Năm 1920.
Một ngày nọ, tôi đang nhập định trong phòng của tôi tại Thiếu Sinh Học
Đường, ở Ranchi. Bỗng nhiên tôi cảm thấy mình rơi vào một trạng thái dự
cảm lạ thường. Trong trạng thái ấy, tôi cảm nhận một sự thôi thúc như đã
có từ rất lâu xa trong quá khứ, rằng đã đến lúc tôi phải lên đường sang
Hoa Kỳ. Tôi cũng mơ hồ nhận biết là có rất nhiều người đang chờ đợi tôi
nơi vùng đất xa xôi ấy để được hướng dẫn việc tu tập theo pháp môn thiền
định.
Trong khi tôi vẫn còn đang trong trạng thái xuất thần kỳ lạ ấy thì bất
chợt cửa phòng mở ra. Một em thiếu sinh đã tìm được nơi tôi ở và vui
mừng đẩy cửa chạy bay vào:
– A, thầy đây rồi! Thầy đây rồi!
Tôi từ từ mở mắt nhìn em và gọi:
– Bimal, em lại đây. Thầy đang có chuyện muốn nói với em.
Bimal dừng lại từ xa, rồi rón rén đi lại gần tôi. Em có vẻ hơi sợ vì vừa
nhận ra là tôi đang ngồi thiền. Các em đều biết là khi tôi đang ngồi
thiền thì không ai được phép quấy rầy, kể cả các thầy cô trong trường.
Tôi cười để trấn an em:
– Không sao đâu, Bimal. Thầy đang muốn cho em biết một tin này. Thầy sắp
lên đường sang Hoa Kỳ.
Bimal mở to mắt nhìn tôi như vừa nghe thấy một chuyện động trời:
– Thầy đi sang Hoa Kỳ? Nhưng em nghe nói đất nước ấy ở xa, xa lắm kia
mà?
– Đúng vậy. Nhưng dù xa đến đâu thì thầy cũng phải đi, vì những người ở
đó đang cần đến thầy.
Chỉ nửa giờ sau đó, cả trường đã biết tin tôi dự định sang Hoa Kỳ, vì
Bimal đã như một con sóc con chạy đi khắp nơi để thông báo.
Không để cho mọi người phải xôn xao và hoang mang quá lâu, ngay chiều
hôm đó tôi triệu tập một phiên họp toàn thể và chính thức công bố dự
định của mình. Tôi nói:
– Tôi hy vọng là tất cả các vị sẽ đồng tâm hiệp lực cùng nhau duy trì và
phát triển cơ sở giáo dục này, theo đúng như nguyện vọng của đức thầy
Lahiri Mahsaya mong mỏi. Từ Hoa Kỳ, tôi sẽ giữ liên lạc thường xuyên
cùng quý vị, và sẽ trở về thăm quý vị khi nào có dịp.
Mọi người đều sửng sốt trước tuyên bố chính thức này, đến nỗi không ai
nói được lời nào. Nhưng sau đó thì họ hiểu được quyết tâm của tôi khi
tôi đưa ra một kế hoạch phân công cụ thể, ủy nhiệm người thay thế cương
vị của tôi, và dặn dò tất cả những gì cần thiết khi tôi không còn có mặt
ở nơi đây nữa.
Hôm sau, tôi từ biệt Ranchi và ngôi trường thân yêu với những con người
đã từng gắn bó với tôi từ những ngày đầu gian khổ. Ai nấy đều rưng rưng
nước mắt trước cuộc chia ly hoàn toàn bất ngờ này. Bằng đường xe lửa,
tôi về đến Calcutta ngay trong ngày hôm ấy để khởi sự chuẩn bị cho việc
lên đường.
Trong khi tôi còn chưa xác định việc mình sẽ ra đi như thế nào thì buổi
chiều ngày sau đó tôi bất ngờ nhận được thư mời dự Đại hội Tôn giáo Toàn
cầu tại Boston – Hoa Kỳ, với tư cách là đại biểu của Ấn Độ.
Tôi hết sức phân vân vì sự việc diễn ra như một sự sắp xếp kỳ diệu đến
nỗi tôi khó lòng tin được đó là sự thật. Tôi liền đến Serampore để báo
tin và đồng thời xin ý kiến của sư phụ Śrỵ Yukteswar.
Sư phụ đáp không suy nghĩ, có vẻ như người đã biết trước sự việc từ lâu:
– Con hãy đi. Đó là một dịp may hiếm có đấy.
– Bạch thầy! Con vẫn còn lo lắng vì con không giỏi tiếng Anh lắm, nhất
là kỹ năng giao tiếp bằng Anh ngữ. Hơn nữa, con chưa từng phát biểu
trước những hội nghị có đông người.
Sư phụ mỉm cười và trả lời bằng một câu tối nghĩa:
– Con đừng lo. Mọi người sẽ thích thú lắng nghe con.
Tối hôm đó, tôi đem sự việc trình bày với cha tôi. Ông hoàn toàn kinh
ngạc vì không thể nào ngờ được! Hoa Kỳ là một xứ sở có vẻ như quá xa xôi
đối với những người thuộc thế hệ lớn tuổi như ông. Ông lo sợ rằng sẽ
không còn được nhìn thấy tôi lần nữa nếu để tôi ra đi. Ông nói:
– Con sẽ đi như thế nào? Ai sẽ lo phí tổn cho chuyến đi?
Hình như cha tôi nghĩ là những khó khăn ấy có thể sẽ ngăn cản được sự ra
đi của tôi. Tôi liền cười đáp lời người:
– Nếu việc ra đi của con là cần thiết, con tin là mọi việc tự nó sẽ được
giải quyết bằng cách này hay cách khác thôi.
Và tôi nói thêm:
– Biết đâu rằng vì thấy được tầm quan trọng của việc truyền bá đạo pháp
sang Hoa Kỳ mà cha sẽ lo lắng phí tổn cho con đi cũng nên.
Tôi xem đó như một câu nói đùa chỉ để làm dịu bớt tầm quan trọng của sự
việc. Chẳng ngờ là ngay hôm sau, cha tôi gọi tôi đến và đưa cho tôi một
tấm ngân phiếu. Người nói:
– Cha hy vọng số tiền này sẽ đủ để trang trải chi phí cho chuyến đi sắp
tới của con. Ngoài ra, cha muốn con hiểu rằng việc cha đưa cho con số
tiền này không phải với tư cách một người cha cho con, mà với tư cách
một đệ tử của đức thầy Lahiri Mahsaya muốn góp sức làm tròn ý nguyện của
thầy. Cha cầu chúc con thành công trong việc truyền bá pháp môn thiền
định sang phương Tây, và trước hết là sang Hoa Kỳ.
Tôi vô cùng xúc động trước những lời của cha tôi. Quả thật, khi hiểu rõ
về mục đích chuyến đi của tôi, người đã có đủ dũng khí vượt qua được
những tình cảm quyến luyến thường tình để thúc giục, động viên tôi lên
đường.
Tuy vậy, cha tôi vẫn không tránh khỏi xúc động nghẹn ngào trước sự ra đi
của tôi. Người nói:
– Có lẽ cha con ta sẽ không còn có dịp để gặp lại nhau trong kiếp này.
Cha tôi năm ấy đã 67 tuổi, và người lo sợ là sẽ qua đời sau khi tôi đi
xa.
Bằng một linh cảm rất chắc chắn, tôi quả quyết nói với cha tôi:
– Cha đừng lo. Con sẽ còn có dịp trở về thăm cha.
Và như vậy là mọi điều kiện đều đã sẵn sàng cho chuyến đi Hoa Kỳ của
tôi.
Nhưng trong lòng tôi vẫn chưa thực sự yên tâm về trọng trách mà mình sắp
phải gánh vác. Tôi nghĩ đến xã hội văn minh phương Tây với tất cả những
máy móc, tiện nghi đời sống vật chất quá dư thừa và những nền tảng tâm
linh còn thiếu vắng. Trong những điều kiện ấy, thật không dễ dàng để
truyền bá một pháp môn hoàn toàn không dựa vào vật chất. Điều đó giống
như một cuộc cách mạng tâm linh mà vũ khí duy nhất của tôi là trình độ
chứng ngộ của chính bản thân mình. Tôi tập trung mọi năng lực tinh thần
của mình để củng cố niềm tin và quyết tâm thực hiện thành công nhiệm vụ
trọng đại mà sư phụ đã giao phó.
Và niềm tin của tôi đã được củng cố đến mức sắt đá chỉ sau một buổi
thiền định mà tôi nhớ mãi suốt đời mình.
Hôm ấy, sau những giờ thiền định vào buổi sáng sớm, ngay khi tôi đã sắp
sửa chấm dứt và đứng dậy, tôi bỗng có một cảm giác vô cùng kỳ lạ. Chung
quanh tôi mọi vật dường như sáng dần lên mặc dù trời vẫn còn quá sớm,
chưa có ánh sáng mặt trời. Thứ ánh sáng kỳ lạ ấy dần dần không chỉ bao
phủ quanh tôi mà còn soi rõ cả khung cảnh chung quanh. Tôi còn cảm nhận
được một mùi hương trầm ngây ngất lan tỏa đầy không khí giống như trong
một cuộc đại lễ tôn giáo mà người ta sử dụng rất nhiều loại hương liệu
này.
Trong cảm giác ngất ngây vì khung cảnh lạ thường ấy, tôi như nhìn thấy
một làn khói dày đặc từ từ quyện lại thành một cột khói nhỏ ngay trước
mặt tôi. Trong giây lát, tôi nhìn thấy một khuôn mặt, và rồi là cả thân
hình của một vị tu sĩ trẻ, giống hệt chân dung đức thầy Lahiri Mahsaya
mà tôi đã từng chiêm ngưỡng từ thuở bé.
Tôi bất chợt nhớ lại câu chuyện gặp gỡ kỳ diệu giữa đức thầy Lahiri
Mahsaya và Tổ sư Babji. Một trực giác rất mạnh mẽ mách bảo ngay cho tôi
biết người đang hiện thân trước mặt tôi là ai. Tôi liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, quỳ xuống dưới chân ngài và gọi lớn:
– Đức Tổ sư Babji!
Đức Babji – vâng, chính là ngài – nở nụ cười từ hòa, đưa tay xoa đầu tôi
và nói bằng thổ ngữ miền Bắc Ấn:
– Phải, chính ta là Babji. Ta biết tâm trạng của con hiện nay như thế
nào, và ta muốn con hãy vững tâm lên đường sang Hoa Kỳ. Tuy nhiệm vụ của
con là cực kỳ khó khăn, nhưng cơ duyên đã đến thì mọi việc sẽ tự nó
chuyển biến theo cách tốt đẹp nhất mà con không cần phải lo lắng nhiều.
Dừng một chút, rồi ngài nói tiếp:
– Ta rất vui là con đã ý thức được tầm quan trọng của vấn đề và vai trò
trách nhiệm của mình. Quả thật, Lahiri Mahsaya và Śrỵ Yukteswar chỉ là
những người khơi mở, và chính con mới là người thực hiện nguyện vọng
truyền bá đạo pháp của ta. Đó là lý do vì sao ta hiện thân đến đây hôm
nay để trò chuyện với con.
Đức Babji đưa tay làm một cử chỉ ban ân huệ, rồi nói:
– Giờ thì ta tin là con đã có đủ niềm tin để lên đường. Ta chúc con gặp
được mọi điều may mắn.
Ngài khoát tay ra hiệu từ biệt. Và chỉ trong thoáng chốc, nơi ngài đứng
chỉ còn là một làn khói mỏng đang dần dần tan biến vào khoảng không.
Tôi vẫn còn chưa hết bàng hoàng kinh ngạc và pha lẫn một niềm vui sướng
đến cùng cực. Giờ đây tôi không còn lo lắng gì về vùng đất xa lạ sắp đến
và những nhiệm vụ khó khăn đang chờ đón. Tôi biết là mọi việc đều sẽ
diễn tiến một cách tốt đẹp nếu chúng ta khởi sự bằng một tâm nguyện tốt
đẹp.
Trước ngày tôi chính thức lên đường, sư phụ Śrỵ Yukteswar có lời dặn dò:
– Trong môi trường mới, con nên hết sức thận trọng. Đừng quá bảo thủ với
những tập tục và tư tưởng của xứ Ấn, cũng không được chạy theo quá trớn
nền văn minh vật chất của xã hội mới. Điều quan trọng nhất là con phải
biết dung hòa những điểm tốt đẹp của cả hai vùng. Và phải ứng xử một
cách khách quan như một nhà truyền giáo, không phải như đại diện của một
dân tộc.
Và sư phụ nói thêm để tạo niềm tin cho tôi:
– Nếu con tiếp tục giữ vững được công phu tu tập hành trì, đạo hạnh của
con sẽ là thứ vũ khí sắc bén giúp con thu phục được tất cả những ai cần
đến một đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. Những lời chỉ dạy của con sẽ làm
thay đổi cuộc đơi của họ, không chỉ trong hiện tại mà còn là trong cả
những kiếp sống vị lai. Và ta tin chắc rằng dù con có đi đến bất kỳ xứ
sở xa xôi hẻo lánh nào, quanh con cũng sẽ luôn có nhiều người bạn tốt để
hỗ trợ.
Những lời nói của sư phụ Śrỵ Yukteswar về sau đều ứng nghiệm với thực
tế. Tôi đã có vô số những người bạn tốt trên đất Mỹ, những người sẵn
sàng giúp đỡ tôi trong công cuộc hoằng dương đạo pháp.
° ° °
Tháng 8 năm 1920.
Tôi chính thức lên đường sang Hoa Kỳ trên chiếc tàu City of Sparta. Kể
từ sau khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất chấm dứt, đây là
chuyến tàu đầu tiên từ Ấn Độ vượt biển sang Hoa Kỳ. Việc mua vé tàu cực
kỳ khó khăn, đến nỗi tôi cũng không thể hiểu nổi là nhờ đâu mà cuối cùng
mình cũng đã mua được một vé!
Trong thời gian lênh đênh trên biển, một trong những hành khách tình cờ
biết được tôi là đại biểu của Ấn Độ đi dự Đại hội Tôn giáo tại Boston.
Ông ta liền nói với tôi:
– Bạch Đại đức! Thời gian đi tàu hãy còn dài. Có thể nào nhân đây đại
đức cho chúng tôi nghe một buổi thuyết pháp vào tối thứ Năm sắp tới đây
được chăng?
Tôi thấy mình không có lý do gì để từ chối, nhất là khi tôi đã xác định
việc hoằng pháp như là mục tiêu chính cho chuyến đi của tôi. Tuy nhiên,
sau đó tôi bắt đầu thấy lo lắng về khả năng nói tiếng Anh còn kém cỏi
của mình. Bởi vì đa số hành khách trên tàu đều là người phương Tây, nên
tôi buộc phải trình bày bằng tiếng Anh nếu muốn cho mọi người hiểu được.
Và buổi tối thứ Năm rồi cũng đến.
Trong khoảng 10 phút đồng hồ, tôi đứng lặng trước cử tọa mà không nói
được lời nào. Những ý tưởng của tôi trở nên rối rắm và tản mác khi tôi
muốn diễn đạt chúng bằng Anh ngữ. Tôi nhắm mắt lại, nhớ đến sư phụ Śrỵ
Yukteswar và cố gắng tập trung tư tưởng. Trong một lúc, tôi bắt đầu cảm
thấy điềm tĩnh như trong một trạng thái thiền định, và đầu óc dần sáng
suốt, minh mẫn hơn lên. Tôi bắt đầu nói, khởi sự từ những vấn đề đơn
giản và dễ hiểu nhất.
Trong khoảng hơn 45 phút sau đó, tôi đã nói một cách trôi chảy, như thể
không còn gặp chút khó khăn nào về vấn đề ngôn ngữ. Đề tài tôi trình bày
được tiếp nhận một cách nồng nhiệt bởi tôi nhận thấy tất cả cử tọa đều
say sưa chú ý lắng nghe. Và khi tôi chấm dứt buổi thuyết pháp, một số
người không ngần ngại đã bày tỏ sự quan tâm của mình bằng cách đặt ra
nhiều câu hỏi để tìm hiểu sâu hơn vào vấn đề. Tôi đã giải đáp trọn vẹn
tất cả những câu hỏi được nêu ra, với những ví dụ minh họa rất sống động
khiến cho mọi người đều cảm thấy hứng thú và lôi cuốn.
Ngay sáng hôm sau, một nhóm người trên tàu đến tìm gặp tôi. Họ là những
Phật tử thuần thành hiện đang tài trợ cho một số các chương trình giáo
dục Phật giáo tại Hoa Kỳ. Và họ chính thức mời tôi tham gia với tư cách
giảng viên tại một số giảng đường Phật giáo của họ. Tôi nhận lời vì nghĩ
rằng đây là cơ hội tốt để tôi truyền bá pháp môn thiền định.
Từ hôm đó, tôi tự tin hơn với khả năng nói tiếng Anh của mình. Tôi tranh
thủ thời gian trên tàu để trò chuyện, trao đổi với mọi người nhằm rèn
luyện thêm kỹ năng giao tiếp. Điều đó quả thật rất có lợi cho tôi trong
những ngày đầu đặt chân lên đất Mỹ. Hơn thế nữa, tôi còn nhận được rất
nhiều lời mời thăm viếng từ các hành khách ở những tiểu bang khác nhau.
Tôi vui vẻ ghi nhận địa chỉ của từng người và hứa sẽ đến thăm sau khi đã
tham gia Đại hội. Về sau tôi mới biết họ đều là những nhân vật quan
trọng mà tiếng nói rất có ảnh hưởng trong cộng đồng. Chính nhờ đó mà
công cuộc truyền bá đạo pháp của tôi được thuận lợi ngay từ những tháng
đầu tiên.
Chuyến tàu City of Sparta đến Boston, Hoa Kỳ vào cuối tháng 9. Ngày 6
tháng 10, tôi chính thức tham gia Đại hội Tôn giáo và phát biểu với tư
cách đại biểu của Ấn Độ. Phần trình bày của tôi đã được các đại biểu
tham gia hoan nghênh nhiệt liệt. Sau Đại hội, ông Tổng thư ký của Hiệp
hội Tôn giáo Thống nhất Hoa Kỳ có viết một bài đăng trên báo, trong đó
ông giới thiệu và bình luận về phần trình bày của tôi tại Đại hội Tôn
giáo. Nhờ sự khen ngợi của ông, chỉ trong một thời gian ngắn sau đó tôi
đã được rất nhiều người Mỹ biết đến và tìm cách liên lạc, thăm viếng nơi
tôi ở.
Sau thời gian Đại hội, tôi quyết định lưu lại Boston để thực hiện những
buổi thuyết pháp tại nhiều nơi. Tôi đã ở lại Hoa Kỳ được 4 năm và mở ra
nhiều lớp dạy thiền định. Tôi cũng có cho xuất bản một tập thơ đạo lý
với nhan đề là “Nhạc khúc tâm linh”.
Với những thành quả đã đạt được, tôi có được sự ủng hộ mạnh mẽ từ rất
nhiều người Mỹ và cả những đệ tử mới thu nhận. Vì thế, mùa hè năm 1924
tôi quyết định thực hiện một chuyến đi thuyết pháp vòng quanh đất Mỹ.
Chuyến đi đã thành công vượt ngoài sự mong đợi của tôi. Tại mỗi thành
phố lớn đều có hàng nghìn người đến nghe tôi thuyết pháp. Và tên tuổi
tôi lan rộng một cách nhanh chóng đến nỗi người ta náo nức chờ đón ngay
từ khi tôi còn chưa đến. Kết quả là tôi đã thu nhận rất nhiều đệ tử và
mở thêm nhiều lớp học ở khắp nơi.
Năm 1925, mọi việc vẫn tiếp tục diễn tiến thuận lợi và tôi thành lập một
đạo viện lớn ở Los Angeles, nằm trên một sườn đồi. Sau khi xây dựng hoàn
chỉnh, tôi có viết thư cho sư phụ Śrỵ Yukteswar để kể rõ với người về
mọi diễn tiến. Tôi cũng gửi cho người một tập hình ảnh, trong đó có cảnh
đạo viện ở đây và quang cảnh một số buổi thuyết pháp rất đông người tham
dự của tôi.
Sư phụ đã viết thư trả lời tôi bày tỏ sự vui mừng của thầy trước những
thành tựu to lớn mà tôi đã đạt được. Thầy cũng cho tôi biết là mọi
chuyện ở quê nhà đều vẫn tốt đẹp.
Trong những năm sau đó, tôi tiếp tục mở rộng thêm hoạt động bằng cách
tham gia các buổi nói chuyện tại các câu lạc bộ tôn giáo, các trường
học, giảng đường... ở rất nhiều nơi. Tôi cũng tham gia hỗ trợ cho một số
các tổ chức tinh thần hoặc tổ chức từ thiện, thường là với vai trò cố
vấn hoặc hướng dẫn cho những hoạt động của họ. Sự kêu gọi của tôi được
rất nhiều người hưởng ứng, nên tôi có thể làm được rất nhiều điều cho
các tổ chức từ thiện.
Thỉnh thoảng, tôi cảm thấy nhớ quê nhà với những khung cảnh núi rừng
trầm mặc mà ở đây không sao có được. Tôi cũng nhớ những sinh hoạt quen
thuộc trong xã hội Ấn Độ mà từ ngày sang Hoa Kỳ tôi đã phải từ bỏ một
phần nào. Tuy nhiên, tôi hài lòng mà nhận thấy mục đích đề ra của chuyến
đi đã được thành công mỹ mãn, và tôi nghĩ rằng sư phụ tôi cũng sẽ lấy
làm vui sướng về điều đó.