi tâm thức. Hay nói đúng hơn là A Lợi Da Thức. Còn phần tướng thì thể hiện nơi việc làm, lời nói cử chỉ v.v... Một ví dụ dễ hiểu để chúng ta nắm được vấn đề tánh và tướng. Ví dụ một người nọ có tâm rất tốt luôn luôn đi chùa và làm công quả, giúp đỡ chư Tăng, Chùa, Viện trong mọi vấn đề. Đây là tướng thị hiện như thế, nhưng có nhiều người than rằng người làm công quả ấy hay khó chịu, khi hỏi xin một bát cơm, chai xì dầu hay gạo, muối v.v... Cho nên nhiều người bảo rằng người kia khó tánh quá. Cái tánh khó thấy nhưng cái tướng thì dễ cảm nhận được.

Từ đó nhìn ra mọi hiện tượng của thế gian này đều bị chi phối bởi hai phần tánh và tướng. Chúng ta là những người con Phật, phải cố gắng xa rời hai trạng thái này như trong kinh Bát Nhã đã dạy rằng: “Các pháp không có tướng, không sanh, không mất, không dơ, không sạch, không lên, không xuống v.v...” Sự còn, mất, lên, xuống là do tâm ta chấp vào đó, chứ bản thể của vũ trụ và vạn pháp vẫn như như bất động.

Hỏi: Tụng kinh A Di Đà với niệm danh hiệu A Di Đà có khác biệt không?

Đáp: Tụng có nghĩa là đọc lớn lên thành tiếng lời kinh mình đang thọ trì. Niệm có nghĩa là nhớ trong trí óc, thầm tưởng đến danh hiệu Phật và Bồ Tát. Đây là sự khác biệt giữa tụng và niệm. Tụng kinh chúng ta cần phải có chuông mõ, nhịp nhàng theo âm điệu và để cho nhiều người cùng hòa theo một lúc. Còn niệm Phật cũng có thể lớn tiếng cùng niệm một lúc nhưng không nhất thiết phải vậy, ở đâu và bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể niệm Phật được. Ngay cả khi nằm trên giường bệnh, hoặc giả ở trong ngục thất của chốn lao tù. Mười phương pháp giới, nơi nào cũng có chư Phật và chư vị Bồ Tát thị hiện, nên ở đâu chúng ta cũng có thể nhớ nghĩ đến các Ngài.

Hỏi: Xin giải thích về ý nghĩa của bài tựa kinh Lăng Nghiêm từ chữ: “Diệu Trạm Tổng Trì Bất Động Tôn... Cho Đến Thước Ca Ra Tâm Vô Động Chuyển”.

Đáp: Mỗi thời kinh sáng, chư Tăng Ni và một số quý Phật tử tại gia đều trì tụng thời kinh này. Đây là một thần chú rất quan trọng để huân tu 3 nghiệp thân, khẩu và ý. Đây cũng là lời thệ nguyện của Ngài A Nan, sau khi đã thoát ra khỏi lưới ái của Ma Đăng Già. Hòa Thượng Thích Thanh Từ đã chuyển dịch đoạn kinh này ra văn vần như sau:

Tôn Giả A Nan Kệ:

Đấng Diệu Trạm tổng trì bất động
Kinh Thủ Lăng Nghiêm đời ít có
Con sạch ức kiếp tưởng điên đảo
Chẳng trải tăng kỳ được pháp thân
Nay nguyện được thành quả Bảo Vương
Trở lại độ như Hằng sa chúng
Đem thân tâm này thờ trần sát
Đây mới gọi là đáp ơn Phật
Lại xin Thế Tôn vì chứng minh
Đời ác ngũ trược thệ vào trước
Còn một chúng sanh chưa thành Phật
Con quyết nơi đây chẳng Niết Bàn
Đấng Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi
Mong lại xét trừ vi tế hoặc
Khiến con sớm được Vô Thượng giác
Nơi cõi mười phương ngồi đạo tràng
Hư không dù có thể tiêu vong
Tâm con kiên cố không động chuyển...
Phía sau còn một đoạn dài nữa trước khi đi vào phần Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, nhưng Hòa Thượng Thích Khánh Anh cũng đã dịch và chú giải rất rõ ràng trong quyển Nhị Khóa Hiệp Giải rồi.

Hỏi: Người già trên 70 tuổi có xuất gia được không?

Đáp: Ngày xưa, khi Đức Phật còn tại thế chỉ cho xuất gia đến tuổi 60 mà thôi. Có lẽ vì người đương thời đến tuổi ấy đã già cả lụm cụm, do đó khi xuất gia thọ giới đi đứng nằm ngồi không được minh mẫn, nên Đức Phật đã chế ra như vậy. Tuy nhiên, ngày nay có nhiều người 70 hay 80 tuổi vẫn còn xuất gia và chư Tăng vẫn cho thọ giới như thường. Vì lẽ quý vị này sức khỏe vẫn còn tốt.

Chúng ta cũng nên nhớ lại rằng trước khi Đức Phật thị tịch Niết Bàn, Ngài cũng đã cho một vị 120 tuổi xuất gia và thọ giới Tỳ Kheo và ngay lúc đó vị này cũng đã chứng quả A La Hán và nhập diệt trước khi Đức Phật nhập Niết Bàn, tên là Tu Bạt Đà La. Điều đó cũng có nghĩa là có nhiều trường hợp ngoại lệ. Miễn sao tâm và thân còn minh mẫn, tráng kiện là được.

Hỏi: Xin giải thích câu thần chú: Án Ma Ni Bát Di Hồng.

Đáp: Đã gọi là chú thì khó giải thích ra nghĩa từng tiếng. Tuy nhiên có thể nói đại ý của câu chú ấy nói về điều gì. Thần chú này Phật giáo Mật Tông Tây Tạng hay hành trì và ngay cả Mật Tông Việt Nam và Nhật Bản vẫn trì tụng hằng ngày vậy.

Chữ Án hay Úm có nghĩa là thay thế cho chư Phật, chư Thánh, chư Thần gồm tất cả vũ trụ.

Ma Ni có nghĩa là món quý báu hay trí tuệ.

Bát Di Hồng dịch là Hồng có nghĩa là linh thiêng. Các quỷ thần nghe tiếng ấy đều kính nể hỗ trợ. Dịch chung nghĩa là cái quý báu trong hoa sen.

Vì các vị Đại Sư Tây Tạng cũng rất ít dịch nghĩa câu thần chú này. Nếu ai niệm đến thần chú này sẽ được như ý ở mọi điều.

Hỏi: Đại ý chú “Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn”?

Đáp: Thần chú này được trì tụng như sau: “Nam Mô bạt xà phạt đế, bệ sát xả lụ rô thích lưu ly, bát lặc bà, hắc ra xà dã, đát tha yết ra da, a ra hắc đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xả, tam một yết đế tóa ha.” Đây là thần chú của Đức Dược Sư. Nếu ai có bịnh hoạn gì, thành tâm trì tụng chú này vào trong gạo, muối v.v... sau 49 ngày đêm rồi đem cho người bịnh ăn, uống v.v... thì người bịnh sẽ lành. Đây là nhờ công năng tha lực của Phật Dược Sư, hộ trì cho những ai nhớ nghĩ đến Ngài và cầu Ngài cứu khổ. Mỗi thần chú có một công năng như vậy. Nếu ai hành trì một cách thâm hậu sẽ được công đức không nhỏ.

Hỏi: Tha lực và tự lực. Xin giải về ý nghĩa của hai việc này.

Đáp: Tha lực là sức mạnh từ bên ngoài. Tự lực là sức mạnh từ bên trong. Một việc làm nào đó nặng nhọc, chắc chắn tự mình không làm được, phải cần người khác giúp đỡ. Cũng như thế, việc vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc chỉ trong một đời, không thể làm được, nếu không có sự trợ lực của Đức Phật A Di Đà. Nhưng điều quan trọng chúng ta phải thể hiện tự lực trước. Đó là tín, nguyện và hạnh. Nếu thiếu những tự lực này thì cũng khó được vãng sanh.

Thiền cũng vậy, phải cần đến tự lực nhiều để được liễu ngộ chơn như. Tuy Thiền không đặt nặng vấn đề tha lực như Tịnh Độ nhưng cũng phải có sự gia trì của chư Phật và chư vị Bồ Tát. Nếu không thì quả vị bất thối ắt khó thành.

Hỏi: Trong kinh A Di Đà có câu là phải niệm Phật đến “nhất tâm bất loạn” mới có thể được chư Phật rước về Tây Phương Tịnh Độ. Vậy xin Thầy dẫn giải thêm cho con về câu trên.

Đáp: Trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà cũng có câu này. Nghĩa là người nào ở thế giới Ta Bà này chí tâm xưng dương tán thán danh hiệu của Đức Phật A Di Đà một cách thuần thục, không gián đoạn, trước khi lâm chung sẽ được Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Nhất tâm bất loạn cũng có nghĩa là tâm không loạn động khi niệm Phật, các tạp niệm đừng cho xen kẽ vào ngoại trừ danh hiệu của Phật. Ví dụ như khi chúng ta làm một vấn đề gì đó mà để tâm hết mình, chú ý sâu, nhìn thật kỹ sự việc, kết quả rất khác hẳn với một việc làm hời hợt, không hết mình.

Một người sắp lâm chung, khi cận tử nghiệp đến gần, sức hút rất mạnh, độ nhạy cũng tinh hơn bình thường. Nếu lúc ấy chỉ có câu niệm Phật không rời tâm thì sẽ được sanh về thế giới cao hơn. Thêm một điều dễ hiểu hơn nữa, ví như ngọn đèn trước khi tắt, thường hay lóe lên ánh sáng rất rực rỡ nếu trong lúc này mồi thêm những tia lửa nhạy thì ánh sáng sẽ bừng cháy to hơn.

Hỏi: Được biết Đạo Phật có trước khi Đức Phật ra đời. Vậy người sáng lập ra Đạo Phật thời đó là ai mà sao mình không hề nghe nhắc đến. Mình chỉ đề cập đến Đức Thích Ca Mâu Ni thời bây giờ mà thôi?

Đáp: Chúng sanh có từ vô thỉ và Đạo Phật cũng có mặt từ vô thỉ. Phật Oai Âm Vương là một vị Phật đã có mặt ở thế giới Ta Bà này từ vô lượng kiếp, nhưng trước Ngài cũng đã có nhiều vị Phật ra đời, nên chúng ta không thể biết được ai là người sáng lập ra Đạo Phật. Theo Nam Tông thì tính cho đến Đức Phật Thích Ca là 24 vị Phật. Vị đầu tiên là Tỳ Bà Thi Phật, nhưng Bắc Tông thì không bắt đầu bằng vị này, mà bằng Hằng hà sa số Phật. Vì mỗi chúng sanh đều có tánh Phật và với tánh Phật này, ai cũng có thể thành Phật. Đây cũng có thể hiểu như trong trường hợp: một niệm biến ra 3.000 thế giới là vậy.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Giáo chủ ở cõi Ta Bà này trong kiếp hiện tại, mà đã cách xa chúng ta hơn 2.500 năm rồi. Nhưng sau và trước Đức Phật Thích Ca cũng đã và sẽ có nhiều vị Phật khác như Di Lặc Tôn Phật, Ca Diếp Phật v.v... Mỗi một vị Phật như thế chỉ làm một số nhiệm vụ nhất định trong thời gian quý vị Phật ấy thị hiện mà thôi.

Hỏi: Tu thế nào để thành tựu pháp môn Tịnh Độ?

Đáp: Pháp môn Tịnh Độ do Đức Phật A Di Đà đề xướng, chư Tổ, chư Bồ Tát thực hành. Nếu ai có đầy đủ tín, nguyện và hành vững chắc thì sẽ được vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc khi lâm chung.

Tín là lòng tin. Chúng ta tin người, tin ta. Tin người có nghĩa là tin có Đức Phật A Di Đà, có một thế giới như thế, vì qua trí tuệ và sự thực chứng, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giới thiệu một cảnh giới như thế cho chúng sanh trong thế giới Ta Bà này.

Nguyện ở đây có nghĩa là phát nguyện, lập nguyện. Nghĩa là sau khi đã tin có một thế giới như thế phải phát nguyện hồi hướng Tây Phương và trang nghiêm Tịnh Độ.

Hành có nghĩa là làm. Làm ở đây có nghĩa là phải chuyên tâm niệm Phật, niệm niệm không dừng nghỉ, qua các giai đoạn đi đứng nằm ngồi trong cuộc sống hằng ngày. Nếu thực hành được như thế, lòng tin kia và sự nguyện nọ mới thành tựu. Nếu tín, nguyện và hành được tròn đầy, thì sự vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc không phải là điều khó thực hiện.

Hỏi: Tụng kinh niệm Phật có thoát khỏi cảnh sanh, lão, bệnh, tử không?

Đáp: Hỏi như thế cũng giống như câu ăn chay có thành Phật không. Ăn chay dĩ nhiên là không thành Phật được, nhưng để đi đến sự giác ngộ thành Phật, không thể thiếu sự ăn chay. Ở đây cũng thế, tụng kinh niệm Phật không thành Phật hay nói đúng hơn là thoát khỏi cảnh sanh, lão, bệnh, tử, nhưng để thoát khỏi những điều này, không thể thiếu sự tụng kinh niệm Phật. Việc đọc tụng, nhớ nghĩ lời Phật dạy là một trợ duyên rất thù thắng trên con đường đi đến sự giác ngộ, giải thoát. Không ai khi sinh ra đã biết nói, biết đi, biết đọc, biết viết được, mà người mẹ phải lo bày vẽ cho con từng lời, từng câu, dìu con đi vào đời bằng những bước đi chập chững, rồi nuôi con khôn lớn với đời. Ơn đức của mẹ cha rất cao dày. Ở đây cũng vậy, lời Phật dạy chính là chất sữa đề-hồ để nuôi lớn tâm thức của chúng sanh. Tất cả là phương tiện, dẫn chúng sanh ra khỏi bến mê để trở về bờ giác. Muốn chạy phải biết đi trước, muốn đi phải biết bò trước. Đây là sự thuận chiều của cuộc sống. Cũng như thế ấy, muốn thành Phật trước tiên phải giũ bỏ mọi nghiệp lực của thế gian. Muốn từ bỏ chúng, phải tu học qua các pháp môn tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền và trì chú.

Hỏi: Làm sao sống đúng nghĩa là một người Phật tử, và sống sao cho đời sống hạnh phúc vui tươi hơn?

Đáp: Đức Phật thường dạy: Muốn kiếp sau thành một con người đúng nghĩa, thì trong kiếp sống hiện tại phải giữ tròn 5 giới. Đó là: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Nếu mọi người đều giữ 5 giới này thì trong kiếp hiện tại cũng như mai sau sanh ra làm người sẽ được nhiều hạnh phúc và được nhiều người kính mến. Nếu ai muốn sanh thiên, hưởng sự vui của cõi sắc, thì hãy giữ tròn 10 giới. Đó là không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói hung ác, không nói lời thêu dệt, không tham, không sân và không si. Đây là 10 điều căn bản để được sanh thiên. Nếu người nào đó muốn đạt quả vị Bồ Tát thì trong kiếp này và kiếp sau nên tu nhân bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ. Đó là những điều căn bản mà người tại gia lẫn xuất gia đều nên lưu tâm để hành trì thì công đức sẽ không nhỏ.

Muốn sống một cuộc sống an lạc và hạnh phúc thì người chồng và người vợ phải hiểu đạo, thì gia đình mới vui tươi, sáng tạo. Nếu một người chồng hiểu đạo sống với một người vợ không hiểu đạo, đúng là tiên ông sống với quỷ nữ. Nếu một người vợ hiểu đạo sống với một người chồng không hiểu đạo, giống như tiên nữ sống với quỷ nam. Nếu một người vợ hiểu đạo sống với một người chồng hiểu đạo giống như tiên ông sống với tiên bà. Ngược lại một người vợ không hiểu đạo sống với một người chồng không hiểu đạo giống như quỷ nam sống với quỷ nữ. Chắc chắn một điều sẽ sinh ra một đám quỷ con. Vậy một gia đình hạnh phúc là một gia đình hiểu đạo, sống đúng với lời Phật dạy. Đó là một gia đình hạnh phúc.

Hỏi: Tại sao khi tắt đèn cầy người ta phải lấy tay để dập tắt, thay vì lấy miệng để thổi?

Đáp: Thói thường người ta tiện lợi cái gì hay làm cái đó, nhưng trong Đạo Phật đối với người xuất gia có nhiều quy tắc được định ra để hành trì, từ đó sẽ được lợi lạc cho bản thân mình về các oai nghi tế hạnh. Khi vào Chùa chúng ta thường hay để giày dép bên ngoài, sau đó mới vào Chánh Điện để lễ Phật. Điều này để tỏ lòng tôn kính. Ở đây cũng vậy, những ngọn đèn cầy đốt lên cúng Phật, mục đích của chúng ta là dâng lên ánh sáng trí tuệ để cầu nguyện chư Phật gia hộ cho chúng ta có được ánh sáng trí tuệ như Đức Phật. Vì vậy khi tắt những ngọn đèn này không dùng miệng để thổi, mà dùng tay để quạt cho tắt, hoặc giả lấy cái chụp đèn để chụp lên ánh sáng ấy, làm cho ánh sáng tắt đi. Đó cũng là hình thức tôn kính đối với Đức Phật. Miệng ta ăn đồ bất tịnh, ở nhà thì dùng thịt, cá, mắm, muối, ở chùa thì tương chao v.v... Tất cả những loại này đã có những mùi vị không thơm tho, khi ăn vào, những chất này còn biến thái nữa, do đó hơi thở ta chứa đầy những mùi bất tịnh. Vì lý do đó, nên khi tắt đèn cầy chúng ta không nên dùng miệng để thổi.

Hỏi: Làm thế nào để biết một vị Tu sĩ vừa chứng được quả A La Hán? (Như trường hợp Ngài A Nan vì chưa chứng A La Hán nên trong kỳ kết tập đầu tiên đã không được Ngài Ca Diếp cho vào dự Đại Hội Kết Tập. Ngài buồn rầu suốt đêm suy tư, đến hừng sáng thì chứng quả và được phép tham dự Đại Hội. Như vậy phải có một cái gì đặc biệt, khác với lúc trước, mà người ta nhận thấy được để tỏ ra sự chứng đắc này).

Đáp: Đối với các vị A La Hán bên trong động Thất Diệp chắc chắn các Ngài đã biết Ngài A Nan chứng quả A La Hán. Vì lẽ các Ngài đã chứng quả. Từ một địa vị cao hơn, có thể thấy mọi vật và mọi sự kiện ở cõi thấp hơn, nhưng đối với phàm nhân thì điều đó khó nhận biết được. Vì lẽ ấy nên Ngài Ca Diếp mới bảo Ngài A Nan rằng ông hãy chui mình qua ổ khóa cửa ra vào kia để vào đây thì sẽ được tham dự Hội Nghị. Quả thật thế, Ngài A Nan đã đi vào Hội Nghị bằng mệnh lệnh của Ngài Ca Diếp là chui qua ổ khóa cửa. Nếu không chứng quả và không có thần thông thì sẽ không thực hiện được điều này. Điều này cũng chỉ để cho người đương thời và người đời sau biết hư thực trong việc chứng đắc. Riêng đối với các Ngài lậu tận đã hết thì việc ấy không cần nữa.

Một câu chuyện khác cũng diễn tả sự kiện tương tự như trên. Chuyện được kể rằng:

Khi Đức Phật còn tại thế, lúc bấy giờ Ngài ngụ tại Kỳ Viên Tịnh Xá. Trong khi thuyết pháp cho chư Thiên và loài người nghe thì bỗng đâu có một nàng ma nữ xuất hiện. Khi đến nơi, nàng giả dạng Công chúa Da Du Đà La, vợ của Thái Tử, với bụng mang dạ chửa, than trách Thái Tử tại sao bỏ bê nàng và Mara kia đòi Đức Phật phải về lại hoàng cung để chăm lo cho nàng. Trong chúng hội ai cũng ngơ ngác. Kẻ ngờ vực, người nực cười. Ngờ vực vì những người có căn cơ thấp kém trách Phật tại sao làm thế, để cho nàng Da Du khổ lụy. Nên cũng có nhiều người tỏ ý chê bai Phật. Trong khi đó những vị đã chứng thánh quả thì cười khì. Vì biết rằng đó là sự lừa dối của ma vương. Riêng Phật, Ngài vẫn tự tại, không bị chi phối bởi lời vu cáo kia, nhưng để làm sáng tỏ vấn đề, sự hoài nghi của những người chưa hiểu đạo, nên Đế Thích đã biến thành một con chuột trắng chui vào hông của Ma Nữ kia, dùng răng để cắn đứt những cuộn rơm độn nơi bụng, khiến rơm đứt ra, rơi tung tóe xuống đất. Nàng xấu hổ quá nên đã chạy xuống giếng gần đó để tự tử. Lúc bấy giờ những người có tâm khinh mạn Phật, vì vô minh không rõ chánh tà đến trước Phật sám hối và từ câu chuyện này chúng ta có thể thấy được công năng của sự chứng quả là gì.

Hỏi: Tham, sân, si lấy gì để đối trị?

Đáp: Nói gọn là lấy giới định huệ để tiêu trừ. Vì sao vậy? Khi tham, tại vì không giữ giới, không có lòng từ bi nên không thích bố thí, mà còn trộm cắp, tham lam. Do tâm cố chấp và vị kỷ mà ra, nên phải lấy giới để trừ khử. Giới tiếng Phạn gọi là Sila, Hán dịch là biệt giải thoát, hay hàng rào có công năng ngăn chận tội lỗi. Tham không phải có trong kiếp này, mà từ trong vô lượng kiếp con người đã biết tham, không những chỉ tham tiền của, mà còn tham danh lợi, tham ăn, tham uống, tham ngủ nghỉ v.v... khi sinh ra, không ai dạy dỗ cho con người điều ấy, nhưng trẻ con vẫn biết tham lam. Tội này từ trong vô lượng kiếp nên khó trừ. Chỉ có giới mới làm cho màn vô minh tan rã, giúp ta trở nên sáng suốt và giảm hết tội lỗi.

Thiền Định là gạn đục khơi trong. Khi tâm của chúng ta còn nóng giận, sân hận. Chỉ biết điều mình nói ra là đúng, bắt mọi người phải tuân phục. Nếu ai không tuân giữ, mình trở nên nóng giận, làm mất sự hòa hảo với người đối diện. Chỉ có sự định tĩnh mới làm yên ổn lòng sân hận. Dĩ nhiên không định tĩnh hay nói đúng hơn là không luôn luôn tỉnh thức thì mọi sự sân hận ấy chờ cơ hội sẽ phục hoạt trở lại. Vì vậy phải hạ thủ công phu trong các việc tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật và lễ bái thì nước định kia không bị dao động và sự sân hận sẽ tiêu trừ.

Si có nghĩa là mê mờ. Vì sao bị mê mờ? Vì vô minh che lấp. Do đó cần có trí tuệ mới diệt trừ được vô minh. Nhưng muốn có được trí tuệ không phải chuyện đơn giản, phải gạn lọc vô minh qua các điều kiện giữ giới và thiền định. Đây là một bóng mây khá dày, do đó phải cần nhiều năm tháng để làm cho chúng tan đi. Sự vô minh tuy không phải phiền não, sân hận, nhưng rất khó trị. Vì lẽ phiền não sân hận còn thấy tướng của chúng, còn vô minh nằm ẩn tàng sâu nơi tâm thức và ở từ trong vô lượng kiếp chứ không phải chỉ có gốc rễ trong kiếp này mà thôi. Do đó phải dụng công khơi dậy trí tuệ qua công năng thiền định một cách miệt mài thì mới mong màn vô minh tiêu trừ và ánh sáng chân lý được rọi chiếu.

Nói tóm lại tham sân si là đặc tính chung của phàm phu, còn giới định huệ là những việc dành cho kẻ tỉnh thức. Ai biết quay đầu về với chân lý, đều có thể giác ngộ thành Phật.

Hỏi: Nam và nữ nhìn theo sinh lý học có sự khác biệt, nhưng sự suy luận hoặc giải quyết một vấn đề gì đó đều đồng nhau. Song thể theo Phật giáo, ai cũng có thể đạt được Phật quả (không phân biệt nam nữ). Vậy xin hỏi, làm sao có thể xóa bỏ được sự không công bằng này, trong đạo giáo cũng như ngoài xã hội?

Đáp: Có lẽ Đạo Phật là đạo thể hiện tinh thần bình đẳng một cách tuyệt đối nhất. Việc này không phải bây giờ mới có, mà ngay từ thời Đức Phật, Ngài đã xếp địa vị của người nữ ngang hàng với người nam, mặc dầu xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ có rất nhiều giai cấp và vị trí của người nữ ít được xem trọng như người nam.

Trong Phật giáo rất ít vấn đề khi tranh luận về việc này, nhất là Phật giáo Đại Thừa, chủ trương rằng ai ai cũng có khả năng thành Phật. Dĩ nhiên giữa nam và nữ cũng có đôi sự sai khác. Ví dụ người nữ thì phải giữ nhiều giới hơn nam hay một số điều khoản khác, khi người nữ xuất gia, cần phải tôn trọng nam giới. Tánh Phật của người nữ ví như một ký bông gòn và tánh Phật của người nam là một ký sắt. Sức nặng của một Kg bông gòn và một Kg sắt bằng nhau, nhưng hình thức có khác nhau. Vì lẽ sự cấu tạo thân thể người nữ và người nam cũng khác nhau.

Trong đạo cũng vậy, ngoài đời cũng thế, ở thế kỷ 20 này, nhất là Âu Mỹ, nơi mà nhân phẩm của người đàn bà được trọng vọng và ưu đãi hơn đàn ông, nhưng nhìn bất cứ vào lãnh vực nào, người đàn ông cũng chiếm ưu thế. Từ chính trị cho đến văn hóa xã hội. Chỉ riêng địa phận bảo tồn nòi giống là người nam phải thua người nữ, nhưng thử hỏi tại sao có vấn đề này? Câu trả lời cũng dễ hiểu thôi. Trong gia đình phải có một người đứng mũi chịu sào các công việc thì việc nhà mới chạy. Từ đó việc nước cũng vậy. Nhìn chung thì đa số đàn ông làm chủ gia đình và người đàn bà chỉ góp ý kiến, chứ ít khi tự quyết khi không có sự bảo bọc của người chồng. Người chồng là thủy thủ, người vợ là người đi trên thuyền. Cả hai người đều có thể sang bên kia bờ cùng một lúc, nhưng người chồng lúc nào cũng có bổn phận nặng nề hơn là người vợ, nên trong một sự bắt buộc vô hình nào đó người vợ cũng lệ thuộc vào người chồng. Đời sống Tăng sĩ cũng thế, Đức Phật coi trọng giá trị của hai giới giống nhau, nhưng buộc người nữ tu phải nương nơi nam tu sĩ thì giá trị ấy mới vĩnh hằng. Vả chăng ngày nay xã hội Âu Mỹ mới đạt được điều mà 25 thế kỷ qua Đức Phật đã thực hiện?

Hỏi: Con nguyện ăn chay 10 ngày trong một tháng, nhưng vì con không biết nấu ăn chay nên con đã ăn chay ngày nào con đi Chùa và chỉ riêng ngày mồng một và rằm con ăn chay đúng ngày trong lịch thôi. Xin cho biết như vậy có được không?

Đáp: Giới thứ nhất của người Phật tử tại gia lẫn xuất gia là cấm không được sát sanh. Nghĩa là Phật gián tiếp khuyên con người nên thể hiện lòng từ bi đối với muôn loài, hãy tập ăn chay cho lòng từ bi tăng trưởng. Ta không giết hại chúng sanh mà còn đem chim, cá để phóng sanh thì đời này tăng tuổi thọ mà đời sau sinh làm người lại được sống lâu. Ăn chay không phải chỉ được có phước như bao nhiêu người Á Châu lầm tưởng, mà ăn chay cũng chẳng phải để giảm cân như người Âu Mỹ thường hay nghĩ đến. Mà ăn chay chỉ có một mục đích duy nhất là vì lòng thương chúng sanh. Ta không muốn thân ta bị bịnh hoạn thì thân chúng sanh, chúng cũng muốn được bảo toàn. Do đó ăn chay là một hạnh từ bi đối với muôn vật vậy.

Ngày rằm và mồng một âm lịch người Phật tử hay ăn chay, vì theo kinh Địa Tạng những ngày này chúng sanh tạo nhiều nghiệp nặng, nên ăn chay để tội được nhẹ hơn. Sau đó quen rồi ăn dần lên 4 ngày, 6 ngày, 10 ngày v.v... Đã nguyện ăn chay 10 ngày thì hãy cố gắng. Nếu không làm đủ cũng không sao, nhưng nếu bây giờ chưa làm được thì chờ lúc có cơ hội vậy. Ví như một món nợ ta tự vay thì phải tự trả, nếu chưa trả được thì xin khất lại và đôi khi còn phải trả thêm tiền lời nữa. Ở đây việc ăn chay là một lời hứa, vì vậy nên cố gắng thực hành.

Bây giờ sách nấu chay có bán khắp nơi và thỉnh thoảng một số tạp chí Phật giáo tại ngoại quốc cũng có chỉ cho cách thức nấu chay. Nếu quý vị có để tâm một xíu, mua các sách này về đọc và tập nấu theo đó, chắc cũng không khó mấy. Hãy hiểu đây như một phương pháp tu hành cũng được.

Hỏi: Nói về giới sát sanh, có trường hợp giết người do một phản ứng tự vệ vì bị người tấn công, thì có phạm giới hay không? Nặng hay nhẹ?

Đáp: Nghiệp thì có 3 loại. Đó là thiện, ác và vô ký. Làm việc lành sẽ ra quả lành, việc dữ sẽ sinh ra quả dữ. Ví dụ người đi lính vì vấn đề bảo vệ tổ quốc. Đó là điều bắt buộc phải làm vì trách nhiệm với đất nước. Nhưng đi lính thì phải giết giặc, đó là một nhân xấu ác, thì vẫn phải nhận quả xấu.

Một ví dụ khác. Có người đi ăn trộm của người khác, rồi lấy một phần tiền của ấy đi làm việc từ thiện. Làm phước được phước và làm tội chịu tội, nên cả hai việc đó đều có quả tương ứng.

Trường hợp câu hỏi vừa nêu trên vẫn là tạo nghiệp, vì lẽ để bảo vệ sự sống của mình nên phải giết người, nên việc giết người đó không bị thúc đẩy bởi tâm ác độc, hiếu sát, nhưng vẫn là một việc bất thiện nên phải chịu quả báo. Trong trường hợp này nghiệp tạo ra không quá nặng nề như tội cố sát.

Có trường hợp “sát nhứt miêu cứu vạn thử” giết một con mèo để cứu mười ngàn con chuột. Điều ấy có thể làm được. Nhưng nghiệp giết mèo vẫn phải trả quả, còn việc cứu chuột cũng sẽ được phước báo về sau. Vì nhân nào sẽ sinh ra quả ấy. Không có nhân này mà sinh ra quả khác bao giờ. Đây là định luật nhân quả mà người Phật tử cần phải lưu tâm và quán triệt.

Hỏi: Thời kỳ mạt pháp bao giờ tới?

Đáp: Giáo lý của Đức Phật Thích Ca chia ra làm 3 thời kỳ:

Thời kỳ chánh pháp có 500 năm. Trong thời gian này, nếu ai có tu, có hành theo giáo lý, đều có chứng quả A La Hán, Phật, Bồ Tát hay các quả vị khác. Vì lẽ căn cơ của chúng sanh còn trong sáng, ít chứa chấp phiền não, gặp Phật hay giáo lý của Ngài có thể hành trì một cách dễ dàng để chứng quả bất thối.

Thời kỳ tượng pháp gồm 1.000 năm. Thời kỳ này có tu, có hành nhưng ít chứng thánh quả. Vì lẽ nghiệp lực của chúng sanh, tội nhiều hơn phước, nên khó chứng Phật quả. Có nhưng rất ít.

Thời kỳ mạt pháp 10.000 năm. Đây là thời kỳ đi xuống. Vì người tu thì có nhưng không hành theo lời Phật dạy, do đó không chứng thánh quả là chuyện hiển nhiên. Trong thời kỳ này chúng sanh tu hành chểnh mảng và do đó thánh quả còn rất xa, khó mà tới được.

Kể từ thời Đức Phật ra đời đến nay đã 2.500 năm rồi. Nếu tính chánh pháp 500 năm cộng với tượng pháp 1.000 năm. Bây giờ là thời kỳ 1.000 năm đầu của 10.000 năm trong thời kỳ mạt pháp. Trong 1.000 năm đầu này tuy giáo lý có mặt khắp năm châu, nhưng đến 10.000 năm sau nữa thì ảnh hưởng của giáo lý Đức Phật không còn gì nữa. Lúc bấy giờ chúng sanh đang chìm ngập trong khổ đau, nhân loại sẽ bên bờ vực thẳm, lòng tin chẳng có, oan trái lại nhiều, nên chém giết nhau và chiến tranh loạn lạc. Quả đất này sẽ biến đổi và loài người tự hủy diệt với nhau. Sau đó thì được tái lập trở lại, Đức Phật Di Lặc ra đời để cứu khổ độ sanh trong 3 thời kỳ gọi là Long Hoa Tam Hội.

Hỏi: Khi lái xe ban đêm, có rất nhiều động vật nhỏ bị chết. Vậy có bị phạm giới sát không?

Đáp: Dĩ nhiên là có, nhưng giới này thuộc vô tình chứ không phải cố ý, nên tội nhẹ. Mỗi lần như thế nên tụng thần chú vãng sanh để trợ niệm cho những sanh linh kia sanh về thế giới an lành hơn.

Hỏi: Tu phương pháp nào để lánh xa tam đồ ác đạo, cầu được Vô thượng bồ đề?

Đáp: Tam đồ ác đạo ý nói về cảnh giới của Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh. Sở dĩ chúng sanh đọa vào địa ngục vì mọi thứ tội tham lam, trộm cướp, giết hại v.v... Sở dĩ bị làm ngạ quỷ vì khi còn sanh tiền bỏn sẻn, keo kiệt. Nếu bị đọa làm súc sanh vì khi còn sống dâm dật, phóng túng v.v... nên khi chết phải vào đường dữ này. Nếu là Phật tử giữ tròn 5 giới căn bản của tại gia thì sẽ tránh được 3 cảnh khổ này. Vô thượng bồ-đề thì phải tu theo lục độ vạn hạnh để thành Bồ Tát, sau đó sẽ chuyển thành Phật quả.

Hỏi: Nếu Thiền và Tịnh cùng tu một lúc thì kết quả sẽ ra sao?

Đáp: Ấn Quang Đại Sư là một vị Đại Sư rất nổi tiếng của Trung Hoa xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 này đã dẫn lời Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ nói rằng: “Trong thời kỳ mạt pháp này, 10 người tu Thiền chỉ chứng đạo có một. Còn 10 người tu Tịnh Độ thì đều chứng cả mười. Nếu tu cả Thiền lẫn Tịnh Độ, chẳng khác nào cọp có thêm móng vuốt.” Qua câu dẫn chứng đó của Ngài thiết tưởng cũng đủ để trả lời cho câu hỏi trên, nhưng ở đây xin thêm vào cho rõ nghĩa.

Khi tu Thiền cần dụng công của tự lực nhiều. Đôi khi không cần đến tha lực nữa. Nhưng tự lực của chúng sanh trong thời kỳ mạt pháp không mạnh bằng thời chánh pháp, nên ngày nay nhiều người tu Thiền nhưng chứng đắc ít là vậy. Còn Tịnh Độ thì nương vào tha lực của Đức Phật A Di Đà, dĩ nhiên là phải có tự lực trước. Đó là việc phát tâm niệm Phật và nguyện vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc. Tự lực dầu yếu đuối đến đâu đi chăng nữa, nhưng có người dìu chúng ta đến nơi chốn bình an thì việc ấy dễ thành. Ví như người bị rơi xuống nước, nếu biết bơi thì đỡ bị uống nước, nhưng nếu không biết bơi, thật khó khăn để nổi lên mặt nước và dễ bị uống nước, nhưng nếu được người đến cứu kịp thời thì mạng sống được vẹn toàn. Việc niệm Phật cũng thế, khi đã được Đức Phật A Di Đà trợ lực thì việc vãng sanh dễ dàng hơn.

Do đó nếu hành giả có dụng công vừa Thiền lẫn Tịnh Độ là quý nhất. Sức mạnh càng tăng trưởng, không có gì trở ngại và cứ thế mà hành trì.

Hỏi: Người đã thọ giới, đã học và đã nhớ những gì phải giữ. Nhưng có những lúc sự việc xảy ra rất nhanh chóng làm mình không giữ được. Xin cho biết phải làm cách nào để có thể giữ giới trong mọi hoàn cảnh.

Đáp: Phật chế giới có 4 trường hợp. Đó là khai, giá, trì và phạm. Khai có nghĩa là có những giới được khai mở phương tiện, nên không bị tội. Ví dụ như giới nói dối hay uống rượu có những trường hợp đặc biệt được khai mở không xem là phạm giới, nên gọi là khai. Giá có nghĩa là ngăn chặn, do Phật đã chế ra giới luật. Vì một lý do nào đó, đệ tử của Phật có sai phạm nên Phật mới chế ra giới ấy để ngăn chặn về sau. Trì có nghĩa là giữ giới ấy. Nếu phạm thì sám hối. Ngược lại có những giới khó sám hối được như sát, đạo, dâm nên gọi là phạm. Ví dụ như người đá banh vậy. Nếu lỗi lớn, sẽ bị loại không được đá trong lần này, nhưng lần sau thì được. Nếu lỗi nhỏ thì bị phạt nhẹ. Đó là luật của thế gian. Còn luật của Đạo Phật là một Hiến Pháp của nhà Chùa rất chi tiết và tỉ mỉ.

Khi vật dơ, chúng ta đều lấy nước để rửa, nhưng thực sự ra nước cũng không sạch. Vì chỉ ở dạng tương đối chứ không phải tuyệt đối. Khi tâm con người dơ thì lấy sự sám hối mà hành trì. Sự sám hối cũng giống như nước vậy, là phương tiện để rửa cho những tội lỗi của mình tốt hơn. Đức Phật bảo rằng ở đời này có hai hạng người rất đáng quý. Hạng thứ nhất là không bao giờ gây ra tội lỗi và hạng thứ hai là có lỗi rồi, biết ăn năn sám hối. Hạng thứ nhất chỉ có Bồ Tát và Phật làm được. Còn hạng thứ hai chúng ta có thể hành trì được.

Từ những ví dụ cụ thể trên, chúng ta cố tránh đừng cho phạm những giới quan trọng, nhưng nếu có thì phải sám hối. Trên đời này không ai là Thánh nhơn cả: nên việc lầm lỗi là chuyện bình thường, đôi khi vì vô tình hay cố ý. Điều quan trọng là có biết hối cải hay không. Đó mới là điều đáng nói.

Hỏi: Ý nghĩa của 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật như thế nào?

Đáp: Nếu dịch nghĩa ra từng chữ thì được hiểu như vầy:

Nam Mô có nghĩa là quay về, đảnh lễ, cung kính, nương tựa, lễ bái, quy ngưỡng. Chữ này gồm 6 nghĩa như trên. Nói chung chữ Nam Mô có nghĩa là quay về nương tựa với một bậc Đại Giác Ngộ.

A Di Đà có nghĩa là vô lượng thọ, vô lượng quang và vô lượng công đức. Nghĩa là vị Phật có tên là A Di Đà đó có tuổi thọ không cùng, có ánh sáng chiếu khắp mười phương và có công đức đầy đủ, khó ai sánh kịp. Tiếng Phạn gọi là Amitabha. Đây là danh từ riêng để chỉ cho vị Phật có tên là A Di Đà.

Chữ Phật nguyên tiếng Phạn gọi là Buddha. Tàu dịch là Phật Đà hay giác giả. Tiếng Việt dịch là Phật hay người giác ngộ, kẻ tỉnh thức. Từ ngữ cũ trong ca dao tục ngữ Việt Nam gọi là Bụt. Ví dụ câu “Bụt nhà không thiêng” chẳng hạn. Chữ Bụt cũng chỉ dịch âm từ chữ Bud mà ra. Chữ Bud có nghĩa là tỉnh thức, dha là kẻ hay người. Tiếng Đức cũng có 2 chữ đồng nghĩa này là Erleuchteter hay Erwachter, kẻ tỉnh thức. Đúng với nguyên ngữ của nó.

Vậy nếu dịch chung câu này có nghĩa là: Con đem thân mệnh này trở về nương tựa với đấng tỉnh thức, người có ánh sáng trí tuệ, đời sống lâu dài và công đức vô tận ấy. Nếu niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật chúng ta thấy gọn gàng hơn, còn niệm thành tiếng Việt Nam như vậy có điều tiện lợi là hiểu nghĩa liền, nhưng âm điệu không rung động, làm cho tâm hồn mình có thể thiết tha với lời tụng được. Tiếng Việt Nam là một ngôn ngữ như nhạc điệu, nhưng ở trường hợp này thì khó mà khế hợp được.

Hỏi: Người đã quy y rồi, nay có thể quy y lại có được không?

Đáp: Được trong những trường hợp sau đây:

Ví dụ như vị Bổn Sư của mình đã hoàn tục hay đã quá vãng, nếu còn nhớ pháp danh, cứ giữ nguyên như cũ, tìm một Thầy nào đó để nghe giới lại lúc quy y, vị Thầy này gọi là Y Chỉ Sư.

Trường hợp lúc còn nhỏ quy y, chưa hiểu biết gì và cũng không hiểu Bổn Sư là ai, cũng không biết pháp danh là gì, xem như chưa quy y, có thể quy y lại với một vị Thầy khác. Vị này gọi là Bổn Sư.

Đó là Cư sĩ tại gia.

Còn người xuất gia có thêm hai vị Thầy nữa. Đó là Thế Độ Bổn Sư, vị Thầy này cho mình xuống tóc xuất gia học đạo. Một vị khác nữa khi mình nương theo để cầu học gọi là Phú Pháp Bổn Sư hay cũng còn gọi là Y Chỉ Sư nữa.

Có nhiều người thấy vị Thầy nào hay, giỏi là xin quy y . Điều ấy sai. Sau khi đã quy y rồi thì Phật chính là một vị Thầy chung của chúng ta. Pháp là mẹ của ta và Tăng chính là người hướng dẫn ta vào nẻo thiện. Vì thế không cần phải quy y nhiều Thầy. Nếu việc ác chúng ta không bỏ, việc thiện chúng ta không làm, dầu cho quy y bao nhiêu Thầy cũng vậy.

Tuy nhiên bên truyền thống Nam Tông hầu như ngày nào cũng có thể quy y và ngày nào cũng có thể nghe giới về quy y lúc ngọ trai xong.

Hỏi: Làm thế nào để hóa giải sự phiền não?

Đáp: Phiền não do tâm sân hận mà ra. Sở dĩ có sân hận vì có tâm chấp ngã, chấp ái, chấp mình là phải, người khác là trái. Chỉ biết chuyện dở xấu của người, còn chuyện tốt thì không lưu tâm. Khi không thuận như thế thì sinh ra phiền não.

Đôi lúc vì yêu cái ta của mình quá, muốn người khác tâng bốc, nói lời ngọt ngào, nhưng cái ta ấy không được chiều chuộng, lo lắng đến thì phiền não nổi lên.

Bây giờ muốn hóa giải hay dẹp phiền não thì phải dẹp tự ngã trước, mà muốn dẹp tự ngã thì phải xem tất cả là không. Cái gì cũng không thì tâm mình sẽ được yên tĩnh. Khi tâm yên tĩnh rồi thì phiền não khó sanh. Rất đơn giản nhưng rất khó thực hiện. Tuy thế cũng không phải không có người làm được. Hãy tinh tấn lên thì việc nào cũng sẽ thành.

Hỏi: Một khi thọ ngũ giới là đủ giới thể của cả Tỳ Kheo. Vậy tại sao người thọ ngũ giới không được biết giới của Tỳ Kheo?

Đáp: Đức Phật chia giới ra từng cấp bậc khác nhau cho tại gia lẫn xuất gia để dễ hành trì.

Người tại gia có 5 giới, 8 giới, 10 giới (thập thiện) và Bồ Tát giới tại gia gồm mười giới chính và 48 giới phụ.

Xuất gia có 10 giới, 250 giới và 348 giới. Giữa Sa Di Ni và Tỳ Kheo Ni có một loại giới nữa gọi là Thức Xoa Ma Na hay nữ học giới.

Người thọ giới đầy đủ (cụ túc) có thể nghe giới của Sa Di, Bồ Tát hay ngũ giới, nhưng ngược lại người mới thọ 5 giới không được nghe giới của Tỳ Kheo. Vì lẽ tánh Tỳ Kheo do thọ giới mà thành. Còn người không thọ giới không thể thành tánh này, nên không cho nghe. Mặc dầu căn bản của Tỳ Kheo giới vẫn là ngũ giới.

Ví dụ một người học Tiểu Học và một người học Đại Học. Khi lên đến Đại Học, bắt buộc phải học qua Tiểu Học rồi. Không ai được ngoại lệ là không học Tiểu Học mà học Đại Học. Nhưng nếu bảo người học Tiểu Học làm chuyện của người học Đại Học, dĩ nhiên sẽ không thành. Vì thế có xem, có tập sự làm những công việc của người lớn cũng vô ích, vì mình chưa có khả năng hay tư cách để làm được điều này. Nói tóm lại là trong Đại Học có chứa Tiểu Học, nhưng trong Tiểu Học thì không có Đại Học, hoặc hiểu một cách khác, trong Tỳ Kheo giới có chứa ngũ giới, nhưng trong ngũ giới thì không phải giới Tỳ Kheo. Vì lẽ ấy người thọ ngũ giới chỉ biết việc của ngũ giới, người thọ thập giới chỉ biết đến 10 giới chứ không nên biết quá lãnh vực khác, nếu có tò mò để biết thì sự tò mò ấy không làm nên tư cách của một Tỳ Kheo được.

Hỏi: Trong vòng hào quang của Đức Phật và các vị Bồ Tát có nhiều màu khác nhau. Đó là ý nghĩa gì?

Đáp: Các bậc Thánh hoặc chư Phật đều có một trí tuệ siêu phàm. Trí tuệ ấy biểu hiện nơi vòng hào quang của chư Phật và chư Bồ Tát. Hào quang thường có 5 màu. Đó là xanh, vàng, đỏ, trắng và da cam. Năm màu ấy tượng trưng cho niềm tin, sự siêng năng, sự nhớ nghĩ, sự tập trung tư tưởng và trí huệ. Chúng sanh cũng có, ngoại đạo cũng có, nhưng với chúng sanh và ngoại đạo vì tâm thiện ít, tâm ác nhiều, do đó ánh sáng kia bị mờ đi. Khi nào tu hành đắc đạo, vô minh không còn nữa, thì chơn lý kia sẽ hiển bày.

Hỏi: Người đã thọ Bồ Tát giới, đến những ngày tụng giới lại bị bận bịu gia đình nên không tụng giới được. Như vậy có phạm giới không?

Đáp: Theo luật Phật dạy, mỗi tháng chư Tăng tụng giới 2 lần vào ngày 14 và 30 hoặc rằm, mùng một. Trong những ngày này chư Phật tử cũng có thể nghe những giới mà mình đã thọ như ngũ giới, Bồ Tát giới tại gia v.v... Nếu vì gia duyên còn bận buộc, không tụng được giới không có tội. Vì lý do gia cảnh, hay bị giặc, nhà cháy, lụt lội v.v... tất cả những trường hợp này đều có thể tụng giới ngắn gọn lại, không có lỗi. Trong quyển Yết Ma Chỉ Nam và Giới Đàn Tăng có giảng rõ.

Ngày nay những loại băng cassette được tụng những bài kinh hoặc Bồ Tát giới như thế. Nếu đi trong xe cũng có thể nghe được, hoặc ở nhà mở lại nghe cũng không sao. Vì duyên sự thì hầu như được châm chế, nhưng hãy cố gắng để nghe giới, khiến mình dễ huân tập chủng tử lành.

Hỏi: Khi biết mình phạm giới, có khởi tâm xấu hổ, nhưng nơi cư ngụ không có Chùa thì làm sao để sám hối?

Đáp: Sự sám hối tự đáy lòng, không cốt nơi hình tướng. Vì vậy, nếu gần nhà không có Chùa thì hãy ở nhà, đến trước bàn Phật sám hối cũng được. Nếu nhà không có bàn Phật, tìm một chỗ nào đó yên tĩnh để ngồi lại, quán xét những hành vi của mình và sám hối nơi tự tâm, để tâm được thanh tịnh.

Hỏi: Không được ở gần Chùa, ở nhà một mình tụng giới có được không?

Đáp: Không có gì trở ngại cả. Những ngày chay vào 14, 30 hay 15, mồng một là những ngày thanh tịnh. Ở đâu cũng có thể tụng giới được cả. Trước bàn Phật ở nhà, hay ở Chùa, Viện, Am, Thất v.v... tất cả đều tụng được.

Đúng ra trong Bồ Tát giới kinh có giới nói rằng: Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ nhơn là mẹ ta. Vì vậy ta không ăn thịt của chúng sanh. Nếu ăn thịt chúng, tức chúng ta đã ăn thịt mẹ ta hoặc cha ta. Đây là việc thể hiện lòng từ bi đối với muôn loài muôn vật, nên người thọ Bồ Tát giới được khuyến khích nên ăn chay trường. Nhưng khi ra ngoại quốc, cũng có nhiều nơi phương tiện nên cho phép những người thọ Bồ Tát giới chỉ ăn 10 ngày chay cũng được. Do đó ngày tụng giới nên nhằm vào những ngày chay thì thanh tịnh hơn.

Hỏi: Tại sao người tật nguyền không được thọ giới?

Đáp: Người xuất gia phải có oai nghi tế hạnh để người khác nhìn vào cung kính, phát tâm, khiến cho Đạo được trụ thế dài lâu. Mỗi vị Tỳ Kheo hoặc Tỳ Kheo Ni theo đúng luật phải trang nghiêm đến 3.000 oai nghi đi đứng nằm ngồi trong 250 giới nhân với 4 động tác ấy thành 1.000 loại. Trong 3 đời quá khứ hiện tại và vị lai phải có, tức là 3.000 oai nghi vậy. Nếu đi hoặc đứng hoặc ngồi hoặc nằm mà không trang nghiêm thì không thành oai nghi. Ví dụ một người vì lý do nào đó bị cụt tay, cụt chân v.v... thì không được thọ giới. Tuy nhiên có thể được phép xuất gia để làm cái nhân lành cho đời sau, khiến sẽ được xuất gia thọ giới. Cũng có nhiều người xuất gia thọ giới rồi mới bị tật nguyền thì trường hợp này vẫn được sử dụng y áo trong khi đi đứng nằm ngồi.

Hỏi: Trong khi hái trái cây của người khác, đã không nhớ đến việc thọ giới. Như vậy tội có nặng không? Và nên sám hối trước Tam Bảo hay trước người chủ?

Đáp: Ví dụ một người chưa học luật đi đường, thấy đèn đỏ vẫn đi bộ qua, hay chạy xe qua, rất nguy hiểm. Tuy nhiên có thể tha thứ được. Nhưng nếu đã có bằng lái xe và đã học luật lệ đi đường rồi mà đèn đỏ vẫn cứ vượt qua, dầu cho vô tình hay cố ý, đều phải bị phạt cả. Khi đó nếu có Cảnh Sát sẽ bị phạt nặng hơn. Nếu không có, nhẹ hơn một chút, nhưng lương tâm của mình phải tự sám hối lấy.

Có hai cách để giải quyết vấn đề trên. Một là nên đến người chủ để nói rõ sự lỗi lầm của mình và đền tiền bạc cho họ. Nếu không có người chủ, phải phát nguyện trước Tam Bảo là từ nay xin chừa những việc làm không đúng giới luật ấy nữa.

Hỏi: Bát Quan Trai Giới là gì?

Đáp: Bát là 8, Quan là cửa ngõ, Trai là thanh tịnh. Dịch chung có nghĩa là 8 cửa ngõ thanh tịnh để đi vào cửa Đạo. Đây là 8 giới của người Phật tử tại gia tu tập trong một ngày một đêm, 24 tiếng đồng hồ.

- Giới thứ nhất không được sát sanh

- Giới thứ hai không được trộm cướp

- Giới thứ ba không được tà dâm

- Giới thứ tư không được nói dối

- Giới thứ năm không được uống rượu

- Giới thứ sáu không được đeo chuỗi anh lạc tràng hoa thơm, không xoa ướp dầu thơm vào mình

- Giới thứ bảy không ngồi trên giường cao tốt đẹp, không làm trò nhạc ca múa và cố đi xem, nghe.

- Giới thứ tám không được ăn phi thời.

Phật chế 8 giới này cho người tại gia có cơ hội xuất gia, tu tập một ngày một đêm để thực hành hạnh của người xuất gia.

Ngày xưa khi Phật còn tại thế, lúc bấy giờ Ngài ở thành Vương Xá gần vườn Trúc Lâm, thấy vua Tần Bà Sa La bị con là A Xà Thế, theo lời xúi giục của Đề Bà Đạt Đa nên đã nhốt cha mình vào ngục thất, nhà vua đau đớn khôn nguôi, mặc dầu đã được Hoàng hậu Vi Đề Hy mang cho thức ăn vào ngục thất, nhưng vua vẫn không an lòng. Đức Phật biết tâm niệm của vua Tần Bà Sa La nên Ngài đã chế ra phép Bát Quan Trai cho nhà vua hành trì. Sau đó vua đã được sanh thiên từ nơi ngục thất ấy.

Ngày nay nếu chúng ta hành trì Bát Quan Trai giới nhiều ngày trong tháng hay trong năm thì công đức cũng không nhỏ. Một ngày tu Bát Quan Trai bằng tu một năm tại gia, nên đã có nhiều Phật tử về Chùa tu phép này. Phép này cũng có thể tự tu ở nhà được. Nếu nhà không gần Chùa, hoặc không có cơ hội đi Chùa.

Trong 24 giờ thọ giới không được hút thuốc, ăn trầu, không được nói lớn tiếng, không được ra khỏi vườn chùa v.v... mà lúc nào cũng tâm niệm tưởng nhớ đến Phật hoặc ngồi thiền để tâm trí được thảnh thơi, thanh tịnh.

Hỏi: Theo Nam Tông và Tây Tạng người nữ không được thọ giới Tỳ Kheo Ni hoặc 10 giới. Tại sao có sự khác biệt ấy với các xứ Phật giáo theo Bắc Tông?

Đáp: Thời Đức Phật còn tại thế, Ngài đã cho bà di mẫu Kiều Đàm Di và 500 mệnh phụ phu nhân xuất gia và cũng còn nhiều người kế tiếp nữa, sau bà Kiều Đàm Di đã lập giáo đoàn bên Ni. Nhưng truyền thống này chỉ kéo dài chừng 500 năm thì hết, không còn thịnh hành bên Nam Tông nữa. Chính Công chúa Shangamitta, con gái vua A Dục, cũng là một Ni Cô đã mang cây Bồ Đề từ Thánh Địa Bồ Đề Đạo Tràng sang đảo Tích Lan vào cuối thế kỷ 3 trước Công nguyên. Như vậy Đạo Phật vào Tích Lan từ một Ni Cô và sau đó Ngài Mahinda, Thái Tử con vua A Dục mới đến, rồi tiếp theo chư Tăng, chư Ni đến đảo quốc này. Nhưng ngày nay truyền thống Ni giới bên Nam Tông cũng không còn nữa ngay tại Tích Lan.

Có một vài nơi tại Tích Lan, Ni vẫn đắp y vàng đi khất thực, không biết điều này có được Giáo hội Tích Lan chính thức chấp nhận chưa, không rõ, nhưng dường như cũng có một vài khuynh hướng muốn khôi phục lại truyền thống Ni giới bên Nam Tông.

Riêng Phật giáo Tây Tạng được truyền thẳng từ Ấn Độ sang vào thế kỷ 6 sau Công nguyên, lúc bấy giờ có lẽ truyền thống của Ni bộ không còn tại Ấn Độ nữa, nên không du nhập sang. Và ngay cả bây giờ những người Tây Phương khi xuất gia, học đạo với Phật giáo Tây Tạng cũng phải qua Đài Loan hoặc Việt Nam để thọ giới Tỳ Kheo Ni, sau đó mới về hợp thức hóa lại bên Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma, Giáo chủ của Phật giáo Tây Tạng cũng đang nghiên cứu lại vấn đề này. Biết đâu Tây Tạng sẽ có được giới luật riêng cho Ni giới.

Hiện các nước Nam Tông chỉ cho người nữ xuất gia, cạo đầu, thọ 8 giới và mặc y trắng như là một Bạch y Cư sĩ chứ không được phép thọ Tỳ Kheo Ni.

Hỏi: A Lợi Da Thức là gì?

Đáp: Đây thuộc loại siêu tâm lý học của Phật giáo. Nếu nói rộng chừng vài trăm trang sách, nói hẹp cũng 9 hay 10 trang mới định nghĩa và giải thích cặn kẽ được. Tuy nhiên để mọi người cùng có một khái niệm tổng quát về vấn đề trên, xin trả lời vắn tắt như sau:

A Lợi Da Thức có nghĩa là tâm vương. Vậy tâm vương là gì? Có nghĩa là tâm chủ, tâm chính, tâm đúng đắn. Tâm này có sức chứa giữ mọi dữ kiện trong nhiều đời nhiều kiếp để tái sinh trong vòng sanh tử luân hồi, nên gọi là A Lợi Da Thức. Khi nói tâm chủ thì phải có những tâm phụ thuộc. Vì vậy tâm vương có đến 51 loại phụ thuộc khác, ở nhiều dạng khác nhau để sinh ra vui, buồn, giận, hờn, thương, ghét, oán, hận, hôn mê, trạo cử, lăng xăng, loạn động, nghi, hối, bướng bỉnh v.v... Trong thân chúng ta có 8 loại chủ thể chính. Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mạt na thức (thức chấp ngã) và A Lợi Da Thức (thức chứa đựng), mỗi loại này làm chủ điều của mình có và đối tượng phải có, từ đó sinh ra nhận thức của nó. Ví dụ mắt dùng để nhìn. Bông hoa là một đối tượng để mắt thấy. Khi thấy được bông hoa rồi, sinh ra nhận thức đẹp hay xấu v.v... tất cả những hình ảnh và nhận thức này nó sẽ huân tập và xuyên qua thức chấp ngã để phân biệt rồi đem vào chứa chấp nơi A Lợi Da Thức, để có dịp là chúng sẽ tái xuất hiện lai.

Một ví dụ khác dễ hiểu hơn. Như có hai người bạn thân nhau từ lúc nhỏ, lớn lên vì sự học hành và công ăn việc làm nên mỗi người mỗi ngả. Ai ai cũng tìm kế để sanh nhai, nên quên bẵng đi tình bạn bè tri kỷ, vì ai cũng có gia đình và sự nghiệp riêng để lo. Bỗng một hôm, cách đó chừng 30 năm sau, gặp lại người bạn cũ ở ngoài đường, nhìn dáng đi, nghe tiếng nói giống quá nên mới cận kề lại để hỏi thăm, tay bắt mặt mừng và chào hỏi nhau không ngớt. Nào là: Sao mà thay đổi nhiều thế? Phát tướng ra chứ hồi xưa đâu có thế? Nào là: Có gì lạ không? Nhà cửa con cháu ra sao v.v... và v.v... Vậy sự sực nhớ ra đó nó chứa nơi A Lợi Da Thức, mà một người dầu xa nhau lâu năm cách mấy cũng có thể nhận ra được. Đó là chưa nói những sự cách xa nhau trong vạn nẻo luân hồi nữa. Có nhiều người sinh ra ở kiếp sau mà còn nhớ nhà cha mẹ cũ của mình ở kiếp trước để tìm về. Đó là những người có A Lợi Da Thức mạnh, nên lâu quên. Còn đa phần bị vô minh, phiền não che lấp nên quên hết, ngay cả những gì đang xảy ra trong đời này. Ví dụ mới gặp người đó hôm qua mà nay gặp lại đã quên, chứng tỏ rằng A Lợi Da Thức của người đó không có sức chứa nữa, nên những hình ảnh ngày hôm qua không còn nằm trong tạng thức, nên mới ngớ ngẩn như vậy. Hoặc giả cũng có nhiều người đang cầm cái kiếng hoặc điếu thuốc trên tay trái, nhưng cứ đi tìm những vật này ở một nơi khác. Ở đây chủ thể không chủ động được việc làm của họ.

Một ví dụ khác để chứng minh cho sự hiện hữu của A Lợi Da Thức. Ví dụ một người đã biết đi xe đạp rồi, sau đó bỏ đi xe chừng ba hay bốn mươi năm, một hôm có cơ hội ngồi lên xe đạp, vẫn có thể đi được. Đây là một loại phản xạ có điều kiện. Nghĩa là một người không biết đi xe đạp trước đó, thì không có điều kiện để đi trong ba chục năm sau. Nhưng Phật giáo thì bảo rằng: đây là sự tàng chứa nơi A Lợi Da Thức nên người ấy mới nhớ lại mà đi được. Nếu không có sự tàng chứa ấy, chắc chắn người kia cũng sẽ không đi được, giống như một người chưa biết đi xe vậy.

Hỏi: Sự khác biệt giữa Hoa Nghiêm Tam Thánh và Tây Phương Tam Thánh như thế nào?

Đáp: Hoa Nghiêm Tam Thánh là Tỳ Lô Giá Na Phật, Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát. Có nơi nói Thích Ca Mâu Ni Phật và Văn Thù, Phổ Hiền. Thật ra Tỳ Lô Giá Na Phật cũng là hóa thân của chư Phật mà thôi và Ngài Văn Thù, Phổ Hiền cũng là hóa thân của chư vị Bồ Tát khác.

Ngài Văn Thù ngồi trên con sư tử xanh và cầm một cây kiếm. Ý nói sức mạnh của giáo pháp và cây kiếm ấy đoạn trừ phiền não để trí tuệ được phát sanh.

Ngài Phổ Hiền cưỡi trên bạch tượng 6 ngà, tượng trưng cho hạnh nguyện của chư vị Bồ Tát, vào đời để cứu khổ độ sanh. Trên tay Ngài cầm một cánh sen. Ngài Phổ Hiền tượng trưng cho tình thương.

Hai vị này là hai bậc Thượng thủ Bồ Tát hay hầu cận Đức Phật Thích Ca, khi Ngài thuyết pháp ở Đao Lợi Thiên Cung, Đâu Suất Cung hay nơi cõi Diêm Phù Đề này. Các vị này không có hình tướng bằng da bằng thịt và không có lịch sử như các vị khác, thế nhưng Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng các vị này là hóa thân để độ sanh.

Tây Phương Tam Thánh đó là Đức Phật A Di Đà, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và Đức Đại Thế Chí Bồ Tát. Ba vị này đều ở nơi cõi Tây Phương Cực Lạc. Các Ngài có lời nguyện rằng trước khi lâm chung có chúng sanh nào ở cõi Ta Bà này nếu nhất tâm niệm đến danh hiệu của Ngài thì Ngài sẽ cùng hai vị Bồ Tát Quán Âm và Thế Chí đến tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Nơi đó như trong kinh A Di Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ có giảng rõ là không còn luân hồi sanh tử nữa. Cõi đó cũng là cõi Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ.

Đức Quán Âm tượng trưng cho tình thương và Đức Thế Chí tượng trưng cho trí tuệ. Cả hai vị này rất gần gũi với Phật tử theo các nước Đại Thừa. Riêng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có 32 tướng biến hóa để độ sanh. Nên dưới nhiều hình thức, Ngài đã cận kề với chúng sanh ở thế giới Ta Bà này rất nhiều, mặc dầu Ngài cũng có công hạnh là luôn luôn hầu cận bên Đức A Di Đà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Ngoài ra có nơi còn gọi Thích Ca Tam Thánh nữa. Đó là Đức Thích Ca, Ngài A Nan và Ngài Ca Diếp. Đa số các chùa Đại Thừa và các nước theo Phật giáo Nam Tông đều thờ như thế. Ngài Ca Diếp là đệ tử được truyền thừa tâm thiền từ Đức Phật. Ngài A Nan là đệ tử Nhị Tổ thuộc đa văn đệ nhất. Cả hai Ngài này có nhiệm vụ quan trọng là mang tâm thiền để tiếp tục truyền thừa. Trong khi đó Ngài Kiều Trần Như tuy là đệ tử đầu được chứng quả A La Hán cũng như được độ lần đầu tiên, nhưng không phải là người được truyền thừa tâm ấn. Như vậy ở đây một điều được đặt ra là, người đến đầu tiên với giáo lý của Đức Phật cũng chưa phải là người nắm giữ mạng mạch của Phật Pháp. Chỉ có những người nào liễu ngộ được chân lý, thì kẻ ấy mới xứng đáng để được truyền thừa, nên Đức Phật đã truyền cho Ngài Ca Diếp là vậy.

Tóm lại Hoa Nghiêm Tam Thánh hay Tây Phương Tam Thánh hay Thích Ca Tam Thánh không giống nhau hoàn toàn mà cũng không khác nhau. Lý do là nơi nào cũng có hiện thân của Đức Bổn Sư Thích Ca và tùy theo thế giới, tùy theo căn cơ và trình độ cũng như quốc độ mà các Ngài thị hiện để hóa độ chúng sanh nơi các cõi đó. Khi Đức Thích Ca hiện thân ra Tỳ Lô Giá Na Phật lúc nào cũng có Ngài Văn Thù và Phổ Hiền hầu cận. Đây là những thế giới cao hơn thế giới của loài người. Thuyết pháp nơi đó chỉ cần đến tâm thức chứ không cần đến hình tướng.

Còn Đức Phật Di Đà, Ngài Quán Âm, Thế Chí thì ở cõi Tây Phương nhiều hơn, trong khi đó Ngài Ca Diếp và Ngài A Nan lúc nào cũng thị hiện bằng xương bằng thịt và ở trong thế giới này chứ chưa bao giờ thấy theo Phật đi vào Thiên cung hay Long cung bằng thần thức, mà những nơi cao xa ấy đã có Ngài Văn Thù và Phổ Hiền hầu cận rồi.

Hỏi: Trong giáo lý của Đức Phật hay nhắc đến bát phong và bát nạn. Vậy hai vấn đề này có liên quan với nhau không?

Đáp: Thật ra đây là cách đếm theo pháp số. Tuy rằng hai chữ bát cũng có nghĩa là 8, nhưng mỗi bên khác nhau. Hầu như không có gì liên quan với nhau cả.

Bát phong gồm có: lợi, suy, xấu, tốt, khen, chê, cực, sướng.

Còn Bát nạn là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Bắc cu lô châu, trời Trường thọ, đui điếc câm ngọng, Thế trí biện thông và sinh ra trước Phật hay sau Phật. 8 loại sau này gọi là chướng nạn.

Để đi vào từng chi tiết, chúng ta thử phân tách như sau:

Phần Bát phong là 8 loại gió, nhưng nhìn chung chỉ có 4 cặp đi song hành với nhau: lợi đi với suy - xấu đi với tốt - khen đi với chê - và cực đi với sướng.

Khi gió danh lợi đến chúng ta đều vui mừng đón nhận, nhưng rồi một ngày nào đó con tạo xoay vần thay đổi, sự giàu sang ấy không bao giờ vững bền nữa, gọi là suy. Ở đời tiếng tốt đi qua cũng đồng nghĩa là tiếng xấu sẽ đến. Khi người ta khen mình cũng có nghĩa là người ta sắp chê mình. Sống sung sướng bây giờ cũng có nghĩa là làm cái nhân khổ cực trong mai hậu. Bốn cặp sóng đôi này rất có ý nghĩa và bổ sung với nhau, nhưng thói thường chúng ta hay biết lúc vui chứ không để ý đến lúc buồn, hay để ý lúc giàu mà không lưu tâm về sự nghèo khổ v.v... nên người học Phật cốt phải hiểu sự vô thường là thế và phải chấp nhận sự thay đổi của vô thường. Điều căn bản là phải làm sao tạo được sự an lạc nơi chính mình. Nếu tâm mình không có an lạc thì cũng sẽ không mang đến cho người khác một sự giúp đỡ về tinh thần nào xứng đáng cả. Tất cả chúng ta đều sống trong cảnh khổ, bị tham ái buộc ràng, nhưng nếu chúng ta biết ý thức về vô thường, khổ, không và vô ngã thì chắc chắn tâm ta sẽ được an lạc và ta sẽ chuyển hóa khổ đau thành an lạc tự tại. Nếu không, sự khổ đau sẽ chuyển hóa chúng ta đi vào cảnh khổ và mãi mãi đọa lạc trong luân hồi sanh tử.

Bát nạn là 8 nạn mà một người sinh ra trong đời gặp phải như vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là những nơi không có ánh sáng trí tuệ, không biết bao giờ mới được làm người. Vì thế cần phải nương nơi Tam Bảo, học hạnh giải thoát trong kiếp này để mai sau không thác sanh vào 3 cảnh khổ này. Những người sanh về Bắc Cu Lô Châu hay Trường Thọ Thiên là những cõi trời chỉ hưởng vui dục lạc, khó tu, nên đó cũng là chướng nạn. Đui điếc và câm ngọng cũng là chướng nạn. Vì lẽ được sanh làm người mà không đầy đủ lục căn cũng là một nạn khổ do đời trước gây nên. Thế trí biện thông là những người chỉ lo học rộng biết nhiều nhưng không lo tu. Đó cũng là một chướng nạn. Chướng nạn thứ 8 là sinh ra trước Phật hay sau Phật, vì không có nhân duyên gặp Phật để học học giáo lý của Ngài.

Hỏi: Pháp Phật như thuốc. Mà thuốc thì không nên uống bừa. Vậy có pháp môn nào mà cư sĩ không nên tu hay không? Như chú Lăng Nghiêm chẳng hạn?

Đáp: Điều ấy đúng, nhưng chỉ đúng có một phần. Lý do, nếu người có trí thì dùng thuốc ấy một cách thích hợp điều độ, nếu người vô trí thấy thuốc nào cũng quý nên uống bừa vào, cơ thể này không chấp nhận một lúc một cách dễ dàng đến thế, có thể sinh bịnh ngay. Vì vậy cần phải có trí tuệ phán đoán trước khi thực hành giáo lý.

Ở đây cũng thế, kinh hay chú Lăng Nghiêm có công năng giúp ta tìm lại được tâm của mình hiện lưu lạc nơi đâu và chính thần chú Thủ Lăng Nghiêm giúp ta có được tự chủ, không bị chi phối bởi sắc dục bên ngoài. Là người cư sĩ vẫn có thể tu được. Điều đó để ngăn ngừa lòng ham muốn. Vì sự ham muốn nó không cùng. Hết cái này nó đến cái khác, không có sự dừng nghỉ. Cái này đến cái kia đi và cứ thế liên tục nhau thay đổi để tồn tại và phát triển. Vì vậy ngăn tâm và giữ giới là điều căn bản để đi đến sự an lạc, không nhất thiết phải là Tăng sĩ mới làm được điều đó.

Hỏi: Tại sao mỗi buổi sáng phải tụng kinh Lăng Nghiêm và tụng kinh Lăng Nghiêm sẽ có lợi gì?

Đáp: Người đời khi làm một việc gì thường hay nghĩ đến lợi hay hại trước, mà nhất là lợi thì mới làm. Cái nào lợi càng nhiều, vốn càng ít thì rất ham, nhưng ít ai thấy được điều tai hại của nó. Ví dụ như cái lợi của xe chạy nhanh là thải độc tố ra nhiều, khiến cho thiên nhiên bị hại, gây ô nhiễm môi trường, mà môi trường ô nhiễm thì con người sẽ bị hủy hoại trước.

Khi tụng kinh, tâm nghĩ tới lời kinh, miệng đọc tụng lời kinh, thân trang nghiêm trước điện Phật, ít nhất là trong vòng một tiếng đồng hồ. Như thế ít ra trong một tiếng đồng hồ này miệng, thân và ý của mình không làm những việc ác. Ấy là lợi rồi. Thân không sa đọa, trụy lạc, tâm không suy nghĩ điều xằng bậy, miệng không nói lời thô ác. Chỉ chừng ấy đã là một điều lợi rất lớn rồi.

Các vị Tổ vẫn để nguyên âm tiếng Phạn như vậy cho chư Tăng tụng mỗi sáng, có lẽ mục đích của các Ngài cho chư Tăng giữ một đại định sâu thẳm. Nếu tâm vọng niệm, tán loạn sẽ dễ bị phân tâm, kinh đã tụng sai, mà tâm lại không được chánh niệm. Nếu vào ngôi nhà Phật Pháp để tìm của báu mà thấy cái gì cũng tầm thường hết thì người đi tìm cầu đâu cố công nhọc sức làm gì nữa. Vả lại nếu có vào cũng chả lấy được gì, nên lại ngưng ngay ở ngoài cửa. Ngược lại kinh Lăng Nghiêm là một của báu vô giá, chư Phật và chư Bồ Tát thường hay an trụ nơi đỉnh đầu mỗi khi phóng hào quang. Do đó giá trị còn cao quý gấp vạn lần so với các kinh khác. Có nhiều người tụng kinh Lăng Nghiêm không hiểu nên đòi phải dịch ra cho dễ hiểu, nhưng thần chú thì chỉ có những bậc đại giác ngộ mới tự hiểu nhau thôi, còn phàm phu như chúng ta làm sao hiểu hết nổi. Âm điệu của các Ngài nói nơi cao. Còn sự hiểu biết của chúng ta vẫn còn nơi hạ giới, nên không thể hiểu. Khi ta mở máy Radio ra để dò đài, nếu làn sóng chưa đúng thì không phát ra âm thanh, chúng ta chỉ nghe có tiếng ồn. Cũng như thế, đài của chúng ta và đài của chư Phật có hai làn sóng phát và nhận khác nhau, nên chúng ta chưa nghe được âm thanh đấy thôi. Nếu chúng ta tinh tấn lên mãi, khi thành Phật, chúng ta sẽ có khả năng để hiểu các Ngài.

Hỏi: Cõi này là cõi tạm. Tại sao có nhiều người vẫn muốn sống lâu, ngay cả người tu?

Đáp: Sự sanh diệt là do nghiệp lực và nhân duyên, không ai có thể kéo dài mạng sống hơn được khi nghiệp duyên đã mãn. Ngoại trừ những bậc Đại giác Thế Tôn. Nhiều người muốn chết cũng không chết được. Vì nghiệp xưa chưa trả xong. Vì vậy sự sống chết, lành dữ là do mình đã gây nghiệp ở đời trước, bây giờ chỉ trả quả mà thôi.

Còn người tu, nếu là hiện thân của Bồ Tát hay Phật, họ muốn sống lâu hơn hay được yêu cầu sống lại với đời lâu hơn vì mục đích độ sanh. Nếu không vì mục đích độ sanh mà ở lại với đời thì điều ấy vô nghĩa. Vì người tu không vì sự lợi dưỡng cho chính bản thân mình mà tồn tại trong thế gian này. Sự tồn tại hay sự ra đi của những vị tu hành đều do nhân duyên mà có được.

Hỏi: Có nhiều người muốn đi xuất gia, nhưng cha mẹ lại ép lập gia đình. Ngược lại có nhiều người muốn lập gia đình mà cha mẹ lại khuyên xuất gia. Vậy phải làm như thế nào để được tròn đạo hiếu?

Đáp: Đúng là do nhân duyên và nghiệp lực mà ra. Một người đi xuất gia được, công đức rất lớn, không những cho mình mà còn cho thân bằng quyến thuộc của mình nữa. Nên người Việt Nam khi thấy một người đầu tròn áo vuông thì bảo rằng người ấy có căn lành. Có nghĩa là có cái gốc rễ thiện từ trong vô lượng kiếp, nên đời này mới được đi xuất gia. Người Hoa gọi là có nhân duyên v.v... tất cả những danh từ ấy hàm chứa ý nghĩa tốt đẹp đối với công đức xuất gia. Ai trong chúng ta cũng hiểu được điều ấy, nhưng thực hành được không phải dễ. Khi xuất gia có nghĩa là cắt đứt sự liên hệ với gia đình, cho nên nhiều bậc cha mẹ nghĩ rằng đó là sự bất hiếu, vì không có người lo nối dõi tông đường. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, người xuất gia mới là người trọn vẹn 100% cho đạo và cho gia đình. Nếu ở đời để lập gia đình sinh con đẻ cái, thì người con đó chỉ còn 50% cho gia đình mà thôi, cho Đạo cũng không được một sự lợi lạc nào trọn vẹn. Vì sao thế? Vì 50% còn lại phải lo cho vợ con hoặc cho chồng con, chứ có người con nào suốt đời có thể lo cho cha mẹ được đâu? Trừ trường hợp người con ấy sống độc thân để lo cho cha mẹ. Nếu đã có gia đình, tất phải lo cho gia đình. Đó cũng là cách báo hiếu theo người tại gia. Nhưng điều này mới chỉ là phần hình tướng, còn phần tâm linh xem như trống rỗng. Trong khi đó, người xuất gia tuy không phụng dưỡng cha mẹ được chén cơm chung nước, nhưng người xuất gia có thể tu học tinh tấn, đem công đức ấy về hỗ trợ cho cha mẹ về mặt tinh thần và cả thân tộc nữa. Công đức ấy không nhỏ.

Nếu ở đời lập gia đình, gặp trường hợp khá giả, dư ăn dư để thì có thể phát tâm giúp đời, giúp người, cúng dường Tam Bảo v.v... nhưng nếu nghèo nàn khổ sở thì đầu tắt mặt tối, đâu có thì giờ để lo chuyện công ích? Ngay cả cho bản thân mình còn không lo được, làm sao lo cho người khác.

Vậy nếu được, chí nguyện xuất gia cứ nên giữ, chờ lo hiếu đạo cho cha mẹ xong, lúc ấy đi xuất gia cũng không muộn. Như vậy bên đời bên đạo vẫn được vẹn toàn. Nhược bằng chí xuất gia đã quyết thì cũng có thể ra đi học đạo. Việc ấy tuy bất hiếu trong chốc lát, mà có thể trả hiếu cho nghìn đời, há không có lợi hơn sao? Tuy nhiên, điều này tùy thuộc nơi ý chí của mỗi người. Nếu ý chí mạnh thì việc gì cũng thành công được cả.

Ngược lại có nhiều bậc cha mẹ hiểu đạo, thấy cuộc đời này khổ nhiều hơn vui, đắng cay nhiều hơn hạnh phúc, tai ương nhiều hơn an lạc, nên đã khuyên con mình xuất gia tu học, nhưng với trường hợp này lại trái ngược với trường hợp trên, con cái lại không muốn mà nó còn xem cuộc sống như là một cứu cánh, tình duyên là chất mật ngọt chưa thể buông bỏ. Trong khi đó, cha mẹ ý thức được như trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, chương thứ 23 có dạy rằng: “Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.”

Có nhiều bậc cha mẹ khuyên con rằng: “Cuộc đời này khổ lắm con ơi, hãy xuất gia học đạo để được công đức to lớn.” Nhưng người con không thích đi tu trả lời rằng: “Con thấy đời ba mẹ cũng có khổ gì đâu, nên con chưa xuất gia.” Đúng là một câu trả lời đáng ghi nhớ. Điều ấy đứa con chỉ thấy được trong cảnh sống sung túc của gia đình, chứ chưa chứng kiến được những cảnh khổ khác trên thế giới, trong cuộc đời, hay ở nhiều cảnh giới khác nữa. Phải chi hai trường hợp này đổi lại cho nhau thì hay biết mấy. Nghĩa là người thích xuất gia thì được sinh vào trong gia đình có cha mẹ hiểu đạo. Còn người không thích xuất gia thì sinh vào trong gia đình mà cha mẹ không thích cho con mình đi tu, quả thật phù hợp biết bao nhiêu. Nhưng đời không là thế. Nếu không có Đề Bà Đạt Đa thì sự thành đạo của Đức Phật đâu mang một ý nghĩa trọn vẹn về lòng từ. Nếu không có chướng duyên thì đạo nghiệp làm sao có thể thành tựu được. Do đó, việc trở ngại trong đường tu chỉ là chuyện tất yếu mà thôi. Nếu đã có tâm, thì trước sau cũng sẽ thành tựu.

Hỏi: Sau khi đi xuất gia một thời gian, nếu không muốn ở trong chùa nữa, có thể về lại với cuộc sống của người thế tục không?

Đáp: Điều ấy được, không có gì trở ngại cả. Trong luật Phật dạy rằng người nam có thể xả giới đến 7 lần để vào và ra chùa. Trong khi đó người nữ chỉ được một lần. Có lẽ đây là sự bất công chăng? Nhưng xét trên thực tế thì điều ấy đúng. Vì người nữ nếu trở về lại đời sống dân dã, phải lập gia đình, nuôi con cái lớn khôn, lúc ấy cũng đã hơn phân nửa đời người rồi, không có khả năng sinh sản nữa, nên chỉ được phép một lần, có lẽ nằm trong ý nghĩa ấy. Trong khi đó người nam không bị bó buộc bởi sự nuôi con như người nữ và dầu ở độ tuổi nào thì họ cũng có khả năng truyền giống lại cho đời sau và vì thế nên được vô ra nhiều lần. Có lẽ đây là phong tục của các xứ Nam Tông, chứ Bắc Tông thì rất hiếm, nhiều lắm là 2 đến 3 lần mà thôi. Người Phật tử Bắc Tông quan niệm rằng nếu không tu tại Chùa được, ở tại gia họ cũng có thể tu theo Bồ Tát hạnh, nên ít ai vào ra chùa để xuất gia nhiều lần là vì lý do ấy.

Cũng như một người gánh một gánh trên vai rất nặng, họ không thể san sẻ cho ai được nữa thì họ có quyền để gánh xuống nghỉ ngơi, sau đó gánh đi tiếp, hoặc cũng có quyền từ chối không gánh đi nữa, vì lý do sức khỏe. Không ai có quyền ép buộc một người không đủ sức làm một chuyện quá nặng nề. Khi họ đi xuất gia cũng chính họ đã tự nguyện thì khi họ muốn trở về lại với thế tục cũng chính tự họ lượng sức của mình mà thôi. Việc xuất gia tu học là việc tự giác và do đó việc trở lại thế tục cũng nằm trong ý nghĩa này.

Cũng có nhiều người đã xuất gia rồi, nhưng cha mẹ già không ai trông nom, nên đã hoàn tục một thời gian để lo báo hiếu phụng dưỡng cha mẹ, sau khi cha mẹ qua đời rồi, mới vào Chùa tu lại. Hình ảnh hiếu hạnh này có rất nhiều trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc cũng như Việt Nam. Hoặc giả khi quốc gia có giặc ngoại xâm, là người công dân của quốc gia đó, mặc dầu đang mang hình thức Tu sĩ, nhưng đối với đất nước phải có bổn phận bảo vệ non song, nên cũng có thể hoàn tục để thay pháp y bằng chiến bào, đi đánh giặc. Sau khi giặc yên, non sông hòa bình, trở lại cuộc sống tu hành như cũ. Việc này lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng đã có rất nhiều. Ví dụ như Ngài Minh Giác Thiền Sư, trú trì Chùa Phước Lâm ở Hội An, Quảng Nam. Khi giặc Chiêm Thành qua biên giới Việt Nam quấy phá, Ngài đã hoàn tục và làm một vị Tướng giỏi bình phá quân Chiêm. Sau khi thắng trận trở về, để đền lại lỗi xưa, vì bảo vệ non sông mà giết giặc, Ngài đã quét chợ Hội An 20 năm, tương đương với thời gian đi đánh giặc, để thể hiện lòng từ bi đối với Dân Tộc và muôn loài. Ân đức ấy hậu thế không nên quên.

Nhưng cũng có lắm kẻ không thể tiếp tục ở lại trong Chùa vì đời sống nhà Thiền quá khô khan và kỷ luật. Khi còn ở thế tục thì thấy cuộc sống tu hành là giải thoát, nhưng khi đã sống trong cảnh giải thoát rồi, vẫn thấy mình bị ràng buộc như thường. Đây là sự mâu thuẫn giữa nội tâm và ngoại cảnh. Cho nên đã có lắm người tu than rằng: Khi con còn là cư sĩ nhưng tâm con luôn hướng về đời sống Tăng sĩ, nhưng khi con đã mặc được chiếc áo Tu sĩ rồi thì tâm con lại giống như tâm của Cư sĩ thuở nào. Đây có thể là một sự thất vọng, khi chưa tìm hiểu kỹ càng trước khi vào cửa đạo. Hoặc giả khi đã ở trong Chùa rồi, nhưng gặp lắm cảnh nghịch duyên chăng?

Thật ra ở đâu cũng vậy, vì đây là chốn Ta Bà mà, do đó khổ đau và tục lụy vẫn vây bủa ta. Điều quan trọng là ta có làm chủ được ta không, chứ không nên đổ thừa cho ngoại cảnh. Vì ngoại cảnh chỉ là vật bị động. Chỉ có tâm ta mới là chủ động mà thôi. Nếu mình không làm chủ được mình thì kẻ khác sẽ làm chủ tâm mình, kẻ ấy tức là ma, sẽ sai khiến mình làm những điều tội lỗi. Vì vậy Đức Phật mới dạy rằng: “Chiến thắng muôn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất.”

Ở Việt Nam tuy khó tu nhưng lại có những điều thuận lợi. Vì lẽ đời sống vật chất tuy cơ cực, nhưng trên mình luôn có những bậc trưởng thượng, nếu ta sai trái sẽ luôn luôn có người dìu dắt, hướng dẫn. Còn ở đây, ngoại quốc này vật chất dư thừa. Tuy dễ sống nhưng rất khó tu. Vì nếu ai không làm chủ được tâm mình, sẽ dễ bị lôi kéo vào con đường tội lỗi.

Tóm lại việc vào Chùa hay ra khỏi Chùa, tất cả đều tùy thuộc nơi đương sự chứ không do nơi giáo quyền hoặc ngôi chùa. Ví dụ như trường học, vị Thầy và học trò cho dễ hiểu. Sở dĩ người học trò không học được vì chính trò ấy không siêng năng, chứ không phải vì ngôi trường hay vì Thầy dạy. Ngôi trường nó vô tội, chỉ là lò đúc ra nhân tài thôi và Thầy dạy chỉ là một người hướng đạo. Trong khi kẻ ấy không thành công, thì cũng có rất nhiều người được đào tạo tốt. Vậy thì sự thành công hay thất bại đều do nơi khả năng của người học trò.

Hỏi: Ở tại chùa có thể lập gia đình không? Tại sao Phật giáo Nhật Bản có thể làm được, mà các nước Phật giáo khác không có?

Đáp: Điều cần trả lời ở đây là, theo luật của Phật chế thì không được phép. Vì một người xuất gia có nghĩa là rời bỏ gia đình thì không thể mang gia đình vào Chùa được. Nếu ai muốn thành lập gia đình có thể ứng dụng với trường hợp với câu trả lời bên trên là hợp lý nhất.

Gần đây có nhiều vị xuất gia thấy thế hệ trẻ không phát tâm nhiều, nên rất lo lắng là đạo pháp sẽ không có người trông nom, do đó có đề nghị là Tăng sĩ được phép lập gia đình như Phật giáo Nhật Bản thì mới có cơ hội duy trì mạng mạch của Phật Pháp. Nhưng đa số bị phản đối. Vì lẽ người Phật tử khi cung kính cúng dường các vị Tu sĩ không phải vì nghề nghiệp của họ, mà vì đạo đức của người tu, nên người cư sĩ mới lễ bái và cúng dường.

Tăng sĩ phải là người độc thân, thanh tịnh, không phạm giới, mới xứng đáng là những kẻ hướng đạo của tín đồ. Nếu không phải như vậy, so ra với tín đồ đâu có gì sai khác. Vì lý do ấy, nên người Tăng sĩ cần phải thanh tịnh cả thể xác lẫn tinh thần.

Trường hợp Nhật Bản, cho đến thế kỷ 18, họ vẫn là những thanh tịnh Tăng, có nhiều phái không lập gia đình, nhưng bắt đầu từ vua Minh Trị Duy Tân (Meiji Ishin) cho đến nay (1868-1996) hơn 100 năm hầu như 100% Tăng sĩ đều lập gia đình và gia đình ấy ở ngay trong ngôi Chùa. Vị trí của những Tu sĩ Nhật Bản chúng ta có thể so sánh như các vị Mục Sư của Tin Lành tại Âu Châu vậy. Con cái của họ khi lên Đại Học sẽ được học các Đại Học Phật giáo từ 4 đến 9 năm, tùy theo người thích học, nhưng ít nhất là Cử Nhân hoặc cao hơn nữa là Tiến Sĩ. Sau đó họ lập gia đình và lo cho tín đồ trong công việc ma chay, tang lễ, lễ hội, thuyết pháp, dạy học v.v... Ngày nay ở Nhật đã trở thành một tập tục, mặc dầu mới chỉ 100 năm. Lâu hơn nữa thì có Jodo Shinshù (Tịnh Độ Chơn Tông) lập gia đình từ thế kỷ 13. Do đó, những người ngoại quốc khi đến nước Nhật để tìm kiếm một hình ảnh của thanh tịnh Tăng thật rất khó gặp.

Tóm lại Phật giáo Nhật Bản có gia đình vì ảnh hưởng cuộc Duy Tân của vua Minh Trị. Còn các nước khác sở dĩ không hoặc chưa thay đổi, vì các nước này vẫn còn giữ đúng giới luật của Đức Phật đã chế ra tự ngàn xưa. Mong rằng hình ảnh những vị thanh tịnh Tăng như thế là những ruộng phước để cho người Cư sĩ gieo vào và đời đời vẫn bền vững với giới luật cổ truyền, dầu cho có biến thiên qua bao nhiêu triều đại.


    « Xem chương trước «      « Sách này có 7 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.15.218.44 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...