Trong hầu hết các kinh điển Đại thừa, tâm từ bi luôn được nhắc đến
như một yếu tố, một phẩm chất quan trọng và căn bản nhất của người
tu tập ngay từ khi khởi sự phát tâm Bồ-đề. Từ bi là những yếu tố
thuộc về Bốn tâm vô lượng, nhưng thường được nhắc đến nhiều hơn so
với hai yếu tố còn lại là hỷ và xả. Hơn nữa, tuy từ và bi rất thường
được đồng thời nhắc đến, nhưng tâm từ vẫn được nhắc đến nhiều hơn
trong sự tu tập. Ngay cả những phân tích về sự thuyết giảng của đức
Phật trong kinh Đại Bát Niết-bàn này cũng cho thấy điều đó không là
ngoại lệ.
Mặc dù cả bốn tâm vô lượng này đều được đức Phật thuyết dạy với tầm
quan trọng như nhau và thậm chí có khi còn được xem như chỉ là bốn
biểu hiện của cùng một tâm, nhưng sự khác biệt giữa các phẩm tính
từ, bi, hỷ và xả quả thật có được giảng giải trong rất nhiều kinh
điển. Những ý nghĩa này có thể thấy được trong lời Phật dạy sau đây:
“Thiện nam tử! Tâm vô lượng có bốn thể tánh, nếu ai tu hành theo đó
thì sanh lên cõi trời Đại phạm. Thiện nam tử! Vì tâm vô lượng này
chia thành bốn nhóm nên gọi là bốn.
“Người tu tâm từ có thể dứt trừ tham dục; người tu tâm bi có thể dứt
trừ sân hận; người tu tâm hỷ có thể dứt hết những điều không vui;
người tu tâm xả có thể giúp chúng sanh [khác] dứt trừ tham dục và
sân khuể. Thiện nam tử! Vì nghĩa ấy nên gọi là bốn, chẳng phải là
một, hai hay ba.”
(trang 298, tập III)
Đức Phật cũng giải thích rõ hơn về sự phân biệt bốn tâm vô lượng
này:
“Thiện nam tử! Vì chỗ thực hành khác nhau mà nên gọi là bốn. Trong
khi thực hành tâm từ thì không có bi, hỷ, xả. Cho nên phải có bốn.”
(trang 300, tập III)
Và trong kinh Đại Bát Niết-bàn này, đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến
tâm từ như một phẩm tính tiêu biểu nhất. Nhưng sự tu tập tâm từ
trong kinh này được giảng giải từ góc độ Đại thừa, có sự khác biệt
rất sâu xa so với cách hiểu thông thường. Chẳng hạn, tâm từ trong
kinh này được phân biệt ở hai mức độ khác nhau là từ và đại từ. Đức
Phật dạy như sau:
“... ... Rồi lại tiếp tục tu tập thay đổi [tiến bộ] hơn nữa. Đối với
những kẻ oán ghét nhiều cũng như ít, cũng như ở mức trung bình, đều
bình đẳng mang lại cho họ niềm vui lớn nhất.
“Nếu đối với những kẻ mình oán ghét nhất mà mang đến cho họ niềm vui
lớn nhất thì lúc ấy có thể nói là đã thành tựu được tâm từ. Vị Bồ
Tát ấy lúc bấy giờ dù đối với cha mẹ hay đối với những kẻ mình oán
ghét nhất cũng đều có lòng bình đẳng, chẳng xem là khác biệt nhau.
“Thiện nam tử! Như vậy gọi là tu được tâm từ, không phải là đại từ.”
(trang 302, tập III)
Điều này không khỏi gợi lên sự thắc mắc vì khác biệt với những ý
nghĩa thường được giảng giải trong các kinh điển trước đây. Với sự
tu tập đã đạt đến mức “đối với những kẻ mình oán ghét nhất mà mang
đến cho họ niềm vui lớn nhất” nhưng chỉ xem là “tu được tâm từ,
không phải là đại từ” thì quả là không khỏi làm cho người ta phải
kinh ngạc. Chính vì thế, Bồ Tát Ca-diếp đã ngay lập tức nêu lên sự
thắc mắc và được đức Phật giải đáp rõ ràng như sau:
Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ chi mà Bồ Tát
được tâm từ như vậy vẫn chưa được gọi là đại từ?”
Phật dạy: “Thiện nam tử! Vì sự tu tập [như vậy là] thành tựu một
cách khó khăn nên không gọi là đại từ. Vì sao vậy? Đã từ lâu xa
trong vô số kiếp quá khứ tích chứa nhiều phiền não, chưa tu pháp
lành, cho nên không thể trong một ngày mà điều phục được tâm.”
(trang 302, tập III)
Rõ ràng sự tu tập “thành tựu một cách khó khăn” đó chính là vì dựa
trên nền tảng của sự thấy biết phân biệt. Do đó mà người tu tập muốn
dứt trừ, phá bỏ những kiến chấp phân biệt từ nhiều đời nhiều kiếp
thật không dễ dàng chút nào. Đức Phật dạy:
“Thiện nam tử! Ví như hạt đậu khô cứng, dùi đâm mãi cũng không bám
vào được. Phiền não kiên cố, bền chặt cũng như vậy, tuy suốt ngày
đêm chú tâm không tán loạn, cũng khó điều phục được.”
(trang 303, tập III)
Người tu tập dựa trên nền tảng của sự thấy biết phân biệt thì ngay
từ đầu đã thấy có người thân kẻ oán rồi mới ra công gắng sức để xóa
bỏ ranh giới phân biệt đó. Bởi vậy, đã trải qua bao nhiêu kiếp sống
huân tập, củng cố cái kiến chấp phân biệt đó thì làm sao có thể
trong ngày một ngày hai có thể phá bỏ đi được? Điều này thật hoàn
toàn khác với tinh thần tu tập của vị Bồ Tát Đại thừa được Phật dạy
như sau:
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát trụ ở Sơ địa gọi là đại từ. Vì sao
vậy? Thiện nam tử! Kẻ xấu ác nhất gọi là nhất-xiển-đề. Bồ Tát trụ ở
Sơ địa trong khi tu tập đại từ, đối với những kẻ nhất-xiển-đề cũng
không thấy có gì khác biệt, không thấy lỗi lầm của họ, nên không
sanh sân hận. Vì nghĩa ấy nên được gọi là đại từ.”
(trang 304, tập III)
Vì “không thấy có gì khác biệt” nên không cần phải nhọc công xóa bỏ
ranh giới phân biệt giữa những đối tượng khác nhau. Và chính vì thế
nên cũng không có gì làm giới hạn tâm lượng của vị Bồ Tát này, do đó
mà được gọi là đại từ. Tinh thần vô phân biệt này được đức Phật
giảng giải như sau:
“Thiện nam tử! Vì chúng sanh mà trừ bỏ những việc vô ích, đó gọi là
đại từ. Mong muốn mang đến cho chúng sanh vô lượng những điều lợi
ích, vui vẻ, đó gọi là đại bi. Đối với chúng sanh trong lòng sanh
hoan hỷ, đó gọi là đại hỷ. Không có gì để ôm giữ, bảo vệ, đó gọi là
đại xả.
“Như không thấy có bản ngã và các tướng pháp, không thấy có thân
mình, thấy hết thảy các pháp đều bình đẳng không phân hai, đó gọi là
đại xả.”
(trang 304, tập III)
Như vậy, sự tu tập nếu được dựa trên nền tảng của tinh thần vô phân
biệt này thì mới có thể đạt đến tâm lượng đại từ.
Có một điều khá đặc biệt trong kinh này là mối quan hệ giữa Bốn tâm
vô lượng và Sáu pháp ba-la-mật được đức Phật nhấn mạnh và xác quyết:
“Thiện nam tử! Chỉ Bốn [tâm] vô lượng ấy mới có thể giúp Bồ Tát tăng
trưởng đầy đủ sáu pháp ba-la-mật mà thôi, ngoài ra các hạnh tu khác
đều không có khả năng ấy.”
(trang 304, tập III)
Tuy vậy, sự tu tập chân chánh của vị Bồ Tát theo tinh thần Đại thừa
cũng không hề chê bỏ những pháp tu căn bản, từ thấp lên cao. Đức
Phật dạy:
“Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát trước tiên phải đạt được Bốn tâm vô
lượng của thế gian, tiếp đó mới phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề, sau nữa mới được Bốn tâm vô lượng xuất thế gian.”
(trang 304, tập III)
Đoạn kinh văn này không khỏi làm chúng tôi nhớ đến một lời dạy trong
kinh Duy-ma-cật:
“Bồ Tát tùy kỳ trực tâm, tắc năng phát hành. Tùy kỳ phát hành, tắc
đắc thâm tâm. Tùy kỳ thâm tâm, tắc ý điều phục.”
(Bồ Tát tùy lòng ngay thẳng mà khởi làm. Tùy chỗ khởi làm mà được
lòng sâu vững. Tùy lòng sâu vững mà tâm ý được điều phục.)
Kinh Duy-ma-cật, phẩm Phật quốc
Lòng sâu vững (thâm tâm) ở đây được dùng để chỉ đức tin sâu vững.
Còn nhớ cách đây hơn 20 năm, lời dạy này đã khiến chúng tôi phải băn
khoăn thắc mắc trong suốt một thời gian dài. Vì đã tiếp nhận không
ít những tri thức của nền văn minh khoa học hiện đại, chúng tôi thuở
ấy luôn cho rằng chỉ sau khi tin nhận một điều gì mới nên khởi làm.
Những ai chưa có sự tin nhận mà đã làm theo hẳn phải thuộc về hạng
người mê tín. Thế nhưng kinh văn ở đây lại dạy rằng phải do nơi chỗ
khởi làm rồi sau đó mới có được lòng tin sâu vững! Câu trích dẫn
trên trong kinh Đại Bát Niết-bàn cũng mô tả một trình tự mà thuở ấy
chúng tôi vẫn cho là “đi ngược”:
“Bồ Tát ma-ha-tát trước tiên phải đạt được Bốn tâm vô lượng của thế
gian, tiếp đó mới phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề...”
Theo cách hiểu của chúng tôi lúc ấy thì lẽ ra việc phát tâm Bồ-đề
phải là điều đến trước, rồi sau đó mới bắt đầu mọi tiến trình tu
tập!
Vấn đề ở đây là có một khác biệt rất lớn giữa cái mà hầu hết chúng
ta gọi là lòng tin với đức tin sâu vững mà kinh văn đề cập. Đức tin
này trong một phần trước đã được chúng tôi gọi là đức tin Đại thừa.
Lòng tin theo ý nghĩa thông thường có thể sanh khởi sau quá trình
quan sát hoặc suy xét từ những điều tai nghe mắt thấy, nhưng đức tin
sâu vững thì không thể đạt được theo cách đó mà nhất thiết phải có
sự “khởi làm” mới có thể đạt đến. Trường hợp Phật dạy về Bốn tâm vô
lượng và sự phát tâm Bồ-đề ở đây cũng vậy. Nếu không có sự tu tập
đạt được Bốn tâm vô lượng ở mức độ thế gian thì hành giả chưa thể đủ
sức để phát khởi một tâm Bồ-đề kiên cố. Vì thế mà Phật dạy phải tu
tập Bốn tâm vô lượng của thế gian rồi mới có thể phát tâm Bồ-đề, rồi
tiếp đó mới có thể tu tập Bốn tâm vô lượng xuất thế gian, tức là các
đức đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Đức Phật nói rõ hơn về trình tự
tu tiến này như sau:
“Thiện nam tử! Nhân chỗ vô lượng của thế gian mà được chỗ vô lượng
xuất thế gian. Vì nghĩa ấy, nên gọi là đại vô lượng.”
(trang 304, tập III)
Về công năng của sự tu tập tâm từ, ngoài những sự dứt trừ tham dục,
sân hận... như đã nói trên, đức Phật còn nhấn mạnh:
“Lại nữa, thiện nam tử! Bốn tâm vô lượng của Bồ Tát ma-ha-tát có thể
làm căn bản cho hết thảy các điều lành.”
(trang 307, tập III)
Vì là “căn bản cho hết thảy các điều lành” nên cũng có thể hiểu rằng
đây là điều kiện để sanh khởi mọi pháp lành. Hay nói theo một cách
khác, người chưa tu tập được Bốn tâm vô lượng này thì xem như chưa
thể sanh khởi được bất cứ pháp lành nào khác. Đức Phật đã nêu ra rất
nhiều ý nghĩa để làm rõ hơn cho lời dạy trên, chẳng hạn:
“Nếu chẳng phát sanh lòng từ, ắt không khởi tâm rộng rãi bố thí.”
(trang 307, tập III)
Và không chỉ là sự khởi tâm bố thí, mà còn là tất cả những pháp lành
khác, như lời Phật dạy sau đây:
“Thiện nam tử! Căn lành của hết thảy Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát
cho đến chư Ph���t Như Lai đều lấy đức từ làm căn bản. Thiện nam tử!
Bồ Tát ma-ha-tát tu tập tâm từ có thể sanh ra vô lượng căn lành như
vậy. Đó là nói các pháp quán bất tịnh, quán hơi thở ra vào, quán
sanh diệt vô thường, Bốn niệm xứ, Bảy phương tiện, Ba quán xứ, Mười
hai nhân duyên những phép quán về vô ngã, Noãn pháp, Đỉnh pháp, Nhẫn
pháp, Thế đệ nhất pháp, Kiến đạo, Tu đạo, Bốn chánh cần, Bốn như ý,
các căn, các lực, Bảy phần Bồ-đề, Tám phần thánh đạo, Bốn thiền, Bốn
vô lượng tâm, Tám giải thoát, Tám thắng xứ, Mười nhất thiết nhập,
các pháp Tam-muội Không, Vô tướng, Vô nguyện, Vô tranh, Tha tâm trí
cùng các thần thông, Tri bản tế trí, Thanh văn trí, Duyên giác trí,
Bồ Tát trí và Phật trí.
“Thiện nam tử! Các pháp như vậy đều lấy đức từ làm căn bản. Thiện
nam tử, vì nghĩa ấy nên đức từ là chân thật, chẳng phải hư dối. Như
có người hỏi rằng: Điều gì là căn bản của tất cả những điều lành?
Nên đáp: Chính là đức từ.”
(trang 319-320, tập III)
Chính vì những ý nghĩa quan trọng như vậy nên sự tu tập tâm từ chính
là nền tảng để đạt đến sự giải thoát rốt ráo. Phật dạy:
“Thiện nam tử! Đức từ chính là cảnh giới không thể nghĩ bàn của chư
Phật. Cảnh giới không thể nghĩ bàn của chư Phật chính là đức từ vậy.
Nên biết rằng đức từ tức là Như Lai.”
(trang 321, tập III)
Và ý nghĩa trên tiếp tục được giảng giải rõ hơn đến mức giúp chúng
ta thấy được rằng ngoài chư Phật ra thì không ai có thể được xem là
đã tu tập thành tựu viên mãn đức đại từ. Phật dạy:
“Thiện nam tử! Đức từ là tánh Phật của chúng sanh. Tánh Phật ấy từ
lâu bị phiền não ngăn che, nên khiến cho chúng sanh không thể thấy
được. Tánh Phật tức là đức từ. Đức từ tức là Như Lai.”
(trang 321, tập III)
Ý
nghĩa tu tập tâm từ là quan trọng và lớn lao như vậy, nên sự tu tập
thành tựu tâm từ chắc chắn sẽ có được những năng lực không thể nghĩ
bàn. Đức Phật dạy:
“Thiện nam tử! Ta dạy rằng đức từ này có vô lượng môn, ấy là nói
thần thông.”
(trang 325, tập III)
Trong suốt phần cuối quyển 25 và đầu quyển 26, đức Phật đã kể lại
rất nhiều các trường hợp mà đức đại từ của chính ngài đã cảm hóa vô
số chúng sanh. Câu chuyện đầu tiên trong số đó là chuyện đức Phật
hàng phục con voi say Hộ Tài.
Thuở ấy, vua A-xà-thế vì nghe lời xúi giục của Đề-bà-đạt-đa nên thả
con voi Hộ Tài đang say rượu điên cuồng ra, muốn làm hại Phật. Sau
đây là đoạn kinh văn thuật lại lời đức Phật mô tả quang cảnh lúc đó:
“Lúc bấy giờ con voi ấy đạp chết rất nhiều người. Người chết rồi lại
có mùi máu tanh xông lên rất nhiều. Voi ngửi thấy mùi máu tanh lại
thêm cuồng say, nhìn thấy những người theo hầu bên ta mặc áo màu đỏ
nên ngỡ là máu liền chạy nhanh đến. Trong các đệ tử của ta, những
người chưa lìa hẳn được lòng dục thảy đều sợ hãi bỏ chạy tứ tán, chỉ
còn duy nhất có A-nan thôi.”
(trang 325, tập III)
Khi ấy, tất cả mọi người trong thành Vương Xá đều kinh hoàng khiếp
sợ và đau buồn than khóc vì thấy đức Như Lai sắp sửa bị hại, nhưng
Phật vẫn thản nhiên và sử dụng uy lực của tâm từ để khuất phục con
voi say điên cuồng hiếu sát này. Đức Phật kể lại:
“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ ta vì muốn hàng phục con voi Hộ Tài nên
liền nhập định khởi tâm từ, duỗi tay ra chỉ vào nó. Tức thời, từ nơi
năm đầu ngón tay của ta hiện ra năm con sư tử. Voi ấy thấy vậy lấy
làm hoảng sợ đến nỗi đại tiểu tiện ngay nơi đó, rồi nằm phục xuống,
cúi đầu sát đất lễ kính dưới chân ta.”
(trang 326, tập III)
Mặc dầu vậy, đối với sự kiện hy hữu này, đức Phật dạy:
“Thiện nam tử! Lúc ấy ở năm đầu ngón tay của ta thật không hề có sư
tử. Chính là do sức căn lành tu từ của ta khiến cho con voi ấy phải
chịu điều phục.”
(trang 326, tập III)
Uy lực của tâm từ là như vậy. Những gì đức Phật kể lại trong câu
chuyện này và nhiều câu chuyện tiếp theo sau đó đều là không thể
nghĩ bàn, bởi tâm đại từ của đức Thế Tôn là không thể nghĩ bàn.
Những câu chuyện được kể lại ở đây đều là những hình ảnh minh họa
cho năng lực đại từ của đức Thế Tôn, nên theo ý nghĩa được giảng
giải trong kinh văn thì điều tất nhiên là những trường hợp hiển lộ
uy lực của tâm từ đến mức độ này hoàn toàn không thể có ở hàng Thanh
văn, Duyên giác, và càng không thể có được ở những người tu tập chưa
có sự chứng đắc. Tuy nhiên, ở mức độ rất thông thường thì chỉ cần
chúng ta chiêm nghiệm ngay trong đời sống hằng ngày cũng có thể thấy
được những trường hợp cụ thể mà tâm từ biểu lộ rõ năng lực chuyển
hóa tự thân cũng như tác động tích cực đến mọi người chung quanh.
Bất cứ ai đã từng có cơ hội gần gũi hoặc tiếp xúc với các bậc thầy
lớn đều có thể xác nhận điều này. Chúng ta dễ dàng cảm nhận được từ
các ngài một nguồn năng lượng từ hòa, giúp ta luôn cảm thấy an ổn
hơn, khoan khoái hơn trong những giờ phút được ở cạnh các ngài. Nhất
là trẻ em luôn tỏ ra đặc biệt nhạy bén trong sự cảm nhận này. Chỉ
cần chúng ta tiếp xúc với các em bằng một tâm từ hòa, chắc chắn các
em sẽ cảm nhận được ngay và có những biểu hiện đáp ứng thích hợp. Vì
thế, người tu tập tâm từ luôn có thể quan sát những biểu hiện của
người chung quanh khi tiếp xúc với mình để biết được mức độ tiến
triển trong sự tu tập.
Ý
nghĩa của những câu chuyện về đức đại từ của Phật được trình bày
trong phần này là nhằm củng cố đức tin của người tu tập, để chúng ta
có thể tin chắc vào năng lực chuyển hóa phi thường của tâm từ, vì có
tin chắc như thế thì sự tu tập của chúng ta mới có thể đạt được kết
quả. Vì đối tượng của kinh này là những người chưa đạt đến tâm từ
của Như Lai nên đức Phật mới nhọc công giảng thuyết để khuyến khích
mọi người tu tập. Vì thế, việc sanh khởi lòng tin đối với những lời
thuyết giảng này của đức Phật đã có thể xem là một sự thành tựu ban
đầu, giúp hành giả có thể tiếp tục dấn bước trên con đường tu tập
một cách tự tin và hiệu quả.
Điều tất nhiên là cũng có người không thể sanh khởi lòng tin qua
những câu chuyện này. Đó là một thiệt thòi rất lớn trong sự tu tập
của họ, vì họ đã từ chối không tiếp nhận sức mạnh của niềm tin mà
đức Phật muốn trao truyền qua những câu chuyện này. Vì không sanh
khởi
được lòng tin, họ
thường suy diễn để đưa ra những cách giải thích mà họ cho là “hợp
lý” hơn về những chuyện được kể lại trong kinh.
[1]
Than ôi! Nhưng nếu mọi sự việc trong đời đều diễn ra “hợp lý” theo
cách suy nghĩ của họ thì đâu cần đến chư Phật ra đời! Vì thế, chúng
tôi từng nói rằng những ai chỉ dừng lại trong thế giới duy lý sẽ
không thể tiếp nhận kinh này. Và điều này xét đến cùng hẳn cũng là
do mối nhân duyên giữa họ với giáo pháp Đại thừa chưa đủ sâu vững.
Bốn tâm vô lượng nói chung và tâm từ nói riêng là một trong những
phần giáo pháp được trình bày chuyên biệt thành một nội dung lớn
trong kinh này, từ giữa quyển 25 kéo dài đến hơn nửa quyển 26. Ngoài
ra, đức Phật cũng thường xuyên nhắc lại về tâm từ trong nhiều phần
thuyết giảng khác. Chẳng hạn, đức Phật nhắc lại về sự phân biệt giữa
tâm từ và tâm đại từ trong đoạn kinh văn sau và gọi đó là tâm từ của
phàm phu và tâm từ của Bồ Tát:
“Thiện nam tử! Đại Bồ Tát tu tập Đại Niết-bàn buông xả tâm từ và đạt
được tâm từ. Khi đạt được tâm từ, không phải do nhân duyên.
“Thế nào là buông xả tâm từ và đạt được tâm từ? Thiện nam tử! Tâm từ
của phàm phu thuộc về Thế đế, Đại Bồ Tát buông xả tâm từ đó, đạt
được tâm từ thuộc về Đệ nhất nghĩa.”
(trang 585, tập IV)
Ở
những nơi khác, đức Phật nhắc lại tiền thân của chính ngài đã tu tập
tâm từ một cách kiên trì như thế nào:
“Thuở ấy, vị Chuyển luân vương sau khi thấy thái tử của mình thành
Phật Bích-chi, oai nghi sáng rỡ, thần thông ít có, liền thản nhiên
từ bỏ ngôi vua như người ta nhổ bãi nước bọt, đến xuất gia giữa rừng
cây sa-la này. Trong suốt tám vạn năm ngài tu tập tâm từ. Rồi đối
với các tâm bi, tâm hỷ và tâm xả, ngài cũng tu tập mỗi tâm trong
suốt tám vạn năm như vậy.”
(trang 512, tập V)
“Vua Thiện Kiến liền cùng với một người hầu đến ở tòa nhà ấy, trải
qua suốt tám mươi bốn ngàn năm tu tập tâm từ. Nhờ nhân duyên của đức
từ ấy mà về sau ngài được liên tiếp làm Chuyển Luân Thánh vương
trong tám mươi bốn ngàn đời; lại làm Thích-đề-hoàn-nhân trong ba
mươi đời; và làm tiểu vương trong vô số kiếp.”
(trang 397, tập VI)
Những trích dẫn trên và tất cả những lời dạy của đức Phật về tâm từ
trong kinh Đại Bát Niết-bàn này cho thấy tầm quan trọng rất lớn của
việc tu tập tâm từ. Hơn thế nữa, chúng ta cần chú ý rằng tâm từ ở
đây được đức Phật thuyết giảng theo ý nghĩa giáo pháp Đại thừa, được
tu tập trên nền tảng của một nhận thức chân thật rốt ráo không phân
biệt. Và chính sự tu tập tâm từ theo cách chân chánh như thế mới là
nền tảng của tất cả mọi điều lành, và sự thành tựu tâm từ đó cũng
chính là cảnh giới giải thoát rốt ráo của chư Phật.