I. Đức Phật với mục đích duy nhất cứu khổ, độ sinh
Đức Phật, dầu ở trong cung điện, thụ hưởng nhiều dục lạc, nhưng Ngài thấy được sự đau khổ sanh, lão, bệnh, tử đè nặng trên kiếp sống con người. Nên Ngài đã từ bỏ ngai vàng, xuất gia, tìm cho được phương pháp cứu khổ cho loài người, cho chúng sinh. Kinh Thánh cầu (MN 26) nêu rõ: "Chưa thành Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ tát, Ta tự mình bị sanh. Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già
... tự mình bị bệnh
... tự mình bị chết
..
. tự mình bị sầu
... tự mình bị uế nhiễm
... Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già
... bị bệnh
... bị chết
... bị sầu... Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị uế nhiễm, hãy tìm cầu cái không uế nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn". Khi Ngài thành Đạo, dưới cây bồ đề, tức là Ngài đã tìm ra được pháp môn, giúp Ngài đoạn trừ được sự đau khổ về sanh, già, bệnh, chết. Trong đó Ngài thuyết pháp độ sanh, tức là Ngài thuyết pháp môn cứu khổ, mà Ngài đã chứng ngộ, chỉ vì mục đích trừ khổ, đem lại an lạc cho chúng sinh. Trọn đời Ngài, từ khi xuất gia, cho đến khi nhập Niết-bàn, Ngài không bao giờ quên mục đích cứu khổ, độ sanh của Ngài. Lời dạy sau này làm nổi bật tâm trạng của một bậc Đạo sư canh cánh bên lòng trách nhiệm cứu khổ độ sanh của Ngài:
"Này các tỳ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và diệt khổ” (MN 22). Lời dạy này Đức Phật nhắc đi nhắc lại nhiều lần, trong kinh điển của Ngài.
Ngài được diễn tả như một bậc Đạo sư, luôn luôn đem lại hạnh phúc, an lạc cho chúng sinh:
"Một vị hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ở đời, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người” (MN 12). Tôn giả Udāyi trong khi thiền tịnh độc cư, nói lên lời tán thán Đức Phật: “Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã đem lại nhiều thiện pháp cho chúng ta (MN 66)". Lời khích lệ của Đức Phật cho 60 vị A-la-hán đầu tiên, khuyên du hành để thuyết pháp độ sanh, nói lên tâm nguyện từ bi cứu khổ, độ sanh của Ngài:
"Này các tỳ-kheo, hãy du hành, vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người” (SN 4.5). Một lời tuyên bố nữa, rất đặc biệt của Ngài, nói lên thái độ không tranh chấp hơn thua của Ngài đối với bất cứ một ai. Ngài thuyết pháp chỉ với mục đích duy nhất là làm vơi nhẹ sự đau khổ của mọi loài chúng sinh:
"Này các tỳ-kheo, Ta không tranh chấp với đời, chỉ có đời tranh chấp với Ta. Này các tỳ-kheo, người nói pháp không tranh chấp với một ai ở đời" (SN 22.94). Do vậy, hình ảnh bậc Đạo sư của chúng ta là hình ảnh của một vị luôn luôn ung dung tự tại, không âu lo, không sợ hãi, không phiền não, ngày đêm chỉ nuôi dưỡng lòng từ, thương xót chúng sinh, như đã được diễn tả trong bài kệ sau đây:
"Khi thức không âu lo,
Khi ngủ chẳng sợ hãi,
Ngày đêm không khởi lên,
Phiền não bận lòng Ta.
Ta không thấy tai hại
Một chỗ nào trên đời.
Do vậy Ta nằm ngủ,
Tâm từ thương chúng sinh." (SN 4.13)
Như vậy Từ bi cứu khổ chúng sinh là động lực chính khiến Ngài xuất gia, tầm đạo, chứng đạo và thuyết pháp là sợi chỉ đỏ thông suốt qua đời Ngài từ khi Đản sanh đến nhập Niết-bàn, là cốt lõi của 45 năm hoằng hóa độ sanh. Và cũng vì vậy, Đức Phật của chúng ta được tôn xưng là đức Từ Phụ, vị cha lành muôn thuở, và đạo Ngài được đề cao là đạo từ bi cứu khổ.
II. Ngang qua kinh nghiệm bản thân, Ngài tìm ra con đường giải thoát cho mình và cho mọi người.
Đức Phật là vị Đạo sư đã tự mình tìm ra được pháp môn giải thoát ngang qua kinh nghiệm bản thân, không có ai truyền dạy cho Ngài, không có ai ban phép cho Ngài, không phải do thần khởi, cũng không phải là hiện thân hay hóa thân của một đấng thần linh nào. Ngài là một người như chúng ta, nhưng chính nhờ tự lực cá nhân, tìm ra được con đường giải thoát.
Sau đây, là những kinh nghiệm được ghi lại về đời sống đầy dục lạc, khi Đức Phật còn là Thái tử, thái độ Đức Phật đối với vấn đề sanh, lão, bệnh, tử và đối với ba sự kiêu mạn của tuổi trẻ, không bệnh và của sự sống:
"Này các tỳ-kheo, Ta được nuôi dưỡng tế nhị, tối thắng nuôi dưỡng tế nhị, cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị. Này các tỳ-kheo, trong nhà Vương phụ Ta, các hồ nước được xây lên, trong một hồ có hoa sen xanh, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong một hồ có hoa sen trắng. Tất cả phục vụ cho Ta. Không một chiên đàn nào Ta dùng, này các tỳ-kheo, là không từ Kāsi đến. Bằng vải Kāsi là áo cánh, bằng vải Kāsi là nội y, bằng vải Kāsi là thượng y. Đêm và ngày một lọng trắng được che chở cho Ta để tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ, hay sương. Này các tỳ-kheo, ba lâu đài được xây dựng cho Ta, một cho mùa đông, một cho mùa hạ, một cho mùa mưa. Và Ta, này các tỳ-kheo, tại lâu đài mùa mưa, trong 4 tháng, được những nữ nhạc công đoanh vây, Ta không có xuống lầu. Với Ta, này các tỳ-kheo, được đầy đủ về sự giàu sang như vậy, được cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị như vậy, Ta suy nghĩ rằng: "Kẻ phàm phu ít nghe tự mình bị già, không vượt qua khỏi già, khi thấy người khác bị già, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy: "Ta cũng bị già, không vượt qua khỏi già, khi thấy người khác già, Ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không xứng đáng cho Ta". Sau khi quán sát về Ta như vậy, này các tỳ-kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ được đoạn trừ hoàn toàn. Kẻ phàm phu ít nghe tự mình bị bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, khi thấy người khác bị bệnh, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy: "Ta cũng bị bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, khi thấy người khác bệnh, Ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không xứng đáng cho Ta". Sau khi quán sát về Ta như vậy, này các tỳ-kheo, sự kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh được đoạn trừ hoàn toàn. Kẻ phàm phu ít nghe tự mình bị chết, không vượt khỏi chết, thấy người khác bị chết, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy: "Ta cũng bị chết, không vượt qua khỏi chết, khi thấy người khác bị chết, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không xứng đáng cho ta”. Sau khi quán sát về ta như vậy này các tỳ-kheo, sự kiêu mạn của sự sống trong sự sống được đoạn trừ hoàn toàn" (AN 3.39).
Ở đoạn kinh trên, chúng ta thấy rõ Đức Phật của chúng ta khi còn làm Thái tử, được hưởng thụ dục lạc ở đời không để các dục lạc ấy làm cho say đắm si mê, vẫn ý thức được rằng sanh, già, bệnh, chết vẫn đang đè nặng trên kiếp sống của con người, và nhờ vậy đoạn trừ được ba sự kiêu mạn: kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ, kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh, kiêu mạn của sự sống trong sự sống.
Chính nhờ ở kinh nghiệm bản thân về những dục lạc ở đời, chính nhờ quan sát sáng suốt về thực trạng của già, bệnh, chết của chính mình và tất cả mọi người, nên Đức Phật của chúng ta vượt qua sự kiêu mạn của tuổi trẻ, của không bệnh, của sự sống, để sau này từ bỏ tất cả, xuất gia tu đạo.
Khi Ngài quyết định từ bỏ ngai vàng, châu báu, vợ đẹp, con thơ, tầm đạo giải thoát, chúng ta được nghe Đức Phật kể qua sự học đạo của Ngài với Āḷāra Kālāma và Udaka Rāmaputta, hai vị ngoại đạo sư nổi tiếng thời bấy giờ, và sau này, là kinh nghiệm bản thân của Đức Phật, khi học đạo với Āḷāra Kālāma như kinh Thánh cầu (MN 26) đã khéo chép: "Này các tỳ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Āḷāra Kālāma ở, sau khi đến, Ta nói với Āḷāra Kālāma: "Hiền giả Kàlama, cho đến mức độ nào, ngài tự tu, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này?" Này các tỳ-kheo, được nói như vậy, Āḷāra Kālāma tuyên bố về vô sở hữu xứ. Rồi này các tỳ-kheo, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ Āḷāra Kālāma có lòng tin, Ta cũng có lòng tin; không phải chỉ Āḷāra Kālāma tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn; không phải chỉ Āḷāra Kālāma có niệm, Ta cũng có niệm; không phải chỉ Āḷāra Kālāma có định, Ta cũng có định; không phải chỉ Āḷāra Kālāma có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Āḷāra Kālāma, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, đã tuyên bố". Rồi này các tỳ-kheo, không bao lâu, Ta tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Này các tỳ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến nhàm chán, đoạn diệt, an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết-bàn, mà chỉ đưa đến chứng đạt vô sở hữu xứ”. Như vậy, này các tỳ-kheo, Ta không tôn kính pháp ấy và nhàm chán pháp ấy, Ta bỏ đi.”
Tiếp đến là nếp sống khổ hạnh, Đức Phật tự mình hành trì luôn trong 6 năm, dựa trên kinh nghiệm bản thân của Ngài. Đoạn văn sau đây diễn tả hạnh ăn ít của Ngài, chính hạnh này khiến Thế Tôn gầy mòn, chỉ còn da bọc lấy xương như đã được diễn tả trong các bức tượng Tuyết sơn, khắc ghi lại sự khổ hạnh đặc biệt của đức Thế Tôn:
"Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ, hay những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà. Vì Ta ăn quá ít, xương sống của Ta phô bày giống như một chuỗi banh. Vì Ta ăn quá ít, xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát. Vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt; giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nheo, khô cằn như trái bí đắng màu trắng cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn”. "Này Sāriputta, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng", chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống", chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Sāriputta, da bụng của Ta đến bám chặt lấy xương sống. Này Sāriputta, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện”, hay “đi tiểu tiện”, thì Ta ngã gục, úp mặt xuống đất. Vì Ta ăn quá ít, này Sāriputta, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục, rụng khỏi thân Ta" (Đại kinh Sử tử hống, MN 12).
Đức Phật của chúng ta đã tự mình hành trì khổ hạnh, và sáu năm hành trì không có kết quả, Ngài cương quyết từ bỏ khổ hạnh và bắt đầu hướng đến hành thiền, như đoạn kinh sau nêu rõ:
"Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: Ta biết trong khi phụ thân Ta thuộc dòng dõi Sakya đang cày, và Ta đang ngồi dưới bóng mát, dưới cây Diêm Phù Đề, Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ." Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này, có thể đưa đến giác ngộ chăng?” Và này Aggivessana, tiếp theo niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ” (MN 36).
Từ kinh nghiệm bản thân này, Đức Phật từ bỏ khổ hạnh, hành trì thiền định, chứng được thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, chứng được Túc mạng minh, Thiên nhãn minh.
Đức Phật dạy tiếp:
"Và với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta hướng tâm đến lậu tận trí. Ta biết như thật: "Đây là Khổ"; Ta biết như thật: "Đây là Khổ tập"; Ta biết như thật: "Đây là Khổ diệt"; Ta biết như thật: "Đây là Con đường đưa đến khổ diệt". Ta biết như thật: "Đây là các lậu hoặc"; Ta biết như thật: "Đây là lậu hoặc tập khởi"; Ta biết như thật: "Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc"; Ta biết như thật: "Đây là con đường đưa đến lậu hoặc diệt”. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Ta biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm. Không còn trở lui trạng thái này nữa" (MN 36).
Như vậy, cũng với kinh nghiệm bản thân, từ bỏ khổ hạnh, tu tập thiền định, phát triển trí tuệ, bậc Đạo Sư của chúng ta thành tựu Chánh Đẳng Giác và trở thành Đức Phật. Ở đây, chúng ta thấy rõ, bậc Đạo Sư không nhờ một đấng thần linh nào mách bảo, hộ trì, hướng dẫn. Hoàn toàn do kinh nghiệm bản thân, do tự lực cá nhân, Ngài đã tự mình tìm được con đường giải thoát, tự mình thực hành con đường ấy để được giải thoát và giảng dạy lại cho chúng ta con đường tự lực tự cường, đưa đến giải thoát giác ngộ. Chúng ta có thể nói, đối với các tư tường ngoại đạo đương thời, Ngài tự thân tầm học và chứng đắc. Nói đến khổ hạnh và hành thiền, Ngài tự thân hành trì khổ hạnh và thiền định. Nói đến giác ngộ, giải thoát, Ngài tự thân phát triển Ba minh để cuối cùng tự mình giác ngộ giải thoát. Nói một cách khác, Ngài chỉ dạy những gì Ngài đã thân kinh nghiệm và pháp môn Giới, Định, Tuệ là kết tinh của những năm tháng, tự tu, tự chứng và tự giác ngộ. Do vậy chúng ta không lạ gì khi Thế Tôn hoan nghinh lời chỉ trích phê bình của Sunakkhatta, mà Ngài xem như là phản ảnh trung thực nhất, đối với pháp Ngài giảng dạy:
"Sa- môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy tự mình tạo ra, do suy luận tác thành, tùy thuận trắc nghiệm và thuyết cho một mục tiêu đặc biệt, có khả năng hướng thượng có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau” (MN 12).
III. Vị trí có một không hai của Đức Phật
Đề cập đến bậc Đạo Sư của chúng ta, chúng ta cần nhấn mạnh đến vị trí có một không hai của Đức Phật, vị trí này cho chúng ta thấy không thể có một Đức Phật thứ hai trong suốt hiện kiếp Đức Phật tại thế.
Tăng chi bộ, chương Một pháp, có ghi:
"Sự kiện này không xảy ra, này các tỳ-kheo, không có được, trong một thế giới có hai vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, không trước không sau, xuất hiện một lần; sự kiện này không xảy ra. Và sự kiện này có xảy ra, này các tỳ-kheo, trong một thế giới chỉ có một vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện; sự kiện này có xảy ra" (AN 1.277)
.
Như vậy chúng ta có thể nói, trong kiếp hiện tại, tại thế giới này chỉ có một Đức Phật, không có hai Đức Phật. Có thể có sáu Đức Phật quá khứ như Đức Phật Tỳ-bà-thi, Đức Phật Thi-khí v.v… Nhưng thuộc vào kiếp quá khứ, không thuộc kiếp hiện tại, và có Đức Phật Di-Lặc nhưng thuộc vào kiếp tương lai, không thuộc kiếp hiện tại. Như vậy vị trí của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thật là độc nhất vô nhị, ngay trong hiện kiếp của thời đại chúng ta, và trong thế giới mà chúng ta đang sống. Từ nơi vị trí độc nhất vô nhị này, kinh Một người trong Tăng chi bộ nói rõ thêm:
"Một người, này các tỳ-kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tự, không có đối phần, không có người ngang bằng, bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, một người này, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người không hai, không đồng bạn, không có so sánh, không có tương tự, không có người ngang hàng, không có ngang bằng, không có đặt ngang bằng, bậc tối thượng giữa các loài hai chân" (AN 1.74).
Như vậy Đức Phật không có một ai có thể sánh bằng, không có tương tự đưa đến một vấn đế mới, Đức Phật đứng trên vị trí gì để trở thành một bậc tối thượng ở đời không ai có thể sánh bằng. Bài kinh trong Trung bộ nói lên địa vị tối thượng này của Đức Phật
:
"Không có một vị tỳ-kheo, này Bà-la-môn, thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã thành tựu. Này Bà-la- môn, Thế Tôn là bậc làm khởi dậy con đường trước đây chưa được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói, là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo” (MN 108).
Với đoạn kinh trên, chúng ta thấy vị trí độc nhất vô nhị của Đức Phật mà Ngài là vị đã làm khởi dậy, đã làm cho biết, đã nói lên con đường trước đây chưa từng được ai khám phá. Con đường ấy là gì?
Chính là tiến trình giác ngộ giải thoát mà chính tự Ngài đầu tiên khám phá ra, tự mình tu tập con đường ấy và tự mình giác ngộ nhờ đã đi trên con đường ấy. Tiến trình ấy là một tiến trình gồm có năm giai đoạn, bắt đầu từ Giới rồi đến Định, Tuệ, Giải thoát, và Giải thoát tri kiến. Con đường ấy đã được cô đọng một cách tuyệt diệu thành con đường Thánh mười ngành bắt đầu từ Chánh tri kiến và kết thúc bằng Chánh định, Chánh trí và Chánh giải thoát.
Từ nơi đây chúng ta không có lấy làm lạ khi thỉnh thoảng Đức Phật rống lên tiếng rống con sư tử, tiếng rống nói lên thế ưu việt của Chánh pháp, như được diễn tả trong Tiểu kinh Sư tử hống (MN 11):
"Này các tỳ-kheo, chỉ ở đây (tức chỉ trong Pháp và Luật do Đức Phật thiết lập) là có đệ nhất Sa-môn, ở đây là có đệ nhị Sa-môn, ở đây là có đệ tam Sa-môn, ở đây là có đệ tứ Sa-môn. Các ngoại đạo khác không có Sa-môn” (MN 11).
Tiếng rống con sư tử này xác nhận rằng chỉ có tiến trình Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, được cô đọng trong con đường Thánh mười ngành do Đức Phật thiết lập mới đào tạo ra được đệ nhất Sa-môn, tức là các vị Dự lưu, các đệ nhị Sa-môn tức là các vị Nhất lai, các đệ tam Sa-môn tức là các vị Bất lai, các đệ tứ Sa-môn tức là các vị A-la-hán.
Từ nơi lời xác chứng có tính cách quyết định dứt khoát này, chúng ta mới hiểu câu trả lời của Đức Phật nói với Upaka, một du sĩ ngoại đạo đã hỏi Đức Phật là ai, khi Đức Phật đi từ Bồ đề đạo tràng đến vườn Lộc Uyển, để thuyết pháp cho Kiều Trần Như với bốn người bạn. Khi Upaka gặp Đức Phật với các căn trong sáng, vị du sĩ ngoại đạo liền hỏi: “Các căn của Hiền giả thật sáng suốt, màu da của Hiền giả thật thanh tịnh, thật thanh khiết. Này Hiền giả, vì mục đích gì Hiền giả xuất gia? Ai là bậc Đạo Sư của Hiền giả?" Đức Phật liền trả lời vời bài kệ:
"Ta không có Đạo Sư!
Bậc như Ta không có.
Giữa thế giới nhân thiên,
Không có ai bằng Ta!" (MN 26)
Câu trả lời này khiến cho nhớ đến câu
"Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”, được xem là Đức Phật tuyên bố khi Ngài đản sanh và đi bảy bước. Và câu này cũng được diễn theo truyền thống Pāli với lời tuyên bố, như đã được ghi trong Trường bộ:
"Ta là bậc Tối tôn ở đời. Ta là bậc Trưởng thượng ở đời. Ta là bậc Tối thượng ở đời. Nay là đời sống cuối cùng của Ta. Nay Ta không còn tái sanh nữa" (DN 14). Như vậy hai lời tuyên bố tuy từ hai truyền thống khác nhau, nhưng cùng nói lên địa vị độc tôn Đức Phật. Đây không phải là lời tuyên bố ngạo mạn nhưng có thể bị hiểu lầm. Thực sự chỉ là một lời tuyên bố nói lên vị trí có một không hai của Đức Phật, là một vị đã tự mình khám phá và giảng dạy đạo lý giải thoát và giác ngộ. Lời tuyên bố này cũng nói lên vị trí có một không hai của Chánh pháp, tức là tiến trình giải thoát giác ngộ Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến. Chính tiến trình này đã được Đức Phật thân chứng và dạy lại cho các đệ tử tỳ-kheo, tỳ- kheo ni của Ngài tu học để được chứng quả A-la-hán như Ngài.
Với Đức Phật, tự mình đã giác ngộ, khi Ngài mới thành Chánh giác, Ngài khởi lên một tư tưởng rất khiêm tốn.
"Thật là khó khăn, sống không cung kính, không vâng lời. Vậy Ta hãy đảnh lễ, cung kính và sống y chỉ vào Sa-môn hay Bà-la-môn ... Với mục đích làm cho đầy đủ giới uẩn chưa đầy đủ, làm cho đầy đủ định uẩn chưa đầy đủ ... làm cho đầy đủ tuệ uẩn chưa đầy đủ ... làm cho đầy đủ giải thoát uẩn chưa đầy đủ. Ta hãy cung kính, đảnh lễ và sống y chỉ vào một Sa-môn hay Bà-la-môn. Nhưng Ta không thấy một chỗ nào trong thế giới chư Thiên, ác ma và Phạm thiên, giữa quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài người, không có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác với Giới, với Định, với Tuệ và với Giải thoát đầy đủ hơn Ta mà Ta có thể cung kính đảnh lễ và sống y chỉ. Rồi này các tỳ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Với Pháp này mà Ta đã chân chánh giác ngộ. Ta hãy cung kính đảnh lễ và sống y chỉ Pháp ấy" (AN 4.21).
Như vậy Đức Phật với tâm tư khiêm tốn muốn tìm một Sa-môn hay Bà-la-môn để nương tựa y chỉ, nhưng cuối cùng phải nương tựa và y chỉ vào Chánh pháp. Thái độ này của Đức Phật giải thích vì sao Đức Phật khuyên Tôn giả Ānanda chớ có sầu muộn khi Đức Phật nhập diệt, vì các đệ tử Phật luôn luôn có Chánh pháp lãnh đạo, có Chánh pháp làm chỗ y chỉ, có Chánh pháp làm chỗ nương tựa. Đức Phật có thể xem là vị Giáo chủ khuyên chúng ta không nên nương tựa ỷ lại cá nhân. Ngài chỉ khuyên chúng ta nên y chỉ vào Chánh pháp, nên tương tựa Chánh pháp.
IV. Đức Phật với thần thông.
Một vấn đề được đặt ra cho chúng ta là Đức Phật có thần thông hay không? Chính Đức Phật giúp chúng ta trả lời thẳng câu này, khi Ngài bị Sunakkhatta chỉ trích là không có pháp thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh, Đức Phật xác nhận trong Đại kinh Sư tử hống (MN 12) rằng Ngài đầy đủ bốn pháp truyền thống, tức là mười danh hiệu, thần túc thông, thiên nhĩ thông, và tha tâm thông. Ngài lại đủ mười Như Lai lực, được diễn tả như sau: “(1) Như Lai như thật biết sự kiện có xảy ra là có xảy ra, sự kiện không xảy ra là không xảy ra. (2) Như Lai như thật biết quả báo tùy thuộc sở do, tùy thuộc sở nhân của các hạnh nghiệp quá khứ, vị lai, hiện tại. (3) Như Lai như thật biết con đường đưa đến tất cả cảnh giới. (4) Như Lai như thật biết thế giới với nhiều chủng loại sai biệt. (5) Như Lai như thật biết chí hướng sai biệt của mọi loài hữu tình. (6) Như Lai như thật biết các căn thượng hạ của loài người, của các loài hữu tình. (7) Như Lai như thật biết sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh, sự xuất khởi của các thiền chứng về thiền, về Giải thoát, về Định. (8) Như Lai nhớ đến các đời sống quá khứ. (9) Như Lai với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống và sự chết của các chúng sinh. (10) Như Lai nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát." Như vậy Như Lai xác chứng Ngài chứng được sáu thần thông: thần túc thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên nhãn thông và lậu tận thông. Hơn nữa, Ngài còn chứng được bốn vô sở úy, tức là bốn điều không sợ hãi. Ngài đã chứng được Chánh đẳng Chánh giác. Ngài không có sợ hãi có Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, ác ma, Phạm thiên, chư Thiên và loài người có thể đến chất vấn chỉ trích Ngài là chưa chứng được Chánh đẳng Chánh giác. Ngài đã đoạn trừ bốn lậu hoặc. Ngài không có sợ hãi có một ai có thể chất vấn, chỉ trích Ngài là những pháp được Ngài tuyên bố là chướng ngại pháp, thật sự khi thực hành là không có gì trở ngại cả. Ngài không có sợ hãi có một ai có thể chỉ trích chất vấn Ngài đúng pháp rằng Ngài thuyết giảng không đưa đến một mục tiêu đặc biệt, không có khả năng hướng thượng, không có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau”
Như vậy Đức Phật xác chứng Ngài có được bốn pháp truyền thống, chứng được mười Như Lai lực và bốn pháp vô sở úy. Ngài có đầy đủ sáu thần thông và hơn thế nữa. Tuy vậy, theo dõi 45 năm thuyết pháp độ sanh của Ngài, được ghi chép trong kinh tạng Pāli, chúng ta nhận thấy Ngài sử dụng Thần thông rất dè dặt, rất hạn chế. Ví dụ trong một bài kinh trong Tăng chi bộ (AN 2.36), khi Đức Phật đang có mặt ở Thắng Lâm (Jetavana), theo lời yêu cầu của chư Thiên, Ngài dung thần thông hiện ra ở Đông Viên (Pubbārāma). Một lần Thế Tôn trên con đường đến Kusinara, đi đến sông Hằng. Lúc bấy giờ sông Hằng tràn ngập nước đến bờ bên kia đến nỗi con quạ đứng trên bờ có thể uống nước được. Có người đang đi tìm thuyền, có người đang đi tìm phao, có người cột bè để đi qua bờ bên kia. Thế Tôn mau lẹ như người lực sĩ duỗi cánh tay được co lại, hay co lại cánh tay được duỗi ra biến mất từ bờ bên này và hiện ra bờ bên kia với chúng tỳ- kheo (DN 16).
Trong suốt năm tập Nikāya, kể cả hàng chục bài kinh, kinh nào cũng diễn tả Đức Phật đi bộ từ làng này qua làng khác, từ thị trấn này qua thị trấn khác, trước khi vào nhà, vào tịnh xá thời lấy nước rửa chân. Có một lần Đức Phật đi đến vườn Gosiṅga (MN 31) để thăm Tôn giả Anuruddha, Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimbila, nhưng người giữ vườn không biết Ngài là Đức Phật nên ngăn không cho vào. Một lần nữa, ngồi nói chuyện với Tôn giả Pukkusati suốt nửa đêm trong ngôi nhà một người thợ gốm, Pukkusāti cũng không biết người đối diện là Đức Phật (MN 140). Trong nhiệm vụ hoằng hóa độ sinh của Ngài, chúng ta thấy Đức Phật đã lựa chọn một phương pháp rất đặc biệt, như được ghi chép trong kinh Kevaddha (DN 11). Kenvaddha yêu cầu Đức Phật dạy cho tỳ-kheo hiện pháp thần thông để nhiếp phục dân chúng ở Nalanda. Thế Tôn từ chối không chấp nhận và dạy rằng trong ba pháp thần thông: thần túc thông, tha tâm thông, và giáo hóa thần thong, Ngài chỉ lựa chọn giáo hóa thần thông. Thần túc thông có thể do một loại bùa chú tên Gan- dhārī tác thành. Tha tâm thông có thể do bùa chú tên Māṇikā tác thành nên Đức Phật không có chấp nhận hai loại Thần thông này
. Ngài chỉ chấp nhận giáo hóa thần thông được diễn tả như sau:
“Ở đời có vị tỳ-kheo giáo hóa như sau: ‘Hãy suy tư như thế này, chớ suy tư như thế kia. Hãy tác ý như thế này, chớ tác ý như thế kia. Hãy từ bỏ điều này, hãy chứng đạt và an trú điều kia’. Như vậy gọi là giáo hóa thần thông.” Chính Đức Phật đã lựa chọn giáo hóa thần thông để hóa độ chúng sinh, trong suốt 45 năm dài thuyết pháp. Lý do cũng rất dễ hiểu: thần túc thông và tha tâm thông do bùa chú tạo thành, vừa có hại cho người sử dụng, vừa có hại cho người chứng kiến. Còn giáo hóa thần thông đòi hỏi người nghe phải suy gẫm, phải suy tư, phải cân nhắc nghĩa lý, rồi đem ra tự mình hành trì và cuối cùng đạt được giải thoát.
Nói tóm lại, ngài không dùng pháp lạ để mê hoặc quần chúng, để làm chóa mắt người chứng kiến. Ngài đặt nặng vào khả năng suy tư, tìm hiểu, cân nhắc, chọn lựa, tự mình tự lực dùng Giới, dùng Định, dùng Tuệ, nghĩa là tự lực hành trì đúng quy luật giải thoát để được giải thoát, đúng quy luật giác ngộ để được giác ngộ.
V. Thế Tôn với vị trí con người.
Để tìm hiểu hơn nữa về bậc Đạo Sư, chúng ta cần phải ý thức rõ ràng Đức Phật là ai, Đức Phật đã tự diễn tả mình như thế nào, và Đức Phật đã được các đệ tử của mình và các ngoại đạo đề cao như thế nào. Những tư liệu này sẽ giúp chúng ta hiểu được Đức Phật rõ ràng chính xác hơn và đánh giá được những đóng góp mà bậc Đạo Sư đã đem lại cho loài người. Một vấn đề có thể làm nhiều người thắc mắc trong quá khứ cũng như trong hiện tại là Đức Phật là ai? Ngài là Thiên thần chăng, Thiên nhân chăng, là người như chúng ta chăng? Kinh Doṇa trong Tăng chi bộ (AN 4.36) ghi chép như sau: Bà-la-môn Doṇa thấy dấu chân Đức Phật có dấu bánh xe (Pháp luân) với đầy đủ tất cả chi tiết khi Đức Phật đi trên con đường giữa Ukkaṭṭhā và Setabbya, liền suy nghĩ đây không phải là dấu chân của loài người, nên đến gần Đức Phật và hỏi: "Có phải Ngài là vị Tiên, Ngài sẽ là Càn-thát-bà, Ngài sẽ là Dạ-xoa, Ngài sẽ là loài người?" Với bốn câu hỏi này, Đức Phật tuần tự trả lời: “Ta sẽ không phải là Tiên, Ta sẽ không phải là Càn- thát-bà, Ta sẽ không phải là Dạ-xoa, Ta không phải là người".
Câu trả lời làm cho Bà-la-môn Dona ngạc nhiên, và chúng ta cũng dễ hiểu, vì nếu Đức Phật trả lời: “Ta sẽ là chư Thiên, hay Ta sẽ là loài người”, tức Đức Phật còn phải tái sinh, còn phải sinh tử luân hồi nên Đức Phật mới trả lời như thế. Câu trả lời ấy làm cho Bà-la-môn Dona ngạc nhiên khiến phải hỏi tiếp: "Vậy sở hành của Ngài là gì, và Tôn giả sẽ là gì?" Đức Phật trả lời rất là đặc biệt:
"Này Bà-la-môn, đối với những ai chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là chư Thiên với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được là cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đối với những ai chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là Càn-thát-bà, Ta có thể là Dạ-xoa, Ta có thể là loài người, với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, dược làm cho không thể sanh khởi trong tương lai".
Như vậy tùy thuộc chúng sinh được đề cập đến, đối với những chúng sinh là chư Thiên chưa đoạn tận các lậu hoặc Đức Phật có thể là chư Thiên nhưng với các lậu hoặc đã đoạn tận, không còn sanh tử luân hồi. Đối với loài người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Đức Phật có thể là người, nhưng là một con người đã đoạn tận các lậu hoặc. Nói một cách khác, dầu thuộc loại chúng sinh hữu tình nào đang còn có lậu hoặc, đang sanh tử luân hồi, Đức Phật có thể là chúng sinh ấy, nhưng với các lậu hoặc đã đoạn tận. Chúng ta là người, Đức Phật đối với chúng ta là người. Chỉ có sự sai khác, Đức Phật là người đã đoạn tận các lậu hoặc, còn chúng ta là người nhưng chưa đoạn tận các lậu hoặc.
Rồi Đức Phật dùng một thí dụ xác định rõ ràng vị trí của Ngài trong thế giới loài người:
"Ví như, này Bà-la-môn, bông sen xanh, bông sen hồng hay bông sen trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước và đứng thẳng, không bị nước thấm ướt. Cũng vậy, này Bà-la-môn, sanh ra trong đời lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt. Này Bà-la-môn, Ta là Phật, hãy như vậy thọ trì" (AN 4.36).
Tiếp đến, Đức Phật tự xác chứng vị trí của mình khi Ngài nói với Tôn giả Sāriputta:
"Những ai nói về Ta một cách chân chánh. sẽ nói như sau: ‘Một vị hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ở đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và loài người’” (MN 12).
Tiếp đến là lời một vị đệ tử đã chứng quả A-la-hán nói lên lời tán thán bậc Đạo Sư của mình: "Thế Tôn đã giác ngộ, Ngài thuyết pháp để giác ngộ. Thế Tôn đã điều phục, Ngài thuyết pháp để điều phục. Thế Tôn đã tịch tịnh, Ngài thuyết pháp để tịch tịnh. Thế Tôn đã vượt qua, Ngài thuyết pháp để vượt qua. Thế Tôn đã chứng Niết-bàn, Ngài thuyết pháp để chứng Niết-bàn" (MN 35). Như vậy, trong thế giới loài người, Đức Phật là con người như chúng ta, chỉ khác chúng ta còn các lậu hoặc. Đức Phật không còn các lậu hoặc nữa. Đức Phật đã giác ngộ, đã điều phục, đã tịch tịnh, đã vượt qua, đã chứng Niết-bàn; còn chúng ta chưa giác ngộ, chưa điều phục, chưa tịch tịnh, chưa vượt qua, chưa chứng Niết-bàn.
Một điểm rất đặc biệt về Đức Phật của chúng ta là Đức Phật đặt lòng tin nơi con người có khả năng tự mình giải thoát và giác ngộ, có khả năng phân biệt được thiện ác, chánh tà. Trong kinh Kālāma (AN 3.65), Đức Phật khuyên trong mười trường hợp chớ nên tin: "Chớ có tin vì nghe truyền thuyết (
anussava); chớ có tin vì theo truyền thống (
paramparāya); chớ có tin vì nghe người ta nói
(itikirāya); chớ có tin vì kinh tạng truyền tụng (
piṭakasampadānena); chớ có tin vì nhân lý luận (siêu hình) (
takkahetu); chớ có tin sau khi suy tư một vài dữ kiện (
ākāraparivitakkena); chớ có tin theo thiên kiến định kiến (
diṭṭhinijjhānakkhantiyā); chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo Sư của mình". Khi nghe Đức Phật bác bỏ cả mười trường hợp đáng tin như vậy, chúng ta tự nghĩ chúng ta còn tin ai và tin cái gì nữa. Không tin truyền thống, không tin truyền thuyết, không tin kinh tạng truyền tụng, … , không tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo Sư của mình. Đến đây Đức Phật khuyến giáo thật nhẹ nhàng. Chúng ta hãy tin ở chúng ta, tin ở nơi lý trí phán xét, phân biệt con người của chúng ta". Đức Phật khuyên: "Nhưng này các Kālāma, khi nào tự mình biết rõ như sau: ‘Các pháp này bất thiện, các pháp này có tội, các pháp này bị các người có trí chỉ trích, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau’ thời này Kālāma, các ngươi hãy từ bỏ chúng". Này các Kālāma, khi nào tự mình biết rõ như sau: "Các pháp này là thiện; các pháp này là không có tội; các pháp này được người có trí tán thán; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận đưa đến an lạc và hạnh phúc", thời này Kālāma, hãy chứng đạt và an trú".
Như vậy, Đức Phật luôn đứng trên vị trí con người để hóa độ chúng sinh và đặt lòng tin tưởng vào khả năng con người có thể phân biệt thiện ác, chánh tà, có khả năng tự giải thoát, tự giác ngộ như Ngài đã tự mình giác ngộ, giải thoát. Về sau, có xu hướng thần thông hóa Đức Phật, thần thánh hóa Đức Phật, biến Đức Phật thành một bị biểu hiện thần thông để hóa độ chúng sinh, thành một vị thần ban phước giáng họa. Sự tha hóa Đức Phật khỏi vị trí con người được khéo thực hiện, dần dần Đức Phật rời khỏi địa vị bậc Đạo Sư, với thân giáo, khẩu giáo, giáo hóa chúng sinh để trở thành một vị Thánh ngồi trên khám thờ được hàng triệu người lễ bái cầu khấn, ban phước giáng họa. Chúng tôi ghi sau đây hai đoạn kinh trích từ kinh tạng Pāli, một đoạn diễn tả lúc Đức Phật bệnh, một đoạn diễn tả lúc Ngài đã già. Những đoạn này chứng tỏ Đức Phật dầu đã thành Phật, giác ngộ giải thoát, nhưng Ngài vẫn còn thân hữu dư y nên vẫn bị bệnh, vẫn bị già, như một con người thường, chỉ có một điều khác là khi Ngài bị bệnh, khi Ngài bị già, Ngài không có sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, vì Ngài dầu còn thân bệnh, nhưng không còn tâm bệnh nữa.
Kinh Bệnh trong Tương ưng bộ (SN 47.9) ghi:
"Trong khi Thế Tôn an cư vào mùa mưa, một cơn bệnh trầm trọng khởi lên, những cảm thọ khốc liệt, gần như chết tiếp diễn. Ở đây, Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, không có than vãn
..
. Rồi Thế Tôn với sức tinh tấn, nhiếp phục trọng bệnh ấy, lưu giữ thọ hành và sống
..."
Kinh Già, Tương ưng bộ (SN 48.41) ghi:
"Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn với tay xoa bóp chân tay cho Thế Tôn, thưa rằng: “Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, màu da Thế Tôn nay không còn thanh tịnh trong sáng, tay chân rã rời nhăn nhíu, thân được thấy còm về phía trước, và các căn đang bị đổi khác”. –“Này Ānanda sự thể là vậy. Tánh già nằm trong tuổi trẻ. Tánh chết nằm trong sự sống.
.. Như vậy màu da không còn thanh tịnh trong sáng, tay chân rã rời, nhăn nheo, thân được thấy còm về phía trước, và các căn đang bị đổi khác
..."
Với hai đoạn kinh này, chúng ta thấy Đức Phật thật sự là người như chúng ta, có già, có bệnh, có chết, chỉ khác Ngài là một con người đã đoạn trừ các lậu hoặc, đã diệt tận tham, sân, si, không còn rơi vào sanh tử luân hồi.
VI. Thế Tôn với vị trí bậc Đạo Sư.
Nay chúng ta bước qua vị trí bậc Đạo Sư để tìm hiểu Đức Phật, và chính Đức Phật được tôn xưng là bậc Đạo Sư loài trời và loài người (satthā devamanus- sānaṃ). Đức Phật sở dĩ chiếm một địa vị ưu thế so sánh với các ngoại đạo đương thời là vì Ngài là vị đầu tiên để lại cho chúng ta một truyền thống kế thừa rất đặc biệt, khác với các ngoại đạo cổ xưa, và truyền thống ấy mãi cho đến ngày nay, sau hơn hai ngàn năm có mặt trên thế giới này, vẫn còn được tôn trọng tiếp nối và truyền thừa. Kinh Makhādeva (MN 83), đề cập đến truyền thống của vua Makhādeva, vị vua này khi sợi tóc bạc đầu tiên hiện ra trên đầu mình, Ngài liền giao ngôi báu cho hoàng tử, tự mình xuất gia tu đạo. Vua Makhādeva lại dặn hoàng tử lên ngôi trị vì cho đến khi sợi tóc bạc đầu tiên mọc lên thời liền trao ngôi báu cho con trai của mình, còn mình thời xuất gia tu đạo. Vua Makhādeva dặn dò phải giữ gìn truyền thống này đừng cho gián đoạn. Tuy vậy truyền thống của vua Makhādeva được truyền đến vua Nemi là vị vua cuối cùng gìn giữ truyền thống này. Con của vua Nemi là Kaḷārajanaka lại không tiếp tục truyền thống này; không chịu xuất gia khi sợi tóc bạc đầu tiên mọc trên đỉnh đầu mình và do vậy truyền thống của Makhādeva bị chấm dứt. Nhưng truyền thống của Đức Phật lại khác. Chính Đức Phật xác nhận như sau:
“Này Ānanda, truyền thống ấy của Makhādeva không đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, tịch tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và Ānanda, thế nào là truyền thống tốt đẹp được Ta thiết lập và truyền thống ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, tịch tịnh, thương trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là Thánh đạo Tám ngành này, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
“Này Ānanda đây là truyền thống tốt đẹp được Ta thiết lập, và truyền thống ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, tịch tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này Ānanda, về vấn đề này Ta nói như sau: ‘Truyền thống tốt đẹp này do Ta thiết lập, hãy tiếp tục duy trì. Các ông chớ có thành người tối hậu sau Ta’. Này Ānanda, khi hai người còn tồn tại, và có sự đứt đoạn, người ấy là người tối hậu vậy. Này Ānanda, Ta nói với ông: ‘Truyền thống tốt đẹp này do Ta thiết lập các ông hãy tiếp tục duy trì’ (MN 83)”.
Truyền thống kế thừa mà Đức Phật đã để lại cho chúng ta, chúng ta đã tiếp tục thừa kế trải hơn 2.000 năm lịch sử, và cho đến nay, truyền thống kế thừa ấy vẫn được tiếp tục.
Trong khi các bậc Đạo Sư khác, giới không thanh tịnh, mạng sống không thanh tịnh, thuyết pháp không thanh tịnh, trả lời pháp không thanh tịnh, thời bậc Đạo sư của chúng Ta thật là tuyệt diệu về cả năm phương diện này, như bài kinh trong Tăng chi bộ miêu tả:
“Này Moggallāna, Ta có giới thanh tịnh và Ta tự rõ biết: ‘Giới của Ta thanh tịnh, trong sáng không có uế nhiễm. Các đệ tử không có che chở Ta về giới. Mạng sống của Ta thanh tịnh trong sáng, không có uế nhiễm. Các đệ tử Ta không có che chở Ta về mạng sống. Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về mạng sống’. Thu-yết pháp của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: ‘Thuyết pháp của Ta thanh tịnh trong sáng, không có uế nhiễm. Các đệ tử không có che chở Ta về thuyết pháp. Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về thuyết pháp’. Các câu trả lời của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: ‘Các câu trả lời của ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm. Các đệ tử không có che chở Ta về các câu trả lời’. Tri kiến của Ta thanh tịnh, Ta tự rõ biết: ‘Tri kiến của Ta thanh tịnh, trong sáng, không có uế nhiễm. Các dệ tử không có che chở Ta về tri kiến, Ta không có chờ đợi các đệ tử che chở Ta về tri kiến’ (AN 5.100)
”.
Một sự đóng góp rất đặc biệt của Đức Phật trong vị trí bậc Đạo Sư của mình là thành lập hai hội chúng: Hội chúng xuất gia là hội chúng tỳ-kheo và tỳ-kheo ni, và hội chúng tại gia là hội chúng nam Cư sĩ và nữ Cư sĩ. Về hội chúng xuất gia, Ngài chế đặt một số giới luật căn bản để bảo đảm một đời sống thật sự hòa hợp nhất trí, giới thiệu pháp môn Giới, Định, Tuệ, hướng dẫn các đệ tử xuất gia tu học, thoát ly gia đình, thoát ly sự ràng buộc của dục vọng, trọn đời hành trì Phạm hạnh, cuối cùng chứng đạt tâm giải thoát, tuệ giải thoát, vượt khỏi sự đau khổ sanh, già, bệnh, chết. Đức Phật là vị Giáo chủ đầu tiên thiết lập Giáo hội Tăng già cho phép phái nữ xuất gia và xác chứng các tỳ-kheo ni có khả năng chứng được quả A-la-hán tối thượng, không khác gì nam giới. Trải hơn 2500 năm Giáo hội vẫn còn tồn tại, tuy có một vài sự thay đổi không đồng bộ.
Đối với hội chúng tại gia, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, Đức Phật dạy thọ ba quy y, năm giới, từ bỏ mười ác hạnh, thành tựu mười thiện hạnh, có quyền thọ hưởng các dục nhưng không đi đến say đắm đam mê, làm các công đức. Lời giáo huấn của Ngài rất rõ ràng. Muốn sống hạnh phúc, phải sống theo giới luật của người tại gia, thâu hoạch tài sản đúng pháp do tự cánh tay, tự mình đổ mồ hôi làm ra, đặc biệt là phải làm các hạnh lành. Những lời dạy này của Đức Phật mãi cho đến nay vẫn được các Phật tử hành trì và được xem là mẫu mực tốt đẹp cho một đời sống văn minh đạo đức.
Một đặc điểm nữa của bậc Đạo Sư chúng ta là Ngài có một lòng ưu ái rất đặc biệt đối với các đệ tử của Ngài, luôn luôn sách tấn họ tận lực tu hành: Như được thấy trong các đoạn kinh sau đây:
"Này Ānanda, những gì bậc Đạo Sư cần phải làm, vì lòng từ mẫn, mưu tìm hạnh phúc cho các đệ tử, những điều ấy đã được Ta làm, vì lòng từ mẫn của Ta đối với người. Này Ānanda đây là những gốc cây. Đây là khoảng nhà trống. Hãy tu thiền, này Ānanda, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau. Đây là lời dạy của Ta cho các ông" (MN 106).
Một ưu điểm trong sứ mệnh hoằng pháp độ sanh của Đức Phật là Ngài luôn luôn giữ đúng vị trí của một bậc Đạo Sư đối với các đệ tử. Trong kinh Ganaka Moggallāna (MN 107), Bà-la-môn Ganaka hỏi Đức Phật: “Có phải khi Sa-môn Gotama giảng dạy như vậy, tất cả đệ tử của Ngài đều chứng được cứu cánh Niết-bàn?" Đức Phật đã trả lời là một số chứng được cứu cánh Niết-bàn, một số không chứng được. Ga-naka bèn hỏi: "Do nhân gì, duyên gì, trong khi có Niết-bàn, trong khi có một con đường đưa đến Niết-bàn, trong khi có một Tôn giả Gotama được Tôn giả là bậc chỉ đường, tuy vậy các đệ tử Tôn giả Gotama được Tôn giả khuyến giáo, bảo vệ giảng dạy như vậy, mà một số chứng được cứu cánh Niết-bàn và một số không chứng được?”
Đức Phật trả lời một cách rất nhẹ nhàng, khiêm tốn, nhưng cũng rất thiết thực và tuyệt diệu. Ngài giữ đúng vị trí của bậc Đạo Sư đối với các đệ tử:
"Cũng vậy, này Bà-la- môn, trong khi có một Niết-bàn, có một con đường đưa đến Niết-bàn, và trong khi có mặt Ta là người chỉ đường. Nhưng các đệ tử của Ta được Ta khuyến giáo như vậy, giảng dạy như vậy, một số chứng được cứu cánh Niết-bàn một số không chứng được. Ở đây, này Bà-la-môn, Ta làm gì được? Như Lai chỉ là người chỉ đường” (MN 107).
Câu trả lời của Đức Phật vừa nói lên trách nhiệm của một bậc Đạo Sư là trình bày giảng dạy con đường giải thoát giác ngộ, chứ không phải thay thế đệ tử tu hành giúp cho các đệ tử. Thái độ Đức Phật trong tư cách của một bậc Đạo Sư cũng nói lên lòng tin tưởng của mình đối với khả năng hiểu biết và tu chứng của mình đối với khả năng hiểu biết và tu chứng của các đệ tử của mình. Ngài chỉ dạy con đường, các dệ tử phải tự mình dấn bước trên con đường ấy. Không những Đức Phật đóng đúng vị trí bậc Đạo Sư đối với các đệ tử. Ngài còn đặt ra những tiêu chuẩn để hướng dẫn các đệ tử phải tìm thầy học đạo như thế nào để có thể được giải thoát giác ngộ, như đã trình bày trong kinh Khu rừng (MN 17):
“Vị tỳ-kheo đệ tử cần phải suy tư như sau: ‘Ta sống gần người này, các niệm chưa an trú được an trú, tâm chưa định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ, được đoạn trừ, và vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được thành đạt được thành đạt, và những vật dụng này cần thiết cho một đời sống xuất gia phải được sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, y dược trị bệnh, những vật dụng này nhận được một cách không khó khăn’. Này các tỳ- kheo, vị tỳ-kheo ấy cần phải trọn đời theo sát người này, không được bỏ đi, dầu cho có bị xua đuổi”.
Như vậy tiêu chuẩn của một bậc Đạo sư lý tưởng đối với các đệ tử, một mặt phải đem lại những vật dụng vật chất cần thiết để nuôi đưỡng người đệ tử, một mặt phải đáp ứng nhu cầu giải thoát giác ngộ của người đệ tử “Niệm chưa an trú được an trú, tâm chưa được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ”.
Như vậy đoạn này trình bày rõ ràng những tiêu chuẩn để người đệ tử lựa chọn bậc Đạo sư, và bổn phận bậc Đạo sư cần phải làm đối với đệ tử.
Đại kinh về tánh Không (MN 122) lại minh định rõ ràng hơn những tiêu chuẩn, một đệ tử Thanh văn nghĩ là hợp lý xứng đáng để đi theo một bậc Đạo sư dầu cho bị hắt hủi. Nếu bậc Đạo sư có khả năng giảng dạy Khế kinh và Phúng tụng v.v. thật chưa xứng đáng cho một đệ tử bám sát theo vị Đạo sư dầu cho bị hắt hủi vì rằng: “
Trong một thời gian dài, các pháp đã được các người nghe, thọ trì, đọc lớn tiếng, suy tư với ý, khéo thấu hiểu với chánh trí. Nhưng này Ānanda, đối với những lời nói nào khắc khổ, khai tâm, đưa đến nhất hướng ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, Niết-bàn, như là thiểu dục luận, tri túc luận, độc cư luận, bất chúng hội luận, tinh cần luận, giới luận, định luận, tuệ luận, giải thoát luận, giải thoát trí kiến luận. Này Ānanda, do nhân duyên những loại thuyết luận như vậy, thật xứng đáng cho một Thanh văn đệ tử bám sát vị Đạo sư dầu cho bị hất hủi.”
Nói một cách rõ ràng hơn, chỉ có bậc Đạo sư dạy cho các đệ tử đạt được thiểu dục, tri túc, độc cư, bất chúng hội, tinh cần, giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến mới thật xứng đáng cho người đệ tử trọn đời theo vị ấy dầu cho bị hất hủi. Và chúng ta có thể nói một bậc Đạo sư đáp ứng được những tiêu chuẩn như trên sẽ không bao giờ hất hủi một vị đệ tử nhiệt thành như vậy.
Cũng trong Đại kinh về tánh Không (MN 122), Đức Phật yêu cầu các đệ tử đối với Ngài nên đối xử với tâm thân hữu, không với tâm thù nghịch, vì như vậy các đệ tử sẽ được hạnh phúc lâu dài:
“Và như thế nào, là các đệ tử đối xử vị Đạo sư với tâm thù nghịch, không với tâm thân hữu? Ở đây này Ānanda, vị Đạo sư vì lòng từ mẫn thuyết pháp cho các đệ tử, mong cầu hạnh phúc cho các đệ tử, vì lòng từ mẫn nói rằng: ‘Đây là hạnh phúc cho các ông, đây là an lạc cho các ông’. Nhưng các đệ tử của vị ấy không chịu nghe theo, không chịu lóng tai, chú tâm vào hướng khác, ngược lại, họ đi xa lời giảng dạy của vị Đạo sư. Này Ānanda, như vậy là các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thù nghịch, không với tâm thân hữu.
“Và như thế nào này Ānanda, là các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư, với tâm thân hữu, không với tâm thù nghịch? Ở đây, này Ānanda vị Đạo sư với lòng từ mẫn nói rằng: ‘Đây là an lạc cho các ông’. Các đệ tử của vị ấy chịu nghe theo, chịu lóng tai, không chú tâm vào hướng khác, và không ngược lại đi xa lời dạy của bậc Đạo sư. Này Ānanda, như vậy là các đệ tử đối xử với bậc Đạo sư với tâm thân hữu, không phải với tâm thù nghịch. Do vậy, này Ānanda, như vậy hãy đối xử với Ta với tâm thân hữu, chớ với tâm thù nghịch và như vậy sẽ là hạnh phúc, là an lạc lâu dài cho các ông.”
Đến đây, Đức Phật tuyên bố rõ ràng là Ngài không sách tấn các đệ tử của Ngài như người thợ gốm đối với đồ gốm chưa nung, chưa dược nung chín vì sợ các đồ gốm chưa được nung sẽ bị bể và Đức Phật tuyên bố: "Ta sẽ nói hết lời chỉ trích này đến lời chỉ trích khác, hết lời tán thán này đến lời tán thán khác”, nghĩa là các đệ tử nào xứng đáng bị rầy la thời Ngài rầy la thẳng thắn, không nhân nhượng. Và những đệ tử nào xứng đáng được tán thán thời bậc Đạo sư của chúng ta nói lên những lời tán thán, không có tiếc lời. Và Ngài giải thích vì sao Ngài có thái độ như vậy:
“Vì cái gì là lõi cây, cái ấy sẽ tồn tại lâu dài (Yo sāro so ṭhassati)" (MN 122). Bậc Đạo sư dạy cho các đệ tử đạt cho được lõi cây của Phạm hạnh, không dừng lại ở giác cây, vỏ trong, vỏ ngoài và cành lá của Phạm hạnh, vì chỉ khi nào đạt được lõi cây Phạm hạnh, nghĩa là thật sự giác ngộ và giải thoát, khi ấy vị đệ tử mới đạt được cứu cánh của sự tu hành hoàn toàn được hạnh phúc an lạc lâu dài. Thật sự chúng ta có một bậc Đạo sư tha thiết mong cho các đệ tử của mình, xuất gia cũng như tại gia, được chân hạnh phúc. Và hạnh phúc lâu dài chỉ đến với những vị thật sự giải thoát, thật sự giác ngộ.
Như vậy, chúng ta đã lần lượt trình bày về "Đức Phật của chúng ta” dưới sáu đặc điểm:
1. Đức Phật với mục đích duy nhất cứu khổ, độ
2. Ngang qua kinh nghiệm bản thân, Ngài tìm ra con đường giải thoát cho mình và cho mọi loài.
3. Vị trí có một không hai của Đức Phật.
4. Đức Phật với thần thông.
5. Đức Phật với vị trí con người.
6. Đức Phật với vị trí là một bậc Đạo sư.
Với sáu đặc điểm trên, và dựa trên những tư liệu kinh tạng Pali, chúng tôi chỉ có thể xem là tạm đủ để trình bày một vài đặc điểm về thân thế và sự nghiệp của bậc "Đạo sư của chúng ta”. Hình ảnh dầu cho chưa đầy đủ này cũng giúp chúng ta thấy rõ, Đức Phật luôn luôn đứng trên vị trí con người để tầm đạo, học đạo, tu tập thiền quán và chứng ngộ đạo quả và hoằng pháp độ sanh. Không bao giờ Ngài cầu khẩn thần linh ban phước, thần khởi, Ngài hoàn toàn dựa vào tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực và tuệ lực của con người ở trong Ngài để tìm ra được phương pháp giải thoát giác ngộ.
Cũng vậy, trong nhiệm vụ độ sanh, Ngài hoàn toàn dựa trên tâm lý con người, hướng dẫn con người hướng thượng, giúp con người thoát khỏi các cám dỗ của dục vọng hạ liệt làm hại phẩm giá con người, giúp con người vươn lên đạt được những tâm lý hướng thượng, bằng phương pháp thiền định, thiền quán và cuối cùng dùng trí tuệ để đoạn tận khổ đau. Chúng ta có thể nói Đức Phật là một con người toàn diện, sử dụng toàn diện khả năng con người để được giác ngộ giải thoát.
(Bài giảng nhân mùa Phật Đản, Phật lịch 2539 -
1995 tại thiền Viện Vạn Hạnh)