Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
PHẨM THỨ BẢY : TÁN THÁN
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Địa thần Kiên Lao rằng :
- Này thiện nữ thiên ! Đời quá khứ có vị vua tên là Kim Long Tôn thường dùng lời tán thán khen ngợi các đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại rằng :
Con nay tôn trọng
Kính lễ ngợi khen
Khứ, lai, hiện tại
Chư Phật mười phương.
Chư Phật thanh tịnh
Tịch diệt nhiệm mầu
Sắc thượng trong màu
Ánh vàng chiếu sáng.
Ở trong các tiếng
Tiếng Phật trên cùng
Giống như Đại Phạm
Thâm viễn sấm vang.
Tóc Phật đen biếc
Bụt ốc sáng lên (ánh sáng tóc xoắn ốc của đức Phật)
Ong xanh, khổng tước
Màu chẳng thể bằng (chẳng ví được)
Răng ngài tươi trắng
Như ngọc tuyết băng
Kim nhan hiển phát
Phân đều rõ ràng
Mắt ngài dài rộng
Không bẩn sạch trong
Như đóa sen biếc
Nở soi nước xanh
Tướng lưỡi dài rộng
Hình sắc ánh hồng
Ánh sáng chiếu diệu
Như hoa mới sanh.
Vùng mi hào tướng
Trắng màu ánh trăng
Xoắn phải thấm nhuận
Lưu ly sạch trong
Mày cong dài nhỏ
Hình mảnh trăng non
Màu sắc đen mướt
Hơn cả chúa ong.
Mũi cao tròn thẳng
Như đúc thoi vàng
Mềm mại vi diệu
Đang ở diện môn.
Như Lai thắng tướng
Thứ lớp trên cùng (tối thượng)
Được vị chân chính
Không ai ngang bằng.
Mỗi lỗ chân lông
Sinh một lông xoắn
Mịn mềm biếc xanh
Giống cổ khổng tước (chim công).
Khi vừa mới sinh
Thân phóng ánh sáng
Soi khắp mười phương
Vô lượng đất nước
Ba cõi diệt tan
Tất cả các khổ
Khiến các chúng sinh
Hưởng thụ khoái lạc.
Địa ngục, súc sinh
Và cả ngã quỉ
Tất cả nhân thiên
Yên ổn không hoạn.
Tất cả diệt tan
Vô lượng ác thú.
Vi diệu sắc thân
Như nước vàng tụ.
Diện mạo sạch trong
Như vầng trăng tròn.
Thân Phật sáng rỡ
Như nhật mới lên (mặt trời mới mọc)
Uy nghi tấn chỉ (tiến tới, dừng lại)
Như Sư tử vương.
Tay dài buông xuống
Quá khỏi gối chân
Giống như gió động
Cành Ta La rung.
Một tầm vầng sáng
Chiếu sáng không lường
Giống như tụ tập.
Trăm ngàn trời, trăng (mặt trời, mặt trăng).
Thân Phật tịnh diệu
Dơ bẩn đều không
Sáng ấy soi khắp
Mọi cõi Thế Tôn (cõi Phật).
Phật quang lồng lộng
Sáng rực lửa hừng
Làm lu mờ hết
Nhật nguyệt không lường.
Phật nhật, đăng, cự (đuốc)
Soi cõi không lường
Đều khiến chúng sinh
Theo sáng thấy Phật.
Vốn đã tu hành
Trăm ngàn hạnh nghiệp
Công đức tụ thành
Trang nghiêm thân Phật.
Cánh tay nhỏ tròn
Như mũi vua tượng (chúa voi)
Tay chân sạch mềm
Kính ái không nhàm.
Khứ lai chư Phật (các đức Phật quá khứ, vị lai). Số như vi trần
Chư Phật hiện tại
Cũng lại như trên.
Như Lai (nhiều) như vậy
Con nay lễ lạy !
Thân miệng sạch trong
Ý cũng như vậy
Dùng hảo hoa hương
Cúng dường hiến dâng.
Trăm ngàn công đức
Tám vịnh ca khen.
Giả sử trăm lưỡi
Ngàn kiếp ở trong
Khen công đức Phật
Chẳng thể tận cùng !
Công đức sở hữu
Hiện tại Thế Tôn
Đủ thứ sâu bền
Vi diệu đệ nhất.
Ví lưỡi có ngàn
Muốn khen một Phật.
Còn chẳng thể xong
Phần nhỏ công đức !
Huống muốn ngợi khen
Công đức chư Phật !
Đại địa, thượng thiên
Lấy làm biển cả
Đến Hữu Đảnh thiên
Tràn đầy những nước
Còn dùng sợi lông
Đếm biết số giọt.
Không có thể biết
Đức một Thế Tôn !
Con nay đã lễ
Khen ngợi Thế Tôn !
Nghiệp thân miệng ý
Thảy đều sạch trong.
Tất cả nghiệp thiện
Đã tu không lường
Cùng các sinh chúng
Chứng đạo Vô Thượng.
Như vậy nhân vương
Đã khen ngợi Phật
Lại phát thề nguyền
Như vậy không lường.
Nếu con lai thế (đời sau)
Vô lượng vô biên
A tăng kỳ kiếp
Tại khắp chỗ sinh
Thường ở trong mộng
Nhìn thấy trống vàng
Được nghe âm vang
Thâm áo sám hối !
Nay đã ngợi khen
Diện mạo thanh tịnh
Đời sau con nguyền
Cũng được như vậy.
Công đức Thế Tôn
Chẳng thể nghĩ bàn
Ở trăm ngàn kiếp
Rất khó được gặp.
Nguyện ở không lường
Đương lai đời sống
Đêm thấy mơ màng
Ngày nói như thật.
Con sẽ tu hành
Đầy đủ Lục độ
Cứu bạt chúng sinh
Vượt qua biển khổ
Nhiên hậu thân con
Thành đạo Vô Thượng
Khiến thế giới con
Không gì đồng đẳng
Dâng cống trống vàng
Nhân duyên khen Phật.
Do báo này nên
Vào đương lai thế
Gặp đức Thích Tôn
Được thọ ký biệt
Đồng khiến hai con
Kim Long, Kim Quang
Thường sinh nhà con
Đồng chung thọ ký.
Nếu có chúng sinh
Không người cứu hộ
Bức thiết mọi khổ
Không chỗ nương dừng
Thì đương lai, con
Vì bọn người đó
Làm đại cứu hộ
Và chỗ nương dừng
Có thể trừ khổ
Khiến diệt tận cùng.
Thí cho sinh chúng
Những an vui lành.
Đời vị lai, con
Hành Bồ Đề đạo
Chẳng kể kiếp số
Như đời tận cùng
Do Kim Quang ấy
Sám hối nhân duyên :
Giả sử biển ác
Biển nghiệp của con
Và biển phiền não
Đều cạn không còn,
Biển công đức, nguyện
Của con viên thành,
Biển cả trí tuệ
Đầy đủ sạch trong
Công đức không lường,
Trợ Bồ Đề đạo
Như biển mênh mông
Trân bảo cụ túc
Do sám hối lực
Của ánh sáng vàng
Bồ Đề công đức
Vô ngại quang minh
Tuệ quang không bẩn
Soi suốt sạch trong.
Ánh sáng thân con
Đời sau chiếu khắp.
Ánh sáng uy thần
Công đức rực rỡ
Ba cõi ở trong
Đặc thù tối thắng
Nhứng sức đức công
Không gì giảm thiểu
Sẽ độ chúng sinh
Vượt qua biển khổ
Đều đem đặt yên
Biển cả công đức.
Đời sau nhiều kiếp
Hành đạo Bồ Đề
Như xưa chư Phật
Hành đạo Bồ Đề
Ba đời chư Phật
Tịnh diệu đất nước.
Chư Phật chí tôn
Vô lượng công đức
Đời sau khiến con
Được những khác biệt
Cõi tịnh công đức
Như Phật Thế Tôn !
(Này) Tín Tướng phải biết !
Bấy giờ, quốc vương
Kim Long tôn giả
Chính là thân ông !
Hai con lúc đó
Kim Long, Kim Quang
Là con ông đó
Ngân Tướng vân vân... PHẨM THỨ TÁM : KHÔNG
Hán dịch : Thiên Trúc Tam Tạng Đàm Vô Sấm - Đời Bắc Lương.
Vô lượng kinh khác
Đã rộng nói không
Nên Kinh này chỉ
Lược mà giải nói.
Chúng sinh độn căn
Trí tuệ ít ỏi
Chẳng rộng biết thông
Nghĩa không vô lượng
Nên Kinh này chỉ
Lược mà nói “không”.
Phương tiện diệu lạ
Đủ thứ nhân duyên.
Vì kẻ căn độn
Khởi đại bi tâm
Nay ta diễn nói
Điển này diệu Kinh.
Như điều ta giải
Biết ý chúng sinh
Thân này hư ngụy
Giống như tụ không.
Lục nhập xóm làng
Chỗ dừng giặc kết
Tất cả tự trụ
Với nhau chẳng biết.
Nhãn căn thọ sắc
Tai phân biệt thanh
Mũi ngữi các hương
Lưỡi nếm đến vị
Sở hữu thân căn
Tham thọ các xúc
Ý căn phân biệt
Tất cả pháp trần.
Sáu tình các căn
Tự duyên từng thứ
Cảnh giới các trần
Chẳng hành duyên khác.
Tâm như huyễn hóa
Chạy theo sáu tình
Mà vọng tưởng luôn
Phân biệt các pháp
Giống như thế nhân
Chạy đuổi hư không.
Tai hại sáu giặc
Ngu chẳng dè chừng (đề phòng tránh xa)
Tâm luôn y chỉ
Cảnh giới sáu căn
Mỗi mỗi tự biết
Là chỗ rập rình
Đi theo sắc, thanh
Hương, vị, xúc, pháp
Tâm ở sáu tình
Như chim mắc lưới
Tâm ấy mọi chỗ
Luôn ở các căn
Theo đuổi các trần
Không có tạm bỏ.
Hư ngụy thân không (rỗng)
Chẳng thể trưởng dưỡng
Không có tranh tụng
Chủ chính cũng không.
Từ các nhân duyên
Hòa hợp mà có
Không có thật, bền
Vọng tưởng khởi lên
Cơ quan nghiệp lực
Giả nguy tụ không.
Địa, thủy, hỏa, phong
Tập hợp thành lập
Tuy lúc giảm, tăng
Chung nhau tàn hại.
Như bốn rắn chung
Nhốt cùng một rọ
Rắn bốn Đại đó
Tính chúng khác rõ
Trên hai, dưới hai
Các phương cũng hai.
Như vậy rắn Đại
Đều diệt không còn.
Hai rắn Địa, Thủy
Tính chúng nặng chìm.
Hai rắn Phong, Hỏa
Tính nhẹ thăng lên.
Hai tính tâm thức
Tháo động chẳng dừng
Theo nghiệp thọ báo
Các đường nhân, thiên
Theo nghiệp sở tác
Ba hữu đọa lạc.
Địa, thủy, hỏa, phong
Khi hoại diệt tan
Đại, tiểu bất tịnh
Bên ngoài chảy tràn
Thân sinh ra trùng
Không thể yêu thích
Ném bỏ nghĩa trang (bãi tha ma).
Như cây mục nát
Thiện nữ phải xem (nữ thần sông Hằng).
Các pháp như vậy
(Thì) chỗ nào có nhân (người) .
Và cả sinh chúng.
Vốn tính Tịch không
Vô minh nên có
Các Đại như trên
Mỗi một chẳng thật.
Vốn tự chẳng sinh
Tính không hòa hợp
Do nhân duyên trên
Ta nói các Đại
Vốn chẳng thật chân
Hòa hợp mà có.
Thể tính vô minh
Vốn tự chẳng có
Vọng tưởng nhân duyên
Hòa hợp mà sinh
Không sở hữu vậy
Vô minh giả danh
Vậy nên ta nói
Gọi rằng : Vô minh
Hành, Thức, Danh sắc
Lục nhập, xúc, thọ
Ái, Thủ, Hữu, Sinh
Lão tử, ưu não
Các nghiệp khổ hành
Chẳng thể nghĩ bàn
Sinh tử vô tế
Chẳng dứt xoay vần.
Vốn không có sinh
Cũng không hòa hợp,
Suy nghĩ chẳng lành
Tạo tác tâm hành
Ta đoạn tất cả
Các kiến buộc ràng
Dùng dao trí tuệ
Cắt lưới não phiền.
Ngôi nhà năm ấm
Xem đều tịch không
Chứng đạo Vô Thượng.
Vi diệu đức cộng
Mở cam lộ môn (cửa)
Bày cam lộ khí (đồ)
Vào cam lộ thành (thành quách).
Ở cam lộ thất (nhà)
Khiến cho chúng sinh
Ăn vị cam lộ
Thổi đại pháp loa
Đánh đại pháp cổ (trống)
Thắp đại pháp đăng (đèn)
Mưa Thắng pháp vũ.
Ta nay phá tan
Tất cả oán kết
Dựng lên pháp tràng
Vi diệu đệ nhất.
Độ các chúng sinh
Khỏi biển sinh tử
Đoạn tuyệt ba đường (ác)
Vô lượng khổ não.
Rực lửa não phiền
Đốt cháy chúng sinh
Không ai cứu hộ
Không chỗ nương dừng
Ta dùng cam lộ
Vị ngon thanh lương
Sung mãn bọn đó
Nóng cháy khỏi liền.
Ở vô lượng kiếp
Các hạnh tu hành
Cúng dường cung kính
Chư Phật Thế Tôn
Kiên cố tu tập
Đạo Bồ Đề luôn
Cầu được thân pháp
Như Lai thật chân
Bỏ những cái trọng (những cái mà mình xem trọng) :
Chi tiết tay chân
Đầu mắt não tủy
Tình yêu nữ nam
Tiền tài trân bảo
Trân châu, kim ngân
Lưu ly, anh lạc
Mọi vật dị thường
Trong ba ngàn đại thiên thế giới
Mà cây cối chặt làm thẻ xong,
Ba ngàn đại địa tán thành bụi
Những bụi này cùng khắp hư không,
Tất cả chúng sinh có trí tuệ
Đem trí này cho một người thông,
Người thông như vậy nhiều như bụi.
Tính số bụi này, biết số lường.
Trí tuệ Như Lai chẳng thể tính
Một niệm trí tuệ của Thế Tôn
Kiếp chẳng thể tính, tính không hết. PHẨM THỨ CHÍN : Y KHÔNG MÃN NGUYỆN
Hán dịch : Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế - Đời Lương
Lúc đó, Như Ý Bảo Quang Diệu Thiện nữ thiên, ở giữa đại chúng đứng dậy, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay cung kính, dùng kệ bạch đức Phật rằng :
Con hỏi Lưỡng Túc Tôn
Tối Thắng soi thế giới :
Pháp Bồ tát chánh hành ?
Nguyện rũ lòng cho phép !
Phật dạy: Thiện nữ thiên
Ngươi nếu có nghi hoặc
Thì mặc ý hỏi han
Ta sẽ phân biệt nói !
- Sao các Bồ tát hành
Hạnh Bồ Đề chân chánh
Lìa sinh tử, Niết Bàn
Lợi mình, ích người vậy ?
Đức Phật dạy rằng :
- Này thiện nữ thiên ! Nương theo pháp giới mà hành pháp Bồ Đề, tu hạnh bình đẳng. Này thiện nữ thiên ! Thế nào gọi là nương nơi pháp giới tu pháp Bồ đề, tu hạnh bình đẳng. Này thiện nữ thiên ! Năm ấm có thể hiện pháp giới, pháp giới tức là năm ấm. Năm ấm cũng chẳng thể nói, chẳng phải năm ấm cũng chẳng thể nói. Vì sao vậy ? Vì nếu năm ấm là pháp giới thì tức là đoạn kiến. Nếu lìa khỏi năm ấm thì tức là thường kiến. Lìa khỏi hai biên, chẳng chấp trước hai biên, chẳng thể thấy lầm (lỗi). Cái thấy vô danh, vô tướng thì đó gọi là nói đến pháp giới. Này thiện nữ thiên ! Làm sao năm ấm có thể hiện ra pháp giới ? Này thiện nữ thiên ! Như vậy năm ấm chẳng từ nhân duyên sinh. Vì sao vậy ? Vì nếu từ nhân duyên sinh thì đã sinh nên được sinh và chưa sinh nên được sinh. Nếu đã được sinh thì vì nhân duyên gì sinh ? Nếu đã sinh chẳng từ nhân duyên sinh thì nếu khi chưa sinh chẳng thể được sinh. Vì sao vậy ? Vì chưa sinh các pháp thì tức là không có, vô danh, vô tướng mà chẳng phải là khả năng biết của tính toán thí dụ. Sự sinh của chẳng phải nhân duyên, này thiện nữ thiên ! Ví như tiếng trống nương vào gỗ, nương vào da, nương vào dùi, nương vào nhân công ... nên được phát ra tiếng. Tiếng trống đó không, quá khứ cũng không, vị lai cũng không, hiện tại cũng không. Vì sao vậy ? Vì âm thanh của trống đó chẳng từ gỗ sinh ra, chẳng từ da sinh ra, chẳng từ dùi sinh ra, chẳng từ nhân công sinh ra. Tiếng này chẳng ở ba đời sinh ra thì tức là chẳng sinh. Nếu chẳng thể được sinh thì chẳng thể được diệt. Nếu chẳng thể được diệt thì không có chỗ từ đó đến. Nếu không có chỗ từ đó đến thì cũng không có chỗ để đi. Nếu không có chỗ để đi thì chẳng thường chẳng đoạn. Nếu chẳng thường chẳng đoạn thì chẳng một chẳng khác. Vì sao vậy ? Vì nếu chẳng một chẳng khác thì tức là pháp giới. Nếu vậy thì người phàm phu có thể thấy Chân Đế, được Niết Bàn an lạc vô thượng. Nghĩa này chẳng đúng ! Vậy nên chẳng một. Nếu nói sinh ấy khác thì tất cả hành tướng của chư Phật Bồ tát tức là chấp trước, chưa được giải thoát phiền não trói buộc thì chẳng thể được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì sao vậy ? Vì tất cả Thánh nhân ở trong pháp hành pháp phi hành đồng với trí tuệ hành. Vậy nên chẳng khác. Vậy nên năm ấm chẳng phải có, chẳng từ nhân duyên sinh, chẳng phải chẳng có năm ấm, chẳng qua cảnh giới Thánh, chẳng phải khả năng theo kịp của ngôn ngữ, vô danh, vô tướng, vô nhân, vô duyên, không có cảnh giới, không có thí dụ, thỉ chung tịch tịnh, bản lai tự không ! Vậy nên năm ấm có thể hiện pháp giới. Này thiện nữ thiên ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chân khác tục khác. Như vậy khó có thể nghĩ lường ! Đối với cảnh giới Thánh, phàm chẳng khác nghĩ suy, chẳng bỏ tục, chẳng bỏ chân, nương theo pháp giới làm hạnh Bồ Đề.
Bấy giờ, khi đức Thế Tôn nói lời đó rồi thì thiện nữ thiên hớn hở vui mừng, liền đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, một lòng đảnh lễ mà bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Lời nói về Chánh hạnh Bồ Đề, con nay phải học tập !
Khi đó, Chủ thế giới Ta Bà, vua trời Đại Phạm, ở giữa đại chúng, hỏi thiện nữ thiên Như Ý Bảo Quang Diệu rằng :
- Hạnh Bồ Đề này khó có thể tu hành. Lòng người làm sao đối với hạnh Bồ Đề này mà được tự tại ?
Thiện nữ thiên đáp Phạm vương rằng :
- Thưa Đại Phạm Vương ! Nếu lời đức Phật nói là thậm thâm chân thật thì tất cả phàm phu chẳng được mùi vị ấy. Cảnh giới Thánh này vi diệu khó biết ! Nếu giả sử lòng tôi nương theo pháp này mà được an lạc trụ, là chân thật ngữ thì tôi nguyện cho vô lượng vô biên chúng sinh của tất cả ngũ trược ác thế đều được ba mươi hai tướng kim sắc, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, ngồi hoa sen báu, hưởng thụ vô lượng khoái lạc, mưa xuống hoa đẹp của trời, các âm nhạc của trời chẳng tấu mà tự kêu, tất cả cúng dường đều đầy đủ.
Thiện nữ thiên đó nói rồi thì chúng sinh sẵn có trong tất cả ngũ trược ác thế đều kim sắc đầy đủ ba mươi hai tướng, chẳng phải nam chẳng phải nữ, ngồi hoa sen báu, hưởng thọ vô lượng khoái lạc giống như cung trời Tha Hóa Tự Tại, không các đường ác, cây báu hàng lối la liệt, hoa sen bảy báu đầy khắp thế giới, mưa xuống hoa trời bảy báu thượng diệu, kỹ nhac trời tấu lên, Như Ý Bảo Quang Diệu tức thời chuyển hình dáng nữ làm thân Phạm thiên.
Vua trời Đại Phạm hỏi Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu rằng :
- Ông ngày xưa dùng hành động gì để hành hạnh Bồ đề ?
Bồ tát đáp rằng :
- Thưa Phạm vương ! Nếu trăng trong nước có thể hành hạnh Bồ Đề thì tôi cũng đã hành hạnh Bồ Đề ! Nếu mơ thấy hành hạnh Bồ Đề thì tôi cũng hành hạnh Bồ Đề ! Nếu hơi nước trong ánh lửa hành hạnh Bồ Đề thì tôi cũng hành hạnh Bồ Đề ! Nếu âm vang của tiếng hành hạnh Bồ Đề thì tôi cũng hành hạnh Bồ Đề !
Vua trời Đại Phạm nghe lời này rồi, nói với Bồ tát rằng :
- Ông nương vào đâu mà nói lời nói này ?
Đáp rằng :
- Thưa Phạm Vương ! Không có một pháp nào mà có thật tướng ! Tướng nhân quả thành vậy !
Phạm Vương lại bạch Bồ tát rằng :
- Nếu như đây thì các người phàm phu đều nên được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác !
Bồ tát đáp rằng :
- Do suy nghĩ gì mà ngài nói lời đó ? Thưa Phạm Vương ! Người si hoặc khác, người trí tuệ khác, Bồ Đề khác, chẳng phải Bồ Đề đề khác, giải thoát khác, chẳng phải giải thoát khác ! Thưa Phạm Vương! Như vậy các pháp bình đẳng không khác, đối với pháp giới này Như Như chẳng khác, không có trung gian mà có thể chấp trì, không tăng không giảm. Thưa Phạm Vương ! Ví như vị huyễn sư thiện xảo huyễn thuật và đệ tử huyễn ở tại ngã tư đường, lấy những đất, cát, cây, lá.v.v... gom lại một chỗ, rồi làm đủ thứ huyễn thuật, khiến cho mọi người nhìn thấy những voi, những ngựa, những xe, những quân, từng đống bảy báu, đủ thứ kho lẫm.... Nếu có chúng sinh ngu si vô trí, chẳng khả năng tư duy, chẳng biết gốc huyễn mà hoặc thấy hoặc nghe rồi tác khởi suy nghĩ rằng : “Đúng như sự thấy của ta là những voi ngựa.v.v...” Rồi họ cho đó là chân thật. Như thấy như nghe tùy theo năng lực chấp trước cái thấy, họ tự nói là thật mà đối với người khác chẳng phải chân, sau chẳng lặp lại suy nghĩ. Người có trí thì có thể suy nghĩ rõ được gốc huyễn, hoặc thấy hoặc nghe mà suy nghĩ rằng : “Những voi, ngựa.v.v... ta thấy chẳng phải là chân thật, chỉ có việc huyễn hóa mê hoặc mắt người. Cái gọi là những voi, ngựa.v.v... và những kho lẫm ở chỗ đó thì chỉ có danh tự, không có thật thể !” Rồi như điều đã thấy, như điều đã nghe, tùy theo năng lực chẳng chắp trước cái thấy và tự nói là thật, đối với người khác chẳng phải là chân, sau chẳng lặp lại suy nghĩ. Những người trí này nói theo lời nói của đời đều muốn khiến người khác biết nghĩa chân thật. Nhưng như thấy, như nghe thì chẳng như vậy. Thưa Phạm Vương ! Như vậy nếu có chúng sinh phàm phu ngu si chưa được trí tuệ Thánh xuất thế, chưa biết tất cả các pháp Như Như chẳng thể ngôn thuyết thì những phàm phu đó hoặc thấy hoặc nghe hành pháp hay chẳng phải hành pháp mà suy rằng : “Thật có như vậy các pháp, đúng như cái ta thấy, đúng như cái ta nghe !” Những người phàm phu đó như thấy, như nghe, rồi tùy theo năng lực mà chấp trước cái thấy, tự nói là thật, đối với người khác chẳng phải chân, sau chẳng lặp lại suy nghĩ. Nếu có chúng sinh chẳng phải người phàm phu, đã thấy đệ nhất nghĩa đế, được Thánh tuệ xuất thế, biết tất cả pháp Như Như chẳng thể ngôn thuyết. Các Thánh nhân này hoặc thấy hoặc nghe hành pháp hoặc chẳng phải hành pháp, tùy theo năng lực chẳng chấp trước cái thấy, tự nói rằng là thật, đối với người khác chẳng phải là chân, sau chẳng lặp lại suy nghĩ, không thật hành pháp, không thật chẳng phải hành pháp, như điều đã nghe như điều đã thấy chỉ là suy nghĩ hư vọng hành tướng chẳng phải hành tướng mê hoặc trí tuệ của người. Chỗ đó gọi là hành pháp chẳng phải hành pháp chỉ có danh tự không có thật thể. Như điều đã thấy, như điều đã nghe tùy theo năng lực chẳng chấp trước cái thấy, tự nói là thật, đối với người khác chẳng phải chân, sau chẳng lặp lại suy nghĩ. Những Thánh nhân này đúng như lời nói của đời, thuận theo lời ấy vì muốn khiến cho người khác biết nghĩa chân thật. Như vậy, thưa Phạm vương ! Thánh trí kiến của những Thánh nhân này chẳng thể nói là pháp Như Như nhiếp lấy hành pháp, chẳng phải hành pháp. Pháp Như Như này là trí Tha chứng nên nói bằng đủ thứ tên.
Vua trời Đại Phạm hỏi Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu rằng :
- Có bao nhiêu chúng sinh có thể hiểu có thể thông chánh pháp thậm thâm vi diệu như vậy ?
Bồ tát đáp rằng :
- Thưa Phạm Vương ! Phàm là ngần ấy những số lòng người huyễn hóa thì ngần ấy chúng sinh có thể hiểu có thể thông pháp thậm thâm đó.
Phạm Vương lại hỏi :
- Người huyễn hóa này tức là chẳng có thì số tâm như vậy từ đâu mà được ?
Bồ tát đáp rằng :
- Thưa Phạm Vương ! Như vậy Pháp giới chẳng có chẳng không. Như vậy chúng sinh có thể hiểu có thể thông là nghĩa thậm thâm !
Khi đó, Phạm Vương bạch đức Phật rằng :
- Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu này thông đạt chẳng thể nghĩ bàn nghĩa thậm thâm như vậy !
Đức Phật dạy rằng :
- Đúng vậy ! Đúng vậy ! Này Phạm Vương ! Đúng như lời ông nói! Vì sao vậy ? Vì Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu này đã dạy Phạm Vương học quan sát pháp Vô Sinh nhẫn !
Đến đây, vua trời Đại Phạm cùng các Phạm chúng đứng dậy trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu, nói lời như vầy :
- Hy hữu thay ! Hy hữu thay ! Hôm nay chúng tôi được thấy đại sư, được nghe chính pháp !
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, đối với tất cả pháp thông đạt vô ngại, bảo Phạm Vương rằng :
- Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu này, ở đời vị lai sẽ được làm Phật hiệu là Đức Bảo Diệm Cát Thượng Tạng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
Khi nói Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này thì ba ngàn ức Bồ tát được Bất Thoái Chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tám ngàn ức thiên tử được Vô Cấu Tịnh đối với pháp thành tựu Thanh Tịnh Pháp Nhãn. Vô lượng vô số quốc vương, thần dân được pháp nhãn tịnh. Năm mươi ức Tỳ kheo làm hạnh Bồ Đề muốn thoái tâm Bồ Đề nghe Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu nói pháp, được nguyện kiên cố chẳng thể nghĩ bàn đủ đầy, trở lại phát tâm Bồ Đề, đều tự cởi áo cúng dường Bồ tát, một lần nữa phát tâm Vô Thượng Thắng Tấn. Phát tâm Vô Thượng Thắng Tấn rồi thì nguyện rằng : “Xin khiến cho thiện căn công đức của chúng con đều chẳng thoái chuyển, xin hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như vậy những Tỳ kheo nương theo công đức này tu hành, qua chín mươi đại kiếp sẽ được thành tựu. Những Tỳ kheo này ra khỏi sinh tử, đức Phật vì họ thọ ký rằng, qua ba mươi atăngkỳ kiếp sẽ ở nước Phật hiệu Nan Thắng Quang Vương, nước Phật ấy tên là Vô Cấu Quang, họ đồng thời được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều đồng một danh hiệu gọi là Nguyện Trang Nghiêm Gian Xí Vương Phật.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Phạm Vương rằng :
- Kinh Kim Quang Minh này chánh văn chánh thính có thân lực lớn. Này Phạm Vương ! Ông hàng trăm ngàn đại kiếp tu hành sáu Ba la mật mà không có phương tiện, nhưng nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân đã được nghe Kinh Kim Quang Minh này, ghi chép, hàng nửa tháng, nửa tháng một lần chuyên đọc tụng thì thiện công đức tụ này so với công đức trước nhân lên trăm ngàn phần chẳng bì kịp một phần, thậm chí tính toán thí dụ đã chẳng thể bì kịp. Này Phạm Vương ! Vậy nên ta nay phải lệnh cho tu học, thọ trì, vì người khác giải nói rộng rãi.Vì sao vậy ! Vì Kinh điển vi điệu thậm thâm như vậy, khi ta hành đạo Bồ Đề đã như đối với chiến trận chẳng tiếc thân mạng để được thông hiểu Kinh này mà thọ trì, đọc tụng, vì người khác giải nói. Này Phạm Vương ! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương, nếu vua tại thế thì bảy thứ báu của vua chẳng diệt, còn nếu vua qua đời thì tất cả bảy báy tự nhiên mà hết. Này Phạm Vương ! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này nếu hiện ở đời thì báu đại Chánh pháp đều chẳng diệt. Vậy nên phải nương theo Kinh Kim Quang Minh mà nghe, đọc tụng, thọ trì, vì người khác giải nói, ghi chép ở trong công đức hành Tinh tấn Ba la mật, chẳng tiếc thân mạng, chẳng sợ mệt nhọc. Những đệ tử của ta cần phải tinh cần tu học như vậy !
Lúc đó chúa trời vua trời Đại Phạm cùng với vô lượng Phạm chúng, Đế Thích, Tứ Thiên Vương và Dạ xoa chúng đều đứng cả dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính mà bạch đức Phật rằng :
- Tất cả chúng con sẽ vì chánh pháp mà thủ hộ, lưu thông Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này ! Pháp sư nói pháp, nếu có những ách nạn, chúng con sẽ loại trừ, khiến cho đủ các thiện sắc và ý vị đủ đầy, biện tài vô ngại, thân tâm rộng mở ! Người của pháp hội đều khiến cho họ khoái lạc. Chỗ nói pháp đó, nếu đất nước đói kém, oán tặc, bị phi nhân khủng bố... thì chúng con tống khứ hết. Giả sử nhân dân nước ấy giàu có, thịnh vượng, hoan lạc, thong dong là đều do ân lạc của bốn vua chúng con.v.v... Nếu có người cúng dường quyển Kinh này thì chúng con cũng sẽ vì họ tạo tác đại ủng hộ như đối với đức Phật không khác.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 52.14.234.146 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.