Khi một con người si mê chưa giác ngộ 
  Mơ hồ tưởng mình là bậc thánh 
  Y hành sử như một tên đạo chích 
  Lẻn vào hoàng cung đánh cắp ngọc ngà 
  Khi một người còn si mê chưa giác ngộ 
  Y như con voi bị kẹt giữa đám bùn lầy
  Truyền thuyết
  Ngài Nagarjuna tức Bồ Tát Long Thụ,  xuất thân từ dòng dõi bà-la-môn thuộc vương quốc Càn-chí (Kanci),  miền đông Ấn Độ.
  Thuở thiếu thời ngài là một con người gàn  dở, thường hay nhũng nhiễu, cưỡng đoạt tài sản người khác. Số nạn nhân lên đến  25.000 gia đình. Dân chúng trong vùng oán thán và các thầy tư tế bà-la-môn cũng kinh hãi dời chỗ ở.
  Về sau, Nagarjuna thấy hối hận về  những hành vi tác tệ của mình, ngài đem trả lại tài sản đã cưỡng đoạt và phân  chia tài sản riêng của chính mình cho những kẻ nghèo khó, rồi tự lưu đày mình  sang xứ khác.
  Rời Kahora, ngài đến tu viện Nalanda để tu học. Tại đây ngài trở thành một học tăng kiệt xuất về Ngũ minh môn.  Nhưng chẳng bao lâu ngài chán ngán môn này, quay sang tu thiền.
  Ngài thường trì tụng thần chú Long Nữ (Tara  mantra). Do sự cảm ứng, vị nữ thần này tuân theo sở nguyện của ngài nên khiến  tu viện luôn có đầy đủ vật thực cho 700 vị tăng của tu viện.
  Nhưng bản thân ngài thích sống cuộc đời  du hành khất thực. Mỗi đêm khi ngã lưng nằm xuống, ngài lại suy nghĩ: “Ta thật  là vô tích sự. Ta phải tìm phương tiện khéo để giúp đỡ chúng sinh.”
  Vì vậy, ngài đến vùng Rajagrha để  nhập thất và dùng thần chú để triệu thỉnh 12 nữ dạ-xoa Đại tướng, tức 12 vị thần  chủ quản các nguyên tố đất, nước, lửa, gió.
  Khi ngài nhập đàn khởi trì thần chú, thì  ngày thứ nhất động đất xảy ra, ngày thứ hai hạn hán, ngày thứ ba có bão lửa,  ngày thứ tư gió to, ngày thứ năm mưa gươm đao, ngày thứ sáu có vô số kim cương  từ hư không rơi xuống.
  Đến ngày thứ bảy, 12 vị nữ dạ-xoa hợp  lực tấn công ngài dữ dội, nhưng ngài vẫn không động tâm.
  Sau đó, ngài dùng Hàng phục pháp (Kuyo)  để nhiếp phục các nữ dạ-xoa. Chúng nữ dạ-xoa hiện ra đảnh lễ,  cung kính thưa: “Bạch tôn sư, chúng đệ tử có mặt.”
  Ngài dạy: “Các ngươi ngày ngày hãy mang  cho ta một ít vật thực.”
  Chúng thần lãnh mệnh lui đi. Rồi mỗi ngày  họ đều mang đến cúng dường cho ngài một nắm cơm và một nắm rau trong suốt 12  năm.
  Sau đó ngài lại thu nhiếp thêm 108 thần nữ dược-xoa. Để giúp đỡ chúng sinh, ngài định dùng thần thông biến núi Gandhasila thành núi vàng. Trước tiên, ngài dùng định lực biến ngọn núi lớn này thành núi  sắt, rồi từ sắt biến thành đồng, nhưng khi ngài định tiếp tục biến nó thành  vàng thì Bồ Tát Văn-thù hiện ra ngăn lại: “Chớ có làm thế? Nếu tôn giả  biến ngọn này núi thành vàng thì cũng chỉ tạo ra sự tranh giành giữa các chúng  sanh mà thôi, khác gì tạo nghiệp ác cho họ? Chi bằng tôn giả ra sức giáo hoá  cho chúng thoát khỏi ba đường ác, đạt đến Niết-bàn giải thoát.”
  Vâng lời Bồ Tát, ngài Nagarjuna thôi không thi triển pháp thuật. Vì vậy, cho đến ngày nay ngọn núi Gandhasila vẫn còn giữ nguyên màu tia tía của chất đồng.
  Rời chốn ấy, Nagarjuna đi về phía  nam. Nơi ấy có một con sông lớn chắn ngăn. Ngài nhờ những người chăn cừu quanh  đấy chỉ giúp ngài chỗ cạn nhất để ngài có thể lội qua bờ kia. Nhưng họ lại đưa  ngài đến khúc sông sâu và đầy cá sấu.
  May thay, một kẻ tốt bụng tình nguyện  cõng ngài bơi qua sông. Đến giữa sông, Nagarjuna dùng thần thông hoá ra  một bầy cá sấu ra vẻ như đe doạ cả hai. Người đàn ông tốt bụng vẫn giữ vẻ điềm  nhiên: “Ngài đừng sợ. Miễn là ta còn sống, ta sẽ cố đưa ngài an toàn sang  sông.”
  Nghe nói thế, sư lấy làm cảm phục, thâu  phép lại và nói: “Ta là Arya Nagarjuna. Ngươi nhận ra ta chăng?” 
  “Tôi có nghe đại danh của tôn sư nhưng  lâu nay chưa từng gặp.”
  “Ngươi có công mang ta qua sông an toàn.  Vậy ngươi ước nguyện điều chi, ta sẽ biến thành hiện thực.”
  “Vậy xin tôn sư cho tôi được làm vua.”
  Sư toé nước vào một thân cây sala,  lập tức cây ấy hóa thành con voi trắng cho vua cưỡi.
  “Nhưng còn binh lính?” 
  “Khi nào voi rống, tức thì có binh lính  hiện ra.”
  Đức vua ấy lấy hiệu là Salabandha,  cai trị tám triệu bốn trăm ngàn hộ dân trên một vùng đất nguy nga tên là Bhabitan.  Vua lập nàng Sindhi làm hoàng hậu.
  Sau một vài năm trị vì vương quốc Bhabitan,  vua Salabandha đâm ra chán ngán cuộc đời làm vua của mình, ông lại tìm đến Sriparvatta để tìm sự khuây khoả.
  Nhà vua tìm đến thầy mình và khẩn nài: “Bạch  thầy! Làm vua chỉ được một ít lạc thú mà quá nhiều phiền não. Con muốn từ bỏ  ngai vàng để được kề cận bên thầy.”
  “Ngươi chớ từ bỏ vương quốc của mình. Hãy  giữ lấy xâu chuỗi này. Nó sẽ bảo vệ vương quốc của ngươi, ban cho ngươi thứ rượu  vô uý khiến tâm ngươi không kinh hãi khi đối mặt với thần chết.”
  Mặc dù không muốn trở về nhưng nhà vua phải  vâng lời thầy.
  Tất cả mọi thứ trong vương quốc Bhabitan từ cây cối đến chim muông đều tươi tốt khoẻ mạnh khiến quỷ thần ghen tị. Cho đến  một ngày nọ, ánh sáng mặt trời, mặt trăng tự dưng biến mất, hoa quả chưa đến kỳ  đơm bông kết trái đã lìa cành, dịch bệnh hoành hành, rừng khô, cỏ úa...
  Chứng kiến những hiện tượng lạ thường như  thế, vua Salabandha đoán biết thầy mình gặp nạn. Ngài liền trao quyền  bính cho thái tử Cindhakumara rồi đem theo một ít tùy tùng đến vấn an thầy.
  Sư Nagarjuna hỏi: “Này con! Vì sao  con đến?” 
  Nghe thầy hỏi, đức vua cất tiếng hát ai  oán: 
  Định mệnh ôi trớ trêu, 
  Phật pháp sao khó bày 
  Bóng tối che ánh sáng 
  Mây mù che trăng rằm 
  Thánh tăng còn phải lụy
  Sinh tử chia đôi đường 
  Con đến đây chỉ vì 
  Chợt thấy điềm bất tường 
  Cúi mong thầy từ bi 
  Ban cho cam lồ vị 
  Sư đọc kệ đáp: 
  Có sinh thì có diệt 
  Tụ tán lẽ thường tình 
  Trần gian là huyễn mộng 
  Chớ buồn rầu, sầu khổ 
  Rượu vô uý! Cạn ly! 
  Vua buồn rầu hỏi: “Thưa tôn sư, nếu như  tôn sư không còn có mặt trên đời này nữa, thì rượu vô uý kia nào có vị chi?” 
  Biết đã đến lúc phải trả nghiệp đời trước,  ngài Nagarjuna phát nguyện bố thí tất cả những thứ mà ngài sở hữu. Phạm  Thiên bèn hoá thành một người bà-la-môn đến xin thủ cấp của ngài. Bồ Tát  hoan hỷ nhận lời. 
  Vua Salabandha không nỡ chứng kiến  cái chết của thầy, ngài tựa đầu vào chân sư rồi tắt thở.
  Dân chúng thấy vậy, nguyền rủa không tiếc  lời ý muốn độc ác của kẻ kia. Nhưng vô ích, Sư đã hứa cho đầu của mình.
  Ngài dùng ngọn cỏ sula tự cắt lấy  đầu rồi trao cho người bà-la-môn kia. Tức thời, muôn thú kêu vang thảm  thiết, cây cối héo tàn. Tám nữ dạ-xoa đại tướng hiện ra canh giữ nhục  thân của sư, không rời giây lát.
  Từ thi thể của sư phát ra một luồng ánh  sáng bay vút lên cao, nhập thẳng vào ngài Nagabhodi (Long Trí).
  Truyền thuyết còn nói rằng khi đức Phật Di-lặc ra đời trong tương lai thì ngài Nagarjuna sẽ tái sinh để cứu độ chúng  sinh.
  Sử liệu
  Theo truyền thống Mật tông, các bậc  thánh và các đạo sư thường mang chung một tên. Đây là sự khế hợp giữa tâm và  tâm của vị trước và vị sau. Việc này rất thông thường đối với bậc tái sinh (tulku).  Chính vì vậy, người đời sau thường nhầm lẫn.
  Có hai vị đạo sư mang tên Nagarjuna,  tức Long Thụ. Vị Long Thụ thứ nhất sinh vào khoảng thế kỷ thứ 2 ở miền nam Ấn Độ  (150-250), thường được xem như Phật Thích-ca tái thế. Ngài là một triết  gia vĩ đại, đã trước tác các bộ luận và hệ thống biện chứng về Trung quán (Madhyamika). 
  Vị Long Thụ thứ hai sinh vào thế kỷ thứ  9, vốn là vị tổ của hệ phái Guhyasamaja Tan-tra, môn đệ của ngài Saraha.
  Tiểu sử của ngài Long Thụ thứ nhất được dịch  sang Hán văn vào năm 405, do công của một nhà sư truyền giáo tên là Kumarajiva (Cưu-ma-la-thập). 
  Thuở thiếu thời, ngài Long Thụ đã chứng tỏ  trí tuệ phi phàm. Chưa đầy 20 tuổi, ngài đã nổi tiếng uyên bác các kinh điển  truyền thống của đạo Bà-la-môn. Nhưng sau đó ngài chán ngán và lăn mình  vào các thú vui ngũ dục. 
  Tương truyền rằng có một đạo sĩ đã dạy  ngài phép tàng hình, có thể đi lại tự tại mà không ai nhìn thấy. Ngài đã cùng  ba người bạn xâm nhập vào cung cấm để trêu ghẹo các công nương.
  Chẳng may sự việc bị phát giác, ba người  bạn bị quan quân giết chết. Riêng ngài thoát được nhờ phép ẩn thân đứng ngay  bên cạnh nhà vua.
  Ân hận vì cái chết của những người bạn,  ngài đến Nalanda xuất gia học Phật. Tại đây, ngài nhanh chóng quán triệt  yếu nghĩa của Tam tạng kinh điển (Tripitaka), kể cả các bộ kinh Đại  thừa (mahayana-sutra).
  Nhưng vì không thoả mãn với kiến thức ấy,  ngài lại vân du khắp nơi để sưu tập các kinh điển bị thất truyền.
  Trong các cuộc tranh biện, ngài luôn luôn  đánh bại lý luận của đối phương, nên tỏ ra rất kiêu hãnh.
  Ngài phát minh các luận thuyết mới và  sáng lập ra một hệ phái riêng dựa trên căn bản thực tại (non-rejection).  Chính vì quan điểm sai lệch này, vị Đại long vương cảm thấy thương hại nên đưa  ngài xuống Tàng kinh các ở long cung. Nơi đây có một số kinh điển mà đức  Phật Thích-ca đã phó thác cho Đại long vương gìn giữ để trao lại cho  ngài Long Thụ.
  Với trí tuệ phi phàm, trong vòng 90 ngày  ngài đã nắm bắt được yếu nghĩa của tất cả những kinh điển này. Tuy nhiên, ngài  hiểu rằng sự thân chứng giáo pháp mới gọi là sở đắc rốt ráo.
  Do đó ngài nhập định để tu pháp môn “Nhẫn  nhục Ba-la-mật”. Khi xuất định, ngài trước tác bộ luận Trung quán (Madhyamika)  và nỗ lực hoằng dương đạo pháp.
  Ngài kết thúc cuộc đời sau khi một đạo sĩ Bà-la-môn thách thức ngài thi triển pháp thuật. Nagarjuna hoá  thành con bạch tượng chụp lấy kẻ kia và đả thương y, nhưng khi nhìn lại thấy đạo  sĩ vẫn điềm nhiên ngồi trên cánh sen trong một cái hồ thiêng lộ vẻ khinh miệt.
  Thất bại, ngài tự nhốt mình trong thiền  thất và đến khi một đệ tử của ngài phá cửa xông vào thì chẳng thấy gì ngoài một  con ve sầu vụt bay thoát ra ngoài.
  Về vị Long Thụ thứ hai, có thuyết nói rằng  chính đại sư Saraha đã làm lễ thí phát và điểm đạo cho ngài, khiến ngài  có thể nhập vào Mạn-đà-la của Phật Vô Lượng Thọ, đồng thời dạy  ngài thần chú để nhiếp phục thần chết.
  Đại sư Saraha còn dạy ngài Guhyasamaya  tantra và các môn huyền thuật (Tantra) khác trước khi ngài được  giáo thọ của ngài là sư Rahuhabhadra truyền tâm pháp.
  Sự nghiệp tu học của ngài bị đứt  đoạn và bị trục xuất khỏi tu viện vì phạm vào qui củ của thiền viện. Đó là khi Nagarjuna khám phá ra cách cất rượu từ vàng để phục vụ tăng đoàn trong thời kỳ đói kém.  Khi ấy ngài là vị tăng phục vụ trong nhà bếp của tu viện.