Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
- Các Địa Vị Tu Chứng
- Nguyên Nhân và Quả Báo của Chúng Sinh Ba Cõi
– Này A Nan! Mười hai loài chúng sinh đó, trong mỗi loài cũng đều đầy đủ mười hai thứ điên đảo, cũng như dụi con mắt thì thấy đủ thứ hoa đốm phát sinh ra. Chân tâm vốn trong sạch, sáng suốt, tròn đầy, mầu nhiệm, nhưng bởi một niệm vọng động điên đảo mà đầy đủ những loạn tưởng hư vọng như thế. Nay thầy muốn tu chứng chánh định thành Phật, đối với cái nguyên nhân gốc rễ làm phát sinh bao loạn tưởng điên đảo, phải lập ra ba bước tiệm thứ, y theo đó mà tu hành, mới diệt trừ được; cũng như chiếc bình đựng nước, phải trừ bỏ những bợn dơ chất độc ở trong, dùng nước nóng, tro và chất thơm rửa thật sạch, rồi mới đựng nước cam lồ.
Thế nào là ba bước tiệm thứ? Một là tu tập, dứt trừ “trợ nhân”; hai là chân tu, nạo sạch “chánh tánh”; ba là tăng tiến, ngược dòng “hiện nghiệp”.
Thế nào trợ nhân? Này A Nan! Mười hai loài chúng sinh trong thế giới không thể tự bảo toàn mạng sống, mà phải nhờ bốn loại thức ăn để được sinh tồn; đó là đoàn thực, xúc thực, tư thực và thức thực. Vì vậy Như Lai nói: Tất cả chúng sinh nhờ ăn mà sống còn. A Nan! Chúng sinh ăn các thứ bổ ích cho thân tâm thì sống; ăn các thứ độc hại cho thân tâm thì chết. Cho nên những chúng sinh cầu chánh định thì phải trừ bỏ năm loại rau cay nồng ở thế gian. Năm loại rau cay nồng này, ăn chín thì khởi lòng dâm, ăn sống thì tăng lòng giận. Ở thế giới này, những người ăn rau cay nồng ấy, dù có tài giảng thuyết mười hai bộ kinh, chư thiên trong mười phương cũng chê là hôi hám, không muốn tới gần; những loài quỉ đói thấy người ăn những thứ đó thì đến liếm môi liếm mép, thành ra người đó thường ở chung với quỉ, phước đức ngày càng hao tổn, lâu ngày không còn chút lợi ích gì. Người tu chánh định mà ăn năm thứ rau cay nồng ấy, chư vị Bồ-tát, thiên tiên, thiện thần trong mười phương không đến ủng hộ; thiên ma Ba-tuần lại được thế, hiện ra thân Phật đến thuyết pháp cho họ nghe, hủy báng sự chấp trì cấm giới, tán thán ba nghiệp độc dâm dục, sân hận, si mê, khi chết tự trở thành quyến thuộc của ma vương, hưởng hết phước ma thì đọa địa ngục vô gián. Này A Nan! Người tu đạo Bồ đề, hãy vĩnh viễn trừ bỏ năm loại rau cay nồng. Đó là bước tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.
Thế nào là chánh tánh? Này A Nan! Chúng sinh muốn vào chánh định, trước tiên cần phải nghiêm trì giới luật thanh tịnh, vĩnh viễn đoạn trừ tâm dâm, không ăn thịt uống rượu, chỉ ăn thức ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. Này A Nan! Người tu hành đó, nếu không đoạn trừ dâm dục và sát sinh mà giải thoát khỏi ba cõi, là điều không thể có được. Phải quán sát sự dâm dục như là rắn độc, như gặp giặc thù. Trước hết phải giữ giới “tứ khí, bát khí” thuộc giới luật Thanh-văn, giữ thân miệng vững vàng, không lay động; sau đó hành trì luật nghi thanh tịnh của hàng Bồ-tát, giữ tâm vững vàng, không khởi vọng niệm. Cấm giới đã thành tựu thì ở thế gian không còn nghiệp sinh nhau, giết nhau. Đã không trộm cắp thì không còn mắc nợ nhau, và cũng khỏi phải trả nợ đời trước ở thế gian. Người thanh tịnh ấy tu pháp chánh định, thì chính ngay nơi nhục thân do cha mẹ sinh ra, không cần thiên nhãn mà tự nhiên nhìn thấy mười phương thế giới, thấy Phật nghe pháp, chính mình vâng lãnh ý chỉ của Phật, được thần thông lớn, du hành mười phương thế giới, túc mạng thanh tịnh, không đọa vào các nơi gian nan hiểm trở. Đó là bước tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhì.
Thế nào là hiện nghiệp? Này A Nan! Người trì giới thanh tịnh như thế, tâm không tham dâm, không buông lung giong ruổi theo sáu trần ở bên ngoài. Do không buông lung giong ruổi nên tự quay về tánh bản nguyên. Trần đã không duyên thì căn không có đối tượng, ngược dòng về lại chỗ toàn-nhất, cả sáu công dụng thấy nghe ngửi nếm xúc biết đều không hiện hành. Mười phương quốc độ rỗng suốt trong sạch, như mặt trăng sáng treo trong đèn lưu li. Thân tâm thư thái, diệu viên, bình đẳng, vô cùng tự tại; tất cả cảnh giới bí áo, viên dung, thanh tịnh, nhiệm mầu của chư Phật đều hiển hiện trong đó. Người đó liền chứng vô sinh pháp nhẫn; từ đó lần lữa tu tập, tùy mức độ giác ngộ mà an lập địa vị thánh nhân. Đó là bước tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.
Này A Nan! Vị hành giả ấy ái dục đã cạn khô, căn cảnh không còn phối hợp, hiện tiền là thân tối hậu, không còn tiếp tục thọ thân quả báo ở đời sau. Vị ấy trụ tâm ở nơi rỗng sáng, thuần là trí tuệ; tuệ tánh sáng suốt tròn đầy, soi tỏ mười phương thế giới. Nhưng ở giai đoạn này, vị ấy mới khô cạn các tập khí tham dục, chưa tiếp thông được với dòng nước pháp của Phật; vì chỉ mới có thứ trí tuệ khô khan ấy, nên gọi là Càn-tuệ-địa.
Từ địa vị Càn-tuệ ấy, dùng diệu trí trung tâm quán diệu lí trung đạo mà vào biển diệu giác, diệu tánh viên thông mở bày. Tánh chân viên diệu từ đây lại càng phát triển chân viên diệu, tất cả vọng tưởng diệt hết không còn, lòng tin kiên cố hướng về lí trung đạo chân thuần; gọi là Tín-tâm-trụ.
Đã có lòng tin chân thật, trí tuệ sáng rõ, cho nên tất cả đều viên thông, ba thứ ấm, xứ, giới không còn làm chướng ngại. Đối với những việc bỏ thân, thọ thân, những tập khí phải đoạn trừ, trong vô số kiếp quá khứ vị lai, vị hành giả này nhớ rõ hết, tất cả đều như hiện ra trước mắt, không quên mất việc gì; gọi là Niệm-tâm-trụ.
Từ chân diệu viên và trung đạo thuần chân, mà chân tinh phát hóa ra. Các tập khí từ vô thỉ đến đây đều bị đồng hóa vào trí thể tinh minh; giữ vững tánh tinh minh này mà tiến đến khế hợp với lí thể chân tịnh; gọi là Tinh-tấn-tâm.
Tâm tinh minh thường xuyên hiện tiền, thuần dùng trí tuệ trong đời sống; gọi là Tuệ-tâm-trụ.
Duy trì trí tuệ tinh minh, lặng trong cùng khắp, thường trực lắng đọng trong cảnh giới tịch diệu; gọi là Định-tâm-trụ.
Định lực phát ra trí sáng, trí càng sáng thì định càng sâu, chỉ có tiến tới chứ không thối lui; gọi là Bất-thối-tâm.
Tâm an nhiên tiến tới, giữ gìn mạng mạch của chư Phật không để mất, giao tiếp từng phần với pháp thân Như Lai mười phương; gọi là Hộ-pháp-tâm.
Giữ gìn tánh giác sáng suốt, có thể dùng diệu lực xoay từ quang của Phật hướng về an trụ trong ánh sáng của Phật nơi mình, giống như hai tấm gương sáng đối nhau, trong đó các hình ảnh nhiệm mầu lớp lớp lồng vào nhau; gọi là Hồi-hướng-tâm.
Tâm sáng của mình và trí sáng của Phật kín nhiệm thông ứng, được an trụ nơi cảnh giới lắng đọng, vô vi, vô thượng diệu tịnh của Phật, không một niệm hữu vi còn mất; gọi là Giới-tâm-trụ.
Đã an trụ nơi giới một cách tự tại, hành giả có thể du hóa mười phương, đến đâu tùy nguyện; gọi là Nguyện-tâm-trụ.
Này A Nan! Vị hành giả kia dùng phương tiện chân thật phát mười tín tâm ấy, tâm tinh thuần trong sáng phát huy, mười công dụng hòa nhập lẫn nhau, thành một tâm viên mãn; gọi là Phát-tâm-trụ.
Trong tâm kia phát ra ánh sáng, như trong khối ngọc lưu li trong sạch chói màu vàng ròng. Dùng mười tâm mầu nhiệm trước kia mà trải làm nền tảng vững vàng như đất; gọi là Trị-địa-tâm.
Tâm địa biết khắp, tất cả đều tỏ rõ, du hóa mười phương không bị ngăn ngại; gọi là Tu-hành-trụ.
Hạnh đồng với Phật, được thọ nhận từng phần khí lực của Phật, như thân trung ấm tự tìm cha mẹ. Âm tín đã thầm thông nhập vào dòng giống Như Lai; gọi là Sinh-quí-trụ.
Đã vào đạo thai thì chính mình được tánh giác nuôi dưỡng, như bào thai đã tượng thành hình người đầy đủ; gọi là Phương-tiện-cụ-túc-trụ.
Dung mạo như Phật, tâm tướng cũng đồng; gọi là Chánh-tâm-trụ.
Thân tâm như nhất, đạo thai ngày càng tăng trưởng; gọi là Bất-thối-trụ.
Mười thân(211) cùng lúc đầy đủ; gọi là Đồng-chân-trụ.
Ví như hình vóc đã thành và đã ra khỏi bào thai, chính mình đã trở thành con của đấng Pháp-vương; gọi là Pháp-vương-tử-trụ.
Như vị thái tử đã trưởng thành, được nhà vua dùng nghi lễ Quán-đảnh để phân nhiệm trao cho một số việc nước; gọi là Quán-đảnh-trụ.
Này A Nan! Vị hành giả kia đã trở thành Phật tử, có đầy đủ vô lượng đức tánh nhiệm mầu của Như Lai, có thể tùy thuận mười phương chúng sinh; gọi là Hoan-hỉ-hạnh.
Khéo biết làm lợi ích cho tất cả chúng sinh; gọi là Nhiêu-ích-hạnh.
Tự mình đã giác ngộ, lại giáo hóa cho người được giác ngộ, thường tu pháp nhẫn, được đức không chống trái; gọi là Vô-sân-hận-hạnh.
Tùy loại chúng sinh mà ứng thân hóa độ, ba đời bình đẳng, mười phương thông suốt, cho đến cùng tột đời vị lai; gọi là Vô-tận-hạnh.
Nhận biết tất cả các pháp môn đều dung hợp, đồng là một thể tánh, cho nên tùy cơ dạy bảo, không có sai lầm; gọi là Li-si-loạn-hạnh.
Ở trong cái lí thể đồng nhất hiển hiện vô vàn sự tướng dị biệt; ở nơi mỗi mỗi sự tướng dị biệt đều thấy rõ cái lí thể đồng nhất; gọi là Thiện-hiện-hạnh.
Như thế, cho đến mười phương hư không đầy dẫy vi trần, trong mỗi mỗi vi trần đều hiển hiện mười phương thế giới; thế giới hiện vi trần, vi trần hiện thế giới, đều không ngăn ngại nhau; gọi là Vô-trước-hạnh.
Tất cả mọi sự vật hiện tượng ở trước mắt đều là đệ nhất ba-la-mật; gọi là Tôn-trọng-hạnh.
Đã viên dung vô ngại như thế, thì một lời nói một việc làm đều phù hợp với qui phạm phép tắc của chư Phật mười phương; gọi là Thiện-pháp-hạnh.
Tất cả các hạnh đều là thanh tịnh vô lậu, nhất chân vô vi, vì tánh bản nhiên là như thế; gọi là Chân-thật-hạnh.
Này A Nan! Vị hành giả ấy đã xa hết lỗi lầm, tinh chân thuần khiết, đầy đủ thần thông, thành tựu Phật sự, bây giờ, trong lúc hóa độ chúng sinh thì diệt trừ cả ý niệm năng độ sở độ, xoay tâm vô vi hướng về con đường niết bàn; gọi là Cứu hộ nhất thiết chúng sinh, li chúng sinh tướng hồi-hướng.
Hoại diệt cái đáng hoại diệt, dứt bỏ cả các ý niệm năng-li sở-li; gọi là Bất hoại hồi-hướng.
Tánh bản giác lặng trong sáng tỏ ngang bằng như Phật; gọi là Đẳng nhất thiết Phật hồi-hướng.
Tinh chân phát sáng tỏ rõ, tâm địa như tâm Phật, bao hàm vô biên cõi nước; gọi là Chí nhất thiết xứ hồi-hướng.
Thế giới và Như Lai dung hợp lẫn nhau không chướng ngại; gọi là Vô tận công đức tạng hồi-hướng.
Tâm địa đồng với Phật, trong đó sinh ra các nhân thanh tịnh, nương nhân đó mà phát huy để thủ đắc niết bàn; gọi là Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi-hướng.
Chân căn đã thành, mười phương chúng sinh đều là bản tánh của mình. Bản tánh thành tựu viên mãn, không bỏ mất một chúng sinh nào; gọi là Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sinh hồi-hướng.
Tức tất cả pháp, li tất cả tướng, cả tức và li đều không dính mắc; gọi là Chân như tướng hồi-hướng.
Thể nhập chân như, mười phương không chướng ngại; gọi là Vô phược giải thoát hồi-hướng.
Tánh đức thành tựu viên mãn, pháp giới không còn ranh giới cách ngăn; gọi là Pháp giới vô lượng hồi-hướng.
Này A Nan! Vị hành giả ấy đã tu tập trải qua hết bốn mươi mốt tâm thanh tịnh như trên rồi, tiếp đến phải thành tựu bốn bậc Gia-hạnh diệu viên:
Lấy tánh giác của Phật dùng làm tâm mình, nhưng chỉ mới gần như hiển lộ chứ chưa hiển lộ; ví như giùi gỗ cho ra lửa mà đốt gỗ; gọi là Noãn-địa.
Lại lấy tâm mình làm chỗ nương để phát huy tuệ giác Phật; nhưng nương mà không phải nương, giống như lên núi cao, tuy thân đã nhập vào hư không mà chân vẫn còn bám vào đỉnh núi; gọi là Đảnh-địa.
Tâm mình và tâm Phật, cả hai đồng nhất, thấy được lí trung đạo; ví như người biết nhẫn nhịn, không phải ôm giữ mà cũng không phải nói ra; gọi là Nhẫn-địa.
Một hay nhiều, tất cả số lượng đều tiêu vong; mê trung đạo hay giác trung đạo, cả hai đều không có gì; gọi là Thế-đệ-nhất-địa.
Này A Nan! Vị hành giả ấy từng phần thân chứng đạo Vô thượng Bồ đề, tuệ giác cùng với Phật dung thông, suốt cùng cảnh giới chư Phật; gọi là Hoan-hỉ-địa.
Chủng tánh khác nhau của muôn loài chúng sinh đều nhập vào đồng một tánh bình đẳng, và ngay cả cái tánh đồng này cũng tiêu mất; gọi là Li-cấu-địa.
Tâm thanh tịnh đến tột cùng thì tuệ giác tự nhiên phát sáng; gọi là Phát-quang-địa.
Sáng suốt tột cùng, tuệ giác viên mãn; gọi là Diễm-tuệ-địa.
Tất cả những ý niệm đồng dị đối đãi đều không còn nữa; gọi là Nan-thắng-địa.
Bản tánh chân như vô vi thanh tịnh hiển lộ tỏ rõ; gọi là Hiện-tiền-địa.
Đạt đến tột cùng bờ cõi chân như; gọi là Viễn-hành-địa.
Một tâm chân như; gọi là Bất-động-địa.
Vận dụng chân như phát sinh diệu dụng; gọi là Thiện-tuệ-địa.
Này A Nan! Vị Bồ-tát ấy, tới đây thì công hạnh tu tập đã xong, công đức viên mãn, nên đến địa này thì được gọi là Tu-tập-vị.
Bóng từ mây diệu trùm biển niết bàn; gọi là Pháp-vân-địa.
Như Lai ngược dòng trở lại, còn vị Bồ-tát ấy thì thuận dòng tiến tới, giới tuyến của hai dòng tuệ giác giao hòa; gọi là Đẳng-giác.
Này A Nan! Tu tập từ sơ tâm Càn-tuệ cho đến bậc Đẳng-giác, thì chính ở bậc Đẳng-giác này đây, vị Bồ-tát ấy mới đạt được bậc Sơ-càn-tuệ-địa trong Tâm Kim Cương. Công phu tu tập như vậy, trải qua lớp lớp mười hai tầng bậc vừa đơn vừa kép(212), mới đạt đến quả vị tột cùng Diệu-giác, thành tựu Đạo Vô-thượng.
Các địa vị ấy đều dùng trí kim cương quán sát mười thí dụ(213) như huyễn sâu xa, ở trong chánh định, dùng trí quán của chư Phật mà thanh tịnh tu chứng, lần lượt thâm nhập.
Này A Nan! Như thế đều dựa vào ba tiệm thứ mà tu hành tăng tiến, trải qua năm mươi lăm địa vị(214) ấy để cuối cùng thành tựu con đường Bồ đề Vô thượng. Quán như thế gọi là chánh quán; còn quán theo cách nào khác đều là tà quán.
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Kinh này gọi tên là gì? Con và chúng sinh phải phụng trì như thế nào?
Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi:
– Kinh này tên là “Đại Phật Đảnh Tát Đát Đa Bát Đát Ra Vô Thượng Bảo Ấn Thập Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải Nhãn”; hoặc gọi tên là “Cứu Hộ Thân Nhân Độ Thoát A Nan Cập Thử Hội Trung Tánh Tì Kheo Ni Đắc Bồ Đề Tâm Nhập Biến Tri Hải”; hoặc gọi là “Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa”; hoặc gọi là “Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương Thập Phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú”; cũng gọi là “Quán Đảnh Chương Cú Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm”. Ông nên theo đó mà phụng trì.
Đức Phật dạy lời ấy xong, tức thì, đại đức A Nan cùng cả đại chúng, nhờ được Phật khai thị cho ý nghĩa mật ấn “Đại Bạch Tán Cái”, lại nghe được các tên gọi liễu nghĩa của kinh này, liền đốn ngộ lí thể huyền diệu thù thắng, tu chứng tiến lên Thánh vị trong cảnh giới định tuệ. Tâm rỗng không, lắng đọng, đoạn trừ sáu phẩm vi tế phiền não thuộc tư hoặc ba cõi(215). Đại đức từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính bạch rằng:
– Bạch đức Thế Tôn, đấng đại uy đức, từ âm bình đẳng, khéo dùng phương tiện khai ngộ những lỗi lầm vi tế lâu đời của chúng sinh, khiến cho con hôm nay thân tâm thư thái an nhiên, được lợi ích lớn.
Bạch Thế Tôn! Theo lời dạy của đức Thế Tôn, cái chân tâm trong sạch sáng suốt nhiệm mầu này xưa nay vốn viên mãn biến khắp, cho đến đất đá cỏ cây, các loài động vật hữu tình, cũng vốn đủ bản tánh chân như, tức là chân thể thành Phật của các đức Như Lai; Phật thể vốn đã chân thật như thế, tại sao lại có các nẻo Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, A-tu-la, Trời, và Người? Bạch Thế Tôn! Các nẻo đó là bản lai tự có, hay do tập khí hư vọng của chúng sinh mà phát sinh ra? Bạch Thế Tôn! Như tì kheo ni Bảo Liên Hương hành trì giới Bồ-tát mà lén lút làm việc dâm dục, rồi lại lí luận sai lầm rằng, hành dâm chẳng phải sát sinh, chẳng phải trộm cắp, nên không có nghiệp báo! Nói lời ấy xong thì trước hết nơi nữ căn phát ra ngọn lửa lớn, rồi từ từ lửa đốt đến từng đốt xương, và đọa địa ngục vô gián! Còn như vua Lưu Li(216) và tì kheo Thiện Tinh(217), Lưu Li thì tận diệt tộc Cồ-đàm, Thiện Tinh thì vì tà kiến mà nói càn rằng tất cả các pháp đều không có; vì vậy mà cả hai đều phải đọa địa ngục vô gián ngay lúc còn sinh tiền. Các địa ngục như thế là có chỗ nơi nhất định, hay một cách tự nhiên, khi mỗi người kia tạo nghiệp thì mỗi người riêng chịu quả báo? Xin đức Thế Tôn rủ lòng đại từ, khai mở tri kiến cho kẻ non dại mê mờ, khiến cho tất cả những người hành trì giới luật, nghe được nghĩa lí chắc thật mà tâm sinh vui mừng, đội giới trên đầu, cẩn trọng giữ gìn không để sai phạm.
Phật dạy đại đức A Nan:
– Câu hỏi của thầy thật sâu sắc, khiến cho chúng sinh không rơi vào tà kiến. Như Lai sẽ giải bày sau đây, thầy hãy lắng nghe!
Này A Nan! Tất cả chúng sinh vốn thật chân tịnh, nhân vì vọng kiến mà có tập khí hư vọng phát sinh; rồi lại nhân đó mà phân chia ra có trong phận và ngoài phận.
Này A Nan! Trong phận tức là ở bên trong thân phận con người. Nhân vì ái nhiễm mà phát khởi vọng tình; tình tích chứa mãi không ngừng mà tụ thành dòng nước tham ái. Vì thế, hễ tâm nhớ tới thức ăn ngon thì trong miệng chảy nước miếng; tâm nhớ đến người xưa, hoặc thương hoặc giận, thì nước mắt trào tuôn; tham cầu của báu thì nước dãi thèm khát tiết ra, toàn thân trơn sáng; tâm nghĩ tới sự hành dâm thì hai căn nam nữ tự nhiên tiết ra dịch khí.
Này A Nan! Tâm ái tuy là khác nhau ở sáu căn, nhưng sự lưu xuất ra ngoài hay kết tụ bên trong thì giống nhau, đều đồng một tánh nhuận ướt. Nhuận ướt thì không thể chảy lên, tự nhiên phải theo chỗ thấp mà chảy xuống. Đó gọi là trong phận.
Này A Nan! Ngoài phận tức là ở bên ngoài thân phận con người. Do tâm khát ngưỡng mong cầu mà phát sinh các niệm tưởng thanh hư, tưởng tích chứa mãi không ngừng thì sinh ra khí lực thù thắng. Vì thế chúng sinh, hễ tâm giữ giới hạnh thì toàn thân thanh tịnh nhẹ nhàng; tâm trì ấn chú thì mắt ngó sáng ngời nghị lực; tâm muốn sinh lên cõi trời thì trong chiêm bao thấy mình bay bổng nhẹ nhàng; tâm hướng về cõi Phật thì thánh cảnh kín đáo hiện bày; tâm phụng sự thiện tri thức thì coi nhẹ thân mạng mình.
Này A Nan! Các loại niệm tưởng tuy khác nhau, nhưng sự nhẹ nhàng và cất bổng lên thì giống nhau, đều đồng một tánh bay lên. Bay lên thì không chìm xuống, tự nhiên phải vượt lên cao. Đó gọi là ngoài phận.
Này A Nan! Tất cả thế gian, sống chết nối tiếp nhau không dứt. Sống thì thuận theo tập khí mà tạo nghiệp; chết thì theo dòng biến đổi mà thọ báo. Lúc gần mạng chung, chỉ còn chút hơi ấm mong manh, bao nhiêu việc thiện việc ác đã làm trong suốt một đời, đều vụt hiện ra; trốn chết và cầu sống, hai tập khí ấy cùng lúc tranh giành.
Nếu thuần là tưởng thì bay lên, ắt sinh lên các cõi Trời. Nếu trong cái tâm bay lên đó mà có bao gồm phước đức, trí tuệ và chí nguyện thanh tịnh, thì tự nhiên tâm được sáng suốt, thấy được tất cả cõi Phật thanh tịnh khắp mười phương, rồi tùy ý nguyện muốn về cõi nào thì được vãng sinh về cõi đó.
Nếu tưởng nhiều mà tình ít, thì cũng bay lên được, nhưng không xa, thành các loài như tiên, đại lực quỉ vương, quỉ dạ xoa bay trên hư không, quỉ la sát đi trên mặt đất; họ có thể đi khắp cõi trời Tứ-vương, không gặp trở ngại. Trong số đó, nếu có ai có thiện tâm và phát nguyện lành, hộ trì Phật pháp, hoặc hộ trì giới cấm và bảo vệ người trì giới, hoặc hộ trì thần chú và bảo vệ người trì chú, hoặc hộ trì người tu thiền định, giữ yên pháp nhẫn, thì những vị ấy, chính mình được ở dưới pháp tòa của Như Lai.
Nếu tưởng và tình bằng nhau, không bay lên cũng không đọa xuống, mà sinh vào cõi nhân gian; vì có tưởng nên có phần thông minh, và vì có tình nên cũng có lẫn phần ngu độn.
Nếu tình nhiều tưởng ít thì sinh vào cõi bàng sinh, thân thể nặng nề thì vào các giống thú có lông mao, thân thể nhẹ nhàng thì vào các loài cầm có lông vũ.
Bảy phần tình ba phần tưởng thì chìm dưới thủy-luân, sinh nơi mé hỏa-luân, chịu hơi nóng của lửa mạnh, làm thân ngạ quỉ, thường bị thiêu đốt; thấy nước thì thành lửa, lửa cháy hại mình, nên trải trăm ngàn kiếp không ăn uống được.
Chín phần tình một phần tưởng thì sa xuống suốt tầng hỏa- luân, đến tận vùng ranh giới giữa hỏa-luân và phong-luân; nhẹ thì sinh vào hữu-gián, nặng thì sinh vào vô-gián, đó là hai loại địa ngục.
Thuần là tình thì sa vào địa ngục A-tì(218). Nếu có thêm cái tâm hủy báng đại thừa, phá hoại cấm giới của Phật, nói pháp cuồng vọng để tham cầu của tín thí, lạm nhận sự cung kính, hoặc phạm các trọng tội ngũ nghịch, thập ác, thì sẽ bị luân chuyển đọa vào từ địa ngục A-tì này sang địa ngục A-tì khác ở khắp mười phương.
Tùy theo ác nghiệp đã tạo mà mỗi chúng sinh tự chịu lấy quả báo của riêng mình. Tuy nhiên, vì chúng sinh tạo ác nghiệp có giống nhau, nên cùng chịu quả báo địa ngục giống nhau, tuồng như địa ngục vốn có chỗ nơi nhất định sẵn.
Này A Nan! Tất cả các quả báo như thế đều do nghiệp của chúng sinh chiêu cảm; vì tạo mười tập-nhân(219) bất thiện mà nhận chịu sáu giao-báo(220) đau khổ.
Thế nào là mười tập nhân bất thiện?
Một là thói quen dâm dục. Nam nữ giao tiếp, cọ xát nhau tìm cầu dục lạc. Cọ xát không ngừng, tâm dâm tích tụ, ngọn lửa lớn mạnh từ đó mà phát động lên; ví như người dùng hai bàn tay xoa mạnh vào nhau thì phát sinh cảm giác nóng. Tập khí chủng tử vẫn còn mà lại chồng thêm tập khí hiện tại, làm cho lửa dâm dục càng mạnh, cho nên mới có những quả báo giường sắt nóng, cột đồng nung ở địa ngục. Vì vậy, tất cả các đức Như Lai trong mười phương, xem thấy sự hành dâm của chúng sinh, đều gọi đó là lửa dục; còn chư vị Bồ-tát thì tránh cảnh dâm dục như tránh xa hầm lửa.
Hai là thói quen tham lam, so đo tính toán, phát sinh nơi sự thu hút lẫn nhau. Tham cầu không ngừng nghỉ, tích tụ hơi lạnh, đóng cứng thành băng; ví như người hút hơi gió vào miệng thì sinh cảm giác lạnh. Tập khí chủng tử vẫn còn mà lại chồng thêm tập khí hiện tại, làm cho tâm tham cầu thu hút càng mạnh, cho nên mới có quả báo ở các cảnh địa ngục lạnh giá như Tra-tra, Ba-ba, La-la, Thanh-liên, Xích-liên, Bạch-liên. Vì vậy, tất cả các đức Như Lai trong mười phương, xem thấy sự tham cầu của chúng sinh, đều gọi đó là nước tham; còn chư vị Bồ-tát thì tránh lòng tham như tránh xa biển độc.
Ba là thói quen kiêu mạn, lấn lướt lẫn nhau, phát sinh từ tâm trọng mình khinh người. Tâm cao ngạo dâng lên không ngừng, vì thế mà sôi nổi phóng túng, chứa sóng thành nước; ví như miệng lưỡi chạm vị thì nước miếng tự chảy ra. Tập khí chủng tử vẫn còn mà lại chồng thêm tập khí hiện tại, làm cho tâm kiêu mạn càng mạnh, cho nên mới có quả báo ở các địa ngục sông máu, sông tro, cát nóng, biển độc, nước đồng sôi rót vào miệng. Vì vậy, tất cả các đức Như Lai trong mười phương, xem thấy tâm kiêu mạn của chúng sinh, đều gọi đó là uống nước si; còn chư vị Bồ-tát thì tránh lòng kiêu mạn như tránh xa vực thẳm.
Bốn là thói quen nóng giận, xung đột, phát sinh từ sự chống đối lẫn nhau. Chống đối không ngừng nghỉ, tâm nóng phát ra lửa, nung nấu khí lực thành ra kim khí, cho nên mới có núi dao, gậy sắt, kiếm dài, kiếm tròn, búa, rìu, thương, cưa; ví như người bị hàm oan thì sát khí nổi đùng đùng. Tập khí chủng tử vẫn còn mà lại chồng thêm tập khí hiện tại, làm cho tâm nóng giận càng mạnh, cho nên mới có các quả báo thiến, cắt, chém, chặt, dùi, đâm, đập, đánh. Vì vậy, tất cả các đức Như Lai trong mười phương, xem thấy tâm nóng giận của chúng sinh, đều gọi đó là dao kiếm bén; còn chư vị Bồ-tát thì tránh lòng nóng giận như tránh xa chỗ chém giết.
Năm là thói quen dối trá, gạt gẫm, phát sinh từ tâm dụ hoặc lẫn nhau. Giả dối mãi không ngừng, cho nên có dây thòng lọng, trụ căng nọc; ví như nước thấm vào ruộng đất thì cỏ cây sinh trưởng. Tập khí chủng tử vẫn còn mà lại chồng thêm tập khí hiện tại, làm cho tâm dối trá càng mạnh, cho nên mới có các quả báo còng, xiềng, gông, cùm, roi, gậy, mác, bổng. Vì vậy, tất cả các đức Như Lai trong mười phương, xem thấy sự dối ngụy của chúng sinh, đều gọi đó là giặc lừa dối; còn chư vị Bồ-tát thì tránh sự dối trá như tránh xa beo sói.
Sáu là thói quen lừa đảo, bịp bợm, phát sinh từ tâm vu khống lẫn nhau. Lừa đảo vu khống không ngừng nghỉ, tâm luôn tự đắc bày nhiều gian kế, cho nên trong tâm hiện khởi những thứ ô uế bất tịnh, như bụi, đất, phân, nước tiểu; như gió cuốn bụi mịt mù trời đất, khiến người đối diện không thấy được nhau. Tập khí chủng tử vẫn còn mà lại chồng thêm tập khí hiện tại, làm cho tâm lừa đảo vu khống càng mạnh, cho nên mới bị nhận chìm trong địa ngục phân tiểu, bị quăng ném trong địa ngục cát đen, bị gió thổi bay lên rớt xuống, bị nước trôi dập lúc nổi lúc chìm. Vì vậy, tất cả các đức Như Lai trong mười phương, xem thấy tâm lừa đảo gian dối của chúng sinh, đều gọi đó là kẻ cướp của giết người; còn chư vị Bồ-tát thì coi sự lừa đảo như giẫm lên rắn độc.
Bảy là thói quen thù oán, hiềm khích, phát sinh nơi tâm ôm ấp hận thù, cho nên mới có các hình ảnh quăng đá, ném gạch, cũi giam, xe tù, lu nhốt, bịch bao; như người hiểm độc ôm giữ điều ác. Tập khí chủng tử vẫn còn mà lại chồng thêm tập khí hiện tại, làm cho tâm hận thù càng mạnh, cho nên mới có các quả báo ném đá, quăng gạch, bắt bớ giam cầm, đánh, bắn, ném, trói. Vì vậy, tất cả các đức Như Lai trong mười phương, xem thấy người ôm lòng thù hận, đều gọi đó là quỉ trái đạo hại người; còn chư vị Bồ-tát thì coi lòng hận thù như rượu độc.
Tám là thói quen ác kiến, chấp thủ ý kiến của mình, như các nghiệp ngã kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến, tà kiến, sinh ra chống đối, phản kích nhau, cho nên có quan lại chứng chấp giấy tờ; như người đi đường, kẻ qua người lại ai cũng trông thấy nhau. Tập khí chủng tử vẫn còn mà lại chồng thêm tập khí hiện tại, làm cho nghiệp ác kiến càng mạnh, cho nên mới có các nghiệp quả như bị xét hỏi, mưu trá, tra khảo, vặn vẹo, gạn hỏi, cứu xét lí lịch đối chiếu rõ ràng; bấy giờ có đồng tử cầm sổ sách giấy tờ, những lời biện bạch được ghi chép đầy đủ. Vì vậy, tất cả các đức Như Lai trong mười phương, xem thấy nghiệp ác kiến của chúng sinh, đều gọi đó là hố sâu kiến chấp; còn chư vị Bồ-tát nhìn các thiên chấp hư vọng như nhìn xuống hố độc.
Chín là thói quen vu vạ, phát sinh từ tâm vu oan giá họa để hại nhau, cảm ra các cảnh tượng ghê rợn như núi khép, đá kẹp, bánh xe sắt cán, cối xay nghiền, cày lưỡi; như kẻ gièm pha độc hại, vu cáo áp bức người lương thiện. Tập khí chủng tử vẫn còn mà lại chồng thêm tập khí hiện tại, làm cho tâm vu hại tiếp nối không ngừng, cho nên mới có các quả báo đau khổ như bắt nhốt, đè ép, vồ đập, ép máu, lóc thịt. Vì vậy, tất cả các đức Như Lai trong mười phương, xem thấy tâm vu vạ của chúng sinh, đều gọi đó là cọp độc hại; còn chư vị Bồ-tát thì sợ sự vu vạ như sợ bị sấm sét.
Mười là thói quen tranh tụng, tố cáo lẫn nhau, phát sinh từ sự che giấu lỗi mình, cho nên mới có gương soi đuốc chiếu; như ở giữa ban ngày không thể giấu bóng được. Tập khí chủng tử vẫn còn mà lại chồng thêm tập khí hiện tại, làm cho nghiệp tranh tụng, che giấu càng mạnh, cho nên mới có nhân sự và các dụng cụ đối nghiệm như bạn ác, gương soi nghiệp, ngọc rọi tâm để phơi bày rõ những nghiệp đời trước. Vì vậy, tất cả các đức Như Lai trong mười phương, xem thấy tâm che giấu lỗi của chúng sinh, đều gọi đó là giặc ngầm; còn chư vị Bồ-tát thì coi sự che giấu lỗi như đội núi cao lội trong biển lớn.
Thế nào là sáu giao báo? Này A Nan! Tất cả chúng sinh, sáu thức tạo nghiệp mà phải nhận chịu ác báo, đều do từ sáu căn mà ra. Thế nào là ác báo do từ sáu căn ra?
Một là quả báo của mắt thấy. Vì nhãn thức tạo nghiệp nên chiêu dẫn ác quả. Nghiệp thấy này cùng với các nghiệp khác (nghe, ngửi, nếm, chạm xúc, suy nghĩ) giao tác, cho nên trong lúc lâm chung, trước hết thấy lửa mạnh cháy rực đầy khắp mười phương; thần thức người chết bay lên rơi xuống, theo khói mà vào thẳng địa ngục vô gián. Tại đây chỉ có hai cảnh tượng: một là thấy sáng, thì thấy khắp nơi toàn là vật dữ, sinh ra khiếp đảm vô cùng; hai là thấy tối, thì khắp nơi hoàn toàn tối tăm, không thấy gì, sinh ra sợ hãi vô hạn. Lửa của cái thấy như thế, giờ đây thiêu đốt cái thấy, khiến cho trong mắt chỉ thấy toàn hình sắc của giường sắt nóng, cột đồng nung; thiêu đốt cái nghe, khiến cho trong tai chỉ nghe âm thanh của vạc dầu sôi, nước đồng chảy; thiêu đốt cái ngửi, khiến cho trong mũi chỉ ngửi mùi của khói đen, lửa nóng; thiêu đốt cái nếm, khiến cho trong lưỡi chỉ nếm vị của viên nóng, cơm sắt; thiêu đốt cái xúc, khiến cho trong thân chỉ nhận cảm giác của tro nóng, lò than; thiêu đốt cái suy nghĩ, khiến cho trong ý sinh ra lửa đóm như sao, bắn tung tóe khắp cõi hư không.
Hai là quả báo của tai nghe. Vì nhĩ thức tạo nghiệp nên chiêu dẫn ác quả. Nghiệp nghe này cùng với các nghiệp khác (thấy, ngửi, nếm, chạm xúc, suy nghĩ) giao tác, cho nên trong lúc lâm chung, trước hết thấy sóng cuộn ngập chìm trời đất; thần thức người chết bị cuốn trôi theo dòng nước mà vào thẳng địa ngục vô gián. Tại đây chỉ có hai cảnh tượng: một là nghe rõ, thì nghe hết mọi thứ náo động, làm cho tinh thần hôn loạn; hai là nghe điếc, thì hoàn toàn lặng lẽ, không nghe gì, tinh thần chìm lịm. Sóng của cái nghe như thế, giờ đây ụp vào cái nghe, khiến tạo thành những lời trách mắng, tra hỏi; ụp vào cái thấy, khiến tạo thành sấm sét, miệng rống, khói hơi độc; ụp vào mũi thở, khiến thành mưa, thành mù, phì hơi độc khắp toàn thân thể; ụp vào cái nếm, khiến cho trong lưỡi chỉ nếm toàn mủ, máu, đủ thứ dơ bẩn; ụp vào cái xúc, khiến cho trong thân đụng chạm toàn với súc sinh, ác quỉ, phân, nước tiểu; ụp vào ý nghĩ thì hóa thành sấm chớp, mưa đá, đập nát tâm thần.
Ba là quả báo của mũi ngửi. Vì tị thức tạo nghiệp nên chiêu dẫn ác quả. Nghiệp ngửi này cùng với các nghiệp khác (thấy, nghe, nếm, chạm xúc, suy nghĩ) giao tác, cho nên trong lúc lâm chung, trước hết thấy hơi độc đầy nghẹt gần xa; thần thức người chết tự thấy mình từ dưới đất vọt lên, rồi lại rớt thẳng vào địa ngục vô gián. Tại đây chỉ có hai cảnh tượng: một là ngửi thông, thì bị hơi độc xông lên tột bực, làm cho tâm thần rối loạn; hai là nghẹt thở, hơi thở bị tắt nghẽn, nằm chết giấc trên mặt đất. Hơi của cái ngửi như thế, giờ đây xông vào hơi thở, làm thành thông, thành nghẹt; xông vào cái thấy thì thành lửa, thành đuốc; xông vào cái nghe thì làm ra chìm ngập nơi biển lớn, chết thảm trong nước sôi; xông vào cái nếm, khiến cho vị thành thiu, thành ươn thối; xông vào cái xúc thì thành nứt nẻ, rách nát, thành núi thịt lớn có trăm ngàn con mắt, vô số giòi bọ rúc ăn; xông vào ý nghĩ, khiến thành ra tro, chướng khí, gạch đá bay nhảy đánh đập thân thể nát nhừ.
Bốn là quả báo của lưỡi nếm. Vì thiệt thức tạo nghiệp nên chiêu dẫn ác quả. Nghiệp nếm này cùng với các nghiệp khác (thấy, nghe, ngửi, chạm xúc, suy nghĩ) giao tác, cho nên trong lúc lâm chung, trước hết thấy lưới sắt cháy đỏ rực bao trùm thế giới; thần thức người chết muốn chui xuyên qua, nhưng bị mắc vào lưới, đầu lộn ngược xuống, rơi thẳng xuống địa ngục vô gián. Tại đây chỉ có hai cảnh tượng: một là nuốt hơi vào, thì hơi đóng thành băng lạnh, làm nứt nẻ thân thể; hai là nhả hơi ra, thì hơi bay lên thành lửa dữ, đốt rụi xương tủy. Nếm vị như thế, giờ đây trải qua cái nếm, thì lưỡi tự thú nhận, chịu tội; trải qua cái thấy, thì mắt chỉ thấy toàn đá gạch, kim khí đang nung cháy; trải qua cái nghe, thì tai chỉ nghe âm thanh của binh đao sắc bén; trải qua cái ngửi, thì mũi chỉ ngửi toàn hơi của lồng sắt nung nóng trùm khắp cõi nước; trải qua cái xúc, thì thân chỉ đụng chạm với cung tên nỏ bắn; trải qua ý nghĩ, thì sinh ra sắt nóng bay, từ trên không rơi xuống như mưa.
Năm là quả báo của thân chạm xúc. Vì thân thức tạo nghiệp nên chiêu dẫn ác quả. Nghiệp chạm xúc này cùng với các nghiệp khác (thấy, nghe, ngửi, nếm, suy nghĩ) giao tác, cho nên trong lúc lâm chung, trước hết thấy núi lớn từ bốn phía áp lại, không có lối ra; thần thức người chết thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp, sói, sư tử, cai ngục đầu trâu, la sát đầu ngựa, tay cầm đao thương lùa vô cổng thành, hướng thẳng vào địa ngục vô gián. Tại đây chỉ có hai cảnh tượng: một là cảm xúc hợp vào, thì thấy núi ép thân thể, xương thịt nát nhừ trộn máu; hai là cảm xúc lìa ra, thì thấy gươm dao đâm mình, tim gan bị cắt lìa. Cảm xúc như thế, giờ đây trải qua cái xúc, khiến cho thân chỉ xúc chạm với xô, đập, đâm, bắn; trải qua cái thấy, thì mắt thấy toàn cảnh tượng nóng, đốt; trải qua cái nghe, thì tai chỉ nghe tiếng kêu khổ ở hai bên đường, tiếng hô hoán của chủ ngục, tiếng xử phạt nơi sảnh đường, tiếng hài tội nơi tòa án; trải qua hơi thở, thì các thứ như vải trùm kín, đãy nhốt cột chặt, tra khảo, trói buộc làm ngộp thở; trải qua cái nếm, thì lưỡi bị cào, bị kẹp, bị giật, bị cắt; trải qua ý nghĩ, thì vụt lên, vụt xuống, lúc nấu, lúc nướng.
Sáu là quả báo của ý nghĩ. Vì ý thức tạo nghiệp nên chiêu dẫn ác quả. Nghiệp suy nghĩ này cùng với các nghiệp khác (thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc) giao tác, cho nên trong lúc lâm chung, trước hết thấy gió dữ thổi tan tành quốc độ; thần thức người chết bị thổi bay lên hư không, rồi lại bị xoáy theo lốc mà rơi xuống, vào thẳng địa ngục vô gián. Tại đây chỉ có hai cảnh tượng: một là không biết, mê sảng tột cùng, thì hoang mang kinh sợ, rong chạy không dừng; hai là tỉnh biết, thì bị cảnh khổ nung đốt không cùng, đau đớn không chịu nổi. Quả báo của ý nghĩ tà vạy như thế, giờ đây kết nơi ý căn, thành ra nơi nơi chốn chốn thọ tội; kết nơi nhãn căn, thành ra gương soi nghiệp, bạn ác làm chứng để xác nhận tội; kết nơi nhĩ căn, thành ra tảng đá to, thành băng, thành sương, thành đất, thành hơi mù; kết nơi tị căn, thành ra xe lửa, thuyền lửa, lồng lửa; kết nơi thiệt căn, thành ra tiếng kêu la, gào khóc; kết nơi thân căn, thành ra thân lớn, thân nhỏ, té sấp, té ngửa, trong một ngày trải qua vạn lần sống vạn lần chết.
Này A Nan! Đó là mười tập nhân và sáu quả báo của địa ngục. Nhân quả như thế, đều do chúng sinh mê vọng tạo ra. Nếu các chúng sinh, cả sáu căn đồng thời tạo hết các nghiệp ác như thế, sẽ đọa vào địa ngục A-tì, chịu đau khổ cùng cực, trải vô lượng kiếp. Nếu mỗi căn tạo đủ mười nghiệp nhân nhưng không đồng thời với các căn khác, lại gồm thêm mười nghiệp nhân của các căn khác, người đó sẽ đọa vào tám địa ngục vô gián. Nếu thân, khẩu, ý tạo ba nghiệp sát, đạo, dâm, người đó sẽ đọa vào mười tám địa ngục. Nếu không tạo đủ ba nghiệp, trong đó chỉ có hoặc một nghiệp sát một nghiệp đạo, hoặc một nghiệp sát một nghiệp dâm, vân vân, người ấy sẽ đọa vào ba mươi sáu địa ngục. Nếu chỉ một căn tạo một nghiệp, người ấy sẽ đọa vào một trăm lẻ tám địa ngục. Do đó chúng sinh, mỗi mỗi tự mình tạo nghiệp riêng biệt, nhưng ở trong thế giới, những tội danh và tội trạng trùng hợp giống nhau, nên chịu quả báo thì đồng phận với nhau ở một chỗ. Thật ra thì cảnh giới ấy chỉ do vọng tưởng phát sinh, không phải bản lai tự có.
Lại nữa, này A Nan! Những người phá hủy luật nghi, phạm giới Bồ-tát, hủy báng niết bàn Phật quả, thì vĩnh viễn sống trong địa ngục; còn chỉ phạm các tạp nghiệp khác, sau nhiều kiếp chịu khổ thiêu đốt ở địa ngục mãn rồi, sẽ tiếp tục chịu khổ báo nhẹ hơn nơi chốn ngạ quỉ. Nếu nơi nghiệp nhân căn bản, do tham vật mà gây tội, sau khi thọ tội ở địa ngục xong, người đó gặp vật thì gá theo mà thành hình, gọi là Quái-quỉ; nếu tham sắc mà gây tội, sau khi thọ tội ở địa ngục xong, người đó gặp gió thì gá theo mà thành hình, gọi là Bạt-quỉ; nếu tham dối trá mà gây tội, sau khi thọ tội ở địa ngục xong, người đó gặp súc vật thì gá theo mà thành hình, gọi là Mị-quỉ; nếu tham sân hận mà gây tội, sau khi thọ tội ở địa ngục xong, người đó gặp sâu bọ thì gá theo mà thành hình, gọi là Cổ-độc-quỉ; nếu tham nhớ oán thù mà gây tội, sau khi thọ tội ở địa ngục xong, người đó gặp sự suy bại của kẻ thù thì gá theo mà thành hình, gọi là Lệ-quỉ; nếu tham ngạo mạn mà gây tội, sau khi thọ tội ở địa ngục xong, người đó gặp hơi thì gá theo mà thành hình, gọi là Ngạ-quỉ; nếu tham lừa đảo mà gây tội, sau khi thọ tội ở địa ngục xong, người đó gặp điều u ẩn ám muội thì gá theo mà thành hình, gọi là Yểm-quỉ; nếu tham tà kiến mà gây tội, sau khi thọ tội ở địa ngục xong, người đó gặp tinh hoa thì gá theo mà thành hình, gọi là Vọng-lượng-quỉ; nếu tham vu vạ mà gây tội, sau khi thọ tội ở địa ngục xong, người đó gặp chú thuật thì gá theo mà thành hình, gọi là Dịch-sử-quỉ; nếu tham bè đảng mà gây tội, sau khi thọ tội ở địa ngục xong, người đó gặp người thì gá theo mà thành hình, gọi là Truyền-tống quỉ. Này A Nan! Những người đó đều do thuần tình mà đọa lạc, khi lửa nghiệp thiêu đốt khô hết ở địa ngục rồi, thì lên làm quỉ. Tất cả những cảnh đau khổ đó đều do nghiệp vọng tưởng của tự mình chiêu dẫn. Nếu được duyên lành tỏ ngộ bồ đề, thì trong cái tánh sáng tròn vẹn nhiệm mầu, vốn không hề có những cảnh khổ ấy.
Lại nữa, này A Nan! Khi nghiệp quỉ đã hết thì hai thứ tình và tưởng thành không, mới ở thế gian, cùng với người mình từng mang nợ khi xưa, oan gia đối đầu, thân phải làm súc sinh để đền trả nợ cũ. Loài Quái-quỉ gá theo vật mà thành hình, nay vật đã tiêu, báo đã hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim cú vọ; loài Bạt-quỉ gá theo gió mà thành hình, nay gió đã tiêu, báo đã hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài báo điềm hung dữ, hoặc các loài cầm thú kì dị khác; loài Mị-quỉ gá theo súc vật mà thành hình, nay súc vật đã tiêu, báo đã hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chồn; loài Cổ-độc-quỉ gá theo sâu bọ mà thành hình, nay sâu bọ đã tiêu, báo đã hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm các loài có nọc độc; loài Lệ-quỉ gá theo vận suy mà thành hình, nay vận suy đã cùng, báo đã hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài giun; loài Ngạ-quỉ gá theo hơi mà thành hình, nay hơi đã tiêu, báo đã hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm các loài cho người ta ăn thịt; loài Yểm-quỉ gá theo u ẩn ám muội mà thành hình, nay u ẩn ám muội đã tiêu, báo đã hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm các loài để người ta lấy da hoặc lông làm y phục; loài Vọng-lượng-quỉ gá theo tinh hoa mà thành hình, nay tinh hoa đã tiêu, báo đã hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm các loài chim xuất hiện theo mùa; loài Dịch-sử-quỉ gá theo chú thuật mà thành hình, nay chú thuật đã mất, báo đã hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài báo điềm lành, hoặc các loài tinh khôn khác; loài Truyền-tống-quỉ gá theo người mà thành hình, nay người đã chết, báo đã hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm các loài gia súc quấn quít bên người. Này A Nan! Những loài như thế đều là lửa nghiệp đốt xong, sinh vào các loài bàng sinh để trả nợ cũ. Những cảnh khổ đó cũng đều do từ nghiệp hư vọng của chính mình chiêu dẫn, nếu được duyên lành tỏ ngộ bồ đề, thì những vọng duyên ấy vốn không tự có.
Này A Nan! Như lời thầy nói về các nghiệp ác của tì kheo ni Bảo Liên Hương, vua Tì Lưu Li và tì kheo Thiện Tinh, đều vốn do họ tự tạo ra, không phải do từ trên trời sa xuống, không phải do từ dưới đất phát lên, cũng không phải do người nào đem cho, mà chính do vọng tưởng của họ chiêu dẫn, rồi tự nhận chịu quả báo. Đối với tâm bồ đề, chúng đều là phù vân hư huyễn, chỉ là sự kết đọng của vọng tưởng mà thôi.
Lại nữa, này A Nan! Các loài súc sinh đền trả nợ trước; nhưng trong lúc trả nợ mà trả quá mức, thì những chúng sinh ấy sẽ trở lại làm người để đòi lại chỗ dư thừa. Nếu người bị đòi kia có nghiệp lành và có phước đức thì vẫn ở trong loài người, không cần phải bỏ thân người mà trả lại chỗ dư thừa đó; còn nếu không có phước đức thì phải làm thân súc sinh để đền trả chỗ dư thừa.
A Nan! Thầy nên biết, dù đang làm người mà dùng tiền vật trả nợ, hoặc làm thân súc sinh dùng sức trả nợ, thì khi trả đủ là xong; còn như ở trong ấy có giết thân mạng, hoặc ăn thịt chúng sinh, như vậy phải trải qua nhiều kiếp giết nhau, ăn thịt nhau, giống như bánh xe xoay vòng, chỗ cao chỗ thấp thay đổi nhau, không hề ngừng nghỉ; trừ ra tu được pháp xa-ma-tha, hay gặp được Phật ra đời, nếu không thì không có cách nào chấm dứt được.
Thầy nên biết: Loài cú vọ kia khi trả nợ đã đủ thì được trở lại thân người, sinh vào nhân đạo, nhập bọn với hạng người ngoan cố; loài báo điềm hung dữ kia, khi trả nợ đã đủ thì được trở lại thân người, sinh vào nhân đạo, nhập bọn với hạng người quái dị; loài chồn khi trả nợ đã đủ thì được trở lại thân người, sinh vào nhân đạo, nhập bọn với hạng người tầm thường; những loài có độc kia khi trả nợ đã đủ thì được trở lại thân người, sinh vào nhân đạo, nhập bọn với hạng người hiểm độc; loài giun khi trả nợ đã đủ thì được trở lại thân người, sinh vào nhân đạo, nhập bọn với hạng người thấp hèn; những loài cung cấp thịt ăn, khi trả nợ đã đủ thì được trở lại thân người, sinh vào nhân đạo, nhập bọn với hạng người nhu nhược; những loài cung cấp da hoặc lông làm đồ mặc kia, khi trả nợ đã đủ thì được trở lại thân người, sinh vào nhân đạo, nhập bọn với hạng người lao khổ không ngừng; loài chim mùa kia khi trả nợ đã đủ thì được trở lại thân người, sinh vào nhân đạo, nhập bọn với hạng người có chút ít văn hóa; những loài báo trước điềm lành, khi trả nợ đã đủ thì được trở lại thân người, sinh vào nhân đạo, nhập bọn với hạng người thông minh; những loài gia súc, khi trả nợ đã đủ thì được trở lại thân người, sinh vào nhân đạo, nhập bọn với hạng người hiểu biết việc đời. Này A Nan! Các chúng sinh đó đều do trả hết nợ cũ, được trở lại thân người trong nhân đạo. Họ từ vô thỉ đến nay, điên đảo tạo nghiệp, sinh sát lẫn nhau, không gặp Phật, không nghe chánh pháp, mãi mãi xoay vần trong chốn trần lao, thật là đáng thương xót!
Này A Nan! Lại trong nhân đạo, có những người không nương theo chánh giác để tu tập chánh định, mà đi vào rừng núi thâm u hẻo lánh, chỗ không có người tới lui, tu theo vọng niệm riêng, tư tưởng chuyên chú, kiên cố hình hài, cốt để thành tiên, gồm mười hạng như sau: Hạng người chuyên tìm các thứ bổ dưỡng để ăn, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi đạo ăn thành tựu, gọi là Địa-hành tiên; hạng người chuyên ăn các thứ cỏ cây, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi đạo thuốc thành tựu, gọi là Phi-hành tiên; hạng người chuyên luyện vàng, đá, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi đạo hóa chất thành tựu, gọi là Du-hành tiên; hạng người chuyên vận khí dưỡng tinh, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi đạo khí tinh thành tựu, gọi là Không-hành tiên; hạng người chuyên nhai nuốt nước miếng, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi nhuận đức thành tựu, gọi là Thiên-hành tiên; hạng người chuyên hút tinh hoa nhật nguyệt, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi hút khí tinh túy thành tựu, gọi là Thông-hành tiên; hạng người chuyên luyện bùa chú, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi thuật pháp thành tựu, gọi là Đạo-hành tiên; hạng người chuyên luyện về trầm tư tĩnh niệm, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi công phu tư niệm thành tựu, gọi là Chiếu-hành tiên; hạng người chuyên luyện về thủy hỏa giao cấu, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi đạo cảm ứng thành tựu, gọi là Tinh-hành tiên; hạng người chuyên luyện về biến hóa, bền bỉ luyện như thế mãi, cho đến khi tâm tĩnh giác thành tựu, gọi là Tuyệt-hành tiên. Này A Nan! Những hạng tiên nhân đó đều ở trong nhân đạo mà tu vọng niệm, chẳng tu chánh giác, chỉ đạt công hiệu về sức sống, thọ ngàn vạn tuổi, ở ẩn trong núi rừng sâu thẳm, hoặc trên đảo giữa biển khơi, cách tuyệt với người đời. Tuy vậy, vì không tu chánh định, vẫn đầy dẫy vọng tưởng, họ vẫn trôi lăn trong luân hồi, khi quả báo hết rồi, lại lưu lạc vào các nẻo.
Này A Nan! Những người ở thế gian không cầu đạo quả thường trụ, chưa có thể bỏ sự ân ái vợ chồng, nhưng không buông lung phạm giới tà dâm, tâm được chút ít định tĩnh, sáng suốt, sau khi mạng chung sinh về một cõi ở gần mặt trời mặt trăng, gọi là cõi trời Tứ-vương. Những người, trong đời sống vợ chồng, tâm dâm ái ít ỏi, nhưng trong những lúc tĩnh cư, thỉnh thoảng niệm dâm dục còn sinh khởi, chưa hoàn toàn thanh tịnh, thì sau khi mạng chung, vượt khỏi ánh sáng mặt trời mặt trăng, sinh trên đỉnh cao tột của cõi nhân gian, gọi là cõi trời Đao-lợi(221). Những người gặp cảnh dâm dục thì tạm thời thuận theo, nhưng qua rồi thì không nghĩ tới nữa; ở trong nhân gian mà tâm không bị đắm nhiễm sâu nặng, thì sau khi mạng chung, sáng rỡ an trú một cõi trên hư không, ánh sáng mặt trời mặt trăng không chiếu đến được; những chúng sinh ấy tự có ánh sáng, đó là cõi trời Tu-diệm-ma(222). Những người luôn luôn tĩnh lặng, nhưng có khi vẫn bị những cảm xúc bức ép, chưa có thể chống cự hẳn được, thì sau khi mạng chung, sinh lên cõi tinh vi, không tiếp xúc với các cõi trời, người ở dưới; cho đến thời kiếp Hoại, tam tai cũng không hủy hoại tới cõi này, đó là cõi trời Đâu-suất-đà(223). Những người không có tâm dâm dục, nhưng có lúc, chỉ vì đáp ứng người khác mà hành sự, và trong lúc hành sự thì cảm thấy vô vị như nhai sáp, thì sau khi mạng chung, sinh vượt lên trên nữa, vào cõi biến hóa, đó là cõi trời Lạc-biến-hóa(224). Những người không có tâm thế gian, chỉ hòa đồng với thế gian mà hành sự dục lạc, và ngay trong lúc hành sự, tâm hoàn toàn siêu thoát, không có mảy may ý tưởng dục lạc, thì sau khi mạng chung, sinh vượt lên trên nữa, khỏi tất cả cõi Lạc-biến-hóa và bốn cõi trời ở dưới, gọi là cõi trời Tha-hóa-tự-tại(225). Này A Nan! Sáu cõi trời đó, về thân xác tuy có tiết chế dần dần hành động dâm dục, nhưng tâm ý vẫn chưa hoàn toàn dứt hết ái dục, cho nên, từ sáu cõi trời này cho đến hết các cõi dưới, đều gọi chung là DỤC GIỚI. Chú thích:
(211) Mười thân: chỉ cho 10 thân của Phật và Bồ-tát; có nhiều loại, ở đây xin nêu hai loại:
1. Mười thân dung nhiếp các pháp ở thế gian, gồm có: Thanh-văn thân, Duyên-giác thân, Bồ-tát thân, Như-lai thân, Pháp thân, Trí thân, Hư-không thân, Nghiệp-báo thân, Chúng-sinh thân, Quốc-độ thân.
2. Các đức Như Lai có đầy đủ mười thân: Bồ-đề thân, Nguyện thân, Hóa thân, Lực thân, Trang-nghiêm thân, Uy-thế thân, Ý-sinh thân, Phước thân, Pháp thân, Trí thân.
(212) 12 tầng bậc vừa đơn vừa kép: Quá trình tu tập của một vị Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, trải qua 12 địa vị, trong đó, những địa vị chỉ một tên một bậc, gọi là địa vị đơn (đơn vị), – như 7 địa vị: Càn-tuệ, Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế-đệ-nhất, Đẳng-giác, Diệu-giác; những địa vị một tên mà gồm nhiều bậc, gọi là địa vị kép (phức vị), – như 5 địa vị: Tín (10 bậc), Trụ (10 bậc), Hạnh (10 bậc), Hồi-hướng (10 bậc), Địa (10 bậc).
(213) Mười thí dụ: tức 10 đề mục quán tưởng:
1. Quán tất cả nghiệp là như huyễn
2. Quán tất cả pháp như bóng hơi nóng
3. Quán tất cả thân như bóng trăng trong nước
4. Quán diệu sắc như hoa đốm giữa hư không
5. Quán diệu âm như tiếng vang trong hang động
6. Quán quốc độ của chư Phật như thành càn-thát-bà
7. Quán Phật sự như mộng ảo
8. Quán thân Phật như bóng ảnh
9. Quán báo thân như hình tượng
10. Quán pháp thân như huyễn hóa
tất cả đều không thể nắm giữ, không thể bỏ đi, tại vì tất cả đều không vậy.
(214) 55 địa vị: Đây là con đường tu tập của một vị Bồ-tát từ lúc khởi đầu phát tâm cho đến khi thành Phật –gọi là “Bồ đề lộ”, gồm có: 10 bậc Tín (Thập Tín), 10 bậc Trụ (Thập Trụ), 10 bậc Hạnh (Thập Hạnh), 10 bậc Hồi-hướng (Thập Hồi-hướng), 4 bậc Gia-hạnh (Tứ Gia-hạnh), 10 bậc Địa (Thập Địa), và bậc Đẳng-giác. Sở dĩ không kể bậc Càn-tuệ và bậc Diệu-giác vào đây, là vì, theo pháp sư Viên Anh trong tác phẩm Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, thì hành giả ở bậc Càn-tuệ mới phát khởi sơ tâm, chưa phát lòng tin chân thật, chưa thật sự bước vào lộ trình, nên không kể; còn bậc Diệu-giác thì tuệ giác đã đến mức cứu cánh, đã về hẳn nhà, không còn đang đi trên đường nữa, nên cũng không kể.
Mặt khác, theo cư sĩ Tăng Phụng Nghi (đời Minh, Trung-quốc) trong tác phẩm Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Tông Thông, thì bậc Càn-tuệ được kể vào 55 địa vị này, mà không kể bậc Đẳng-giác, lí do là vì, bậc Đẳng-giác, cũng giống như bậc Diệu-giác, cả hai bậc này đều đã là Giác, là Chân Bồ Đề, chứ không còn là “con đường” nữa.
Mặt khác nữa, một cách phổ thông, quá trình tu tập Bồ-tát hạnh được kể giản lược hơn, có 52 giai vị, gồm: 10 bậc Tín, 10 bậc Trụ, 10 bậc Hạnh, 10 bậc Hồi-hướng, 10 bậc Địa, bậc Đẳng-giác, và bậc Diệu-giác.
(215) Tư hoặc ba cõi: Những thứ phiền não tham, sân, si, mạn được gọi là “tư-hoặc”. Ba cõi (Dục, Sắc và Vô-sắc) phân nhỏ ra thì có 9 địa (Dục-giới Ngũ-thú-tạp-cư địa, Sơ-thiền Li-sinh-hỉ-lạc địa, Nhị-thiền Định-sinh-hỉ-lạc địa, Tam-thiền Li-hỉ-diệu-lạc địa, Tứ-thiền Xả-niệm-thanh-tịnh địa, Không-vô-biên-xứ địa, Thức-vô-biên-xứ địa, Vô-sở-hữu-xứ địa, và Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ địa); mỗi địa đều có 9 phẩm tư-hoặc, vậy cả ba cõi có tất cả là 81 phẩm tư-hoặc. Hành giả Thanh-văn thừa, khi đoạn trừ hết kiến-hoặc (gồm các thứ phiền não nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, và giới cấm thủ kiến) trong ba cõi thì chứng Sơ-quả Tu-đà-hoàn; tiếp đó, tu tập đoạn trừ 6 phẩm tư-hoặc đầu của cõi Dục, thì chứng được Nhị-quả Tư-đà-hàm; tiếp đến tu tập đoạn trừ 3 phẩm tư hoặc sau của cõi Dục, thì chứng Tam-quả A-na-hàm. Từ đây, vị thánh này sẽ không còn sinh trở lại cõi Dục nữa, mà sẽ ở luôn cõi Sắc-giới để tiếp tục tu tập đoạn trừ sạch hết 72 phẩm tư hoặc của 8 địa còn lại (gồm trong hai cõi Sắc và Vô-sắc), thì chứng Tứ-quả A-la-hán.
(216) Vua Lưu Li: tức vua Tì Lưu Li, là vua nước Kiều-tát-la vào thời đức Phật còn tại thế. Ông là con của vua Ba Tư Nặc, và là em khác mẹ của thái tử Kì Đà. Năm 79 tuổi, sau mùa an cư, đức Thế Tôn du hành về đến vương quốc Sakya, tạm trú nơi một quận lị nhỏ để hành đạo. Lúc bấy giờ, vua Ba Tư Nặc (vua cùng tuổi với đức Thế Tôn) cũng đang du ngoạn ở một thị trấn gần đó, biết tin, liền đến hầu Phật. Trong đoàn tùy tùng của nhà vua có cả hoàng tử Tì Lưu Li và viên tướng tổng tư lệnh quân đội hoàng gia. Trước khi tiến vào căn nhà nhỏ, trong đó Phật đang ngự, nhà vua cởi thanh bảo kiếm cùng vương miện trao cho vị tướng lãnh, để tất cả đoàn tùy tùng ở ngoài, một mình nhà vua vào hầu Phật. Lợi dụng lúc nhà vua và đức Phật đàm đạo trong căn nhà, hoàng tử Tì Lưu Li đã cùng vị tướng lãnh dẫn cả đoàn tùy tùng trở về kinh đô Xá-vệ, giết thái tử Kì Đà và tự lên ngôi vua, trở thành quốc vương của nước Kiều-tát-la. Lúc vua Ba Tư Nặc bái biệt đức Phật để trở lại chỗ cũ thì chỉ thấy còn có một người cung nữ già. Nhà vua biết việc chẳng lành, bèn đi thẳng về thành Vương-xá (nước Ma-kiệt-đà), và đã chết tại đây.
Sau khi lên ngôi vua, Tì Lưu Li nhớ lại mối hận cũ với dòng họ Thích-ca, bèn cất quân sang đánh thành Ca-tì-la-vệ, muốn tiêu diệt cho hết những người thuộc dòng họ Thích-ca. Mối hận cũ đó là gì? Hai bộ luật Ngũ Phần và Tứ Phần đều thuật như sau: Trước kia vua Ba Tư Nặc có xin cưới một người con gái dòng họ Thích-ca làm phu nhân. Nhưng luật lệ của dòng họ này không cho trai gái lập hôn nhân với người khác họ. Vua Ma Ha Nam bèn đem con gái của một tì nữ trong cung, giả xưng là con gái dòng họ Thích-ca, gả cho vua Ba Tư Nặc, về sau đã sinh ra hoàng tử Tì Lưu Li. Tì Lưu Li vừa lớn lên (Kinh Tăng Nhất A Hàm nói là 8 tuổi), nhà vua cho sang thành Ca-tì-la-vệ để theo học nghề bắn cung. Lúc bấy giờ, những người dòng họ Thích-ca vừa xây một tòa nhà lớn, nguyện rằng, trước hết phải cúng dường Phật và chúng tăng, sau đó họ mới sử dụng. Tì Lưu Li không biết điều đó, ngang nhiên dẫn đoàn tùy tùng vào tòa nhà ấy vui chơi. Những người dòng họ Thích bèn mắng: “Đứa con của tiện tì sao dám vô lễ! Đức Thế Tôn và chúng tăng chưa vào ngồi mà sao ngươi dám vào trước vui chơi!” Họ đuổi Tì Lưu Li đi, rồi phá bỏ tòa nhà đó để xây tòa nhà khác, sau đó mới thỉnh Phật và chúng tăng vào ngự. Tì Lưu Li giận lắm, bảo người tùy tùng: “Ngươi nhớ kĩ việc này. Sau khi ta làm vua, hãy nhắc lại cho ta!”. Rồi bỏ về nước. Bây giờ ông đã làm vua, liền cử binh sang tiêu diệt dòng họ Thích-ca để rửa hận. Tôn giả Mục Kiền Liên xin phép Phật hóa làm một cái lồng bằng sắt, trùm lên cả hoàng thành để bảo vệ họ Thích, nhưng đức Phật ngăn lại bảo: “Dù thầy có thần lực lớn, nhưng đâu có thể cải được định nghiệp này!”
Theo Kinh Tăng Nhất A Hàm, trong trận này, quân của vua Tì Lưu Li đã tàn sát đến chín ngàn chín trăm chín mươi vạn người dòng họ Thích, máu chảy thành sông. Sau trận tàn sát này, đức Phật đã báo cho chư vị tì kheo biết trước, sau 7 ngày, vua Tì Lưu Li và tất cả đoàn quân đều sẽ bị tận diệt. Quả nhiên, 7 ngày sau đó, vua Tì Lưu Li đã dẫn cả binh lính cùng các thể nữ đến sông A-chỉ-la để vui chơi, tới nửa đêm, thình lình nổi cơn gió dữ, nước sông dâng cao, cuốn trôi vua Tì Lưu Li cùng tất cả binh lính, thể nữ, không một ai sống sót!
Có thuyết nói rằng, sau khi giết sạch dân chúng dòng họ Thích trong thành Ca-tì-la-vệ, vua Tì Lưu Li lại muốn giết luôn đức Phật. Nhưng khi vừa thấy Phật thì tự nhiên ông kinh sợ vô cùng. Đức Phật bèn bảo cho ông biết, 7 ngày sau ông sẽ đọa địa ngục. Ông nghe thế lại càng kinh sợ, bèn suất lãnh quân đội lên thuyền ra biển để trốn nạn. Ông ở trên thuyền suốt 7 ngày; đến cuối ngày thứ 7, đang đêm tự nhiên lửa dữ phát cháy, đốt chìm thuyền, ông và mọi người đều chết hết.
(217) Tì kheo Thiện Tinh: Theo kinh Đại Bát Niết Bàn thì tì kheo Thiện Tinh là con của thái tử Tất Đạt Đa. Pháp sư Viên Anh (trong sách Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa) thì dẫn kinh A Hàm, nói rằng, Thiện Tinh là con của hoàng tử đường đệ của Phật; hoặc có chỗ nói, là con của vương tử Đề Bà Đạt Đa. Sau khi xuất gia, tì kheo Thiện Tinh đoạn trừ hết phiền não cõi Dục, chứng được Tứ-thiền. Nhưng rồi, vì thân cận với bạn ác mà sinh tà kiến, tiêu mất cảnh giới Tứ-thiền, trở thành si ám, bác bỏ nhân quả nghiệp báo, cho rằng không có Phật, không có niết bàn. Ông theo hầu Phật nhưng thường nói xấu Phật, và làm nhiều hành động chống lại Phật. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật có kể một số tội lỗi điển hình của ông như thế, và gọi ông là hạng nhất-xiển-đề. Vì những tội lỗi nặng nề đó, ông đã bị đọa địa ngục ngay khi còn sinh tiền. Sự kiện ông bị đọa địa ngục này đã xảy ra tại sông Ni-liên, trước sự chứng kiến của đức Phật và Bồ Tát Ca Diếp.
(218) A-tì: Tiếng Phạn là “a-tì”, dịch ra Hán ngữ là “vô-gián”, có nghĩa là không xen hở, không có kẽ hở. Đó là tên của loại địa ngục đau khổ cùng cực, nơi đọa lạc của những người tạo các tội cực ác, cực nặng. Chữ “vô-gián” có 5 ý nghĩa như sau: 1) Đọa lạc tức thì (thú quả vô gián): Sau khi xả bỏ thân người thì đọa ngay xuống địa ngục này, không phải qua thân trung ấm. 2) Chịu khổ không ngưng nghỉ (thọ khổ vô gián): Suốt trong thời gian ở địa ngục này, tội nhân chịu khổ liên tục, không giây phút nào có được niềm vui. 3) Thời gian không gián đoạn (kinh thời vô gián): Chịu khổ liên tục suốt trong một kiếp, không ngưng nghỉ một khoảnh khắc nào. 4) Mạng sống vô gián (mạng vô gián): Mạng sống kéo dài suốt một kiếp để liên tục chịu khổ, không giây phút nào gián đoạn. 5) Thân hình không bị xen kẽ (hình vô gián): Địa ngục này rộng dọc ngang tám vạn do tuần, thân hình một hay nhiều tội nhân cũng đều đầy khắp, không trống hở chỗ nào. Kinh Pháp Hoa nói: Người tạo tội vô gián, sau khi mạng chung, đọa ngay xuống địa ngục A-tì, chịu khổ đủ một kiếp; mãn kiếp đó rồi, lại sinh sang địa ngục A-tì khác trong khắp mười phương thế giới, dần dà như thế cho đến vô số kiếp.
(219) Tập nhân: Tập khí, tức những thói quen, chính là nguyên nhân tạo nghiệp.
(220) Giao báo: Khi một căn (con mắt chẳng hạn) tạo nghiệp, năm căn kia (tai, mũi, lưỡi, thân, ý) cũng góp phần tạo nghiệp, cho nên khi căn ấy chịu quả báo thì năm căn kia cũng giao hòa nhau cùng chịu quả báo.
(221) Trời Đao-lợi (Đao-lợi thiên): “Đao-lợi” là tiếng Phạn, dịch ra Hán ngữ là “tam-thập-tam”, nghĩa là “ba-mươi-ba”. Cõi trời này ở trên đỉnh núi Tu-di, cách xa cõi người 8 muôn 4 ngàn do tuần. Ở 4 hướng của cõi này, mỗi hướng đều có 8 cung trời, và 1 cung ở trung ương, cộng tất cả là 33 cung, cho nên cõi trời này có tên là “Đao-lợi”. Vị thiên chủ của cõi này là trời Đế Thích (tức Thích Đề Hoàn Nhân), ngự ở cung trung ương. Một ngày đêm ở cõi trời này dài bằng 100 năm ở cõi người; thiên chúng sống lâu 1.000 tuổi (tính ra hơn 36 triệu năm ở cõi người). Thiên chúng nam nữ ở cõi này cũng sống đời vợ chồng giống như cõi người, nhưng nhẹ nhàng, tinh khiết hơn nhiều. Em bé mới sinh ra đã lớn bằng em bé sáu tuổi ở nhân gian, y phục tự có đầy đủ.
(222) Trời Tu-diệm-ma (Tu-diệm-ma thiên): Cũng gọi là Dạ-ma thiên, dịch ra Hán ngữ là Thiện-thời-phân, ở trên hư không, cách cõi người 16 vạn do tuần. Đất đai cõi này như mây, thiên cung và thiên chúng tự có ánh sáng rực rỡ, ánh sáng trời trăng không chiếu tới, nên không có ngày đêm phân cách, chỉ căn cứ vào lúc hoa sen nở ra hay úp lại mà phân định ngày đêm. Một ngày đêm ở đây dài bằng 200 năm ở cõi người, thiên chúng sống lâu 2.000 tuổi. Mỗi giây mỗi phút đều thọ hưởng sự hoan lạc ngoài sức tưởng tượng của loài người. Ý niệm dâm dục chỉ khởi lên khi biết đúng lúc, và vợ chồng chỉ ôm nhau là âm dương thành tựu. Đến lúc sinh, người thiên nữ khởi niệm, liền có em bé hóa sinh nơi đầu gối, lớn bằng em bé ba, bốn tuổi ở nhân gian.
(223) Trời Đâu-suất-đà (Đâu-suất-đà thiên): thường gọi tắt là Đâu-suất, dịch ra Hán ngữ là Tri-túc thiên, ở cách xa cõi người 32 vạn do tuần, đất đai như mây. Cõi trời này chia thành hai viện: Nội viện và Ngoại viện. Ngoại-viện do thiên vương San Đâu Suất Đà làm chủ, là nơi thiên chúng phàm phu cư trú, phần nhiều chỉ hưởng khoái lạc, ít tu tập. Nội-viện là nơi cư trú tu tập của các vị Bồ-tát, do đức Bồ Tát Di Lặc làm chủ, thuyết pháp hóa độ. Đức Di Lặc và chư vị Bồ-tát thường ra khu Ngoại viện để giáo hóa thiên chúng phàm phu, ai căn cơ thuần thục, nghe pháp khai ngộ, thì được tiếp dẫn vào khu Nội-viện. Khu Nội-viện cực kì tinh vi, đến nỗi thiên chúng ở Ngoại-viện cũng không thể biết được. Vì vậy, khi đến kiếp Hoại, đại tam tai phá hủy thế giới đến tận cõi trời Tam-thiền (ở Sắc-giới), mà khu Nội-viện của cõi trời Đâu-suất này vẫn không bị hủy hoại. Thọ mạng ở Đâu-suất Ngoại-viện là bốn ngàn tuổi (một ngày đêm dài bằng bốn trăm năm ở nhân gian). Chúng sinh ở đây, niệm dâm dục nhẹ nhàng, biết đủ, và nam nữ chỉ cầm tay nhau là âm dương thành tựu. Em bé mới sinh đã lớn bằng em bé tám tuổi ở nhân gian.
(224) Trời Lạc-biến-hóa (Lạc-biến-hóa thiên): cũng gọi là Hóa-tự-tại thiên, hay Hóa-lạc thiên, ở cách xa cõi người 64 vạn do tuần, đất đai như mây. Chúa của cõi này là thiên vương Thiện Hóa, thiên chúng tự hóa ra các trần cảnh để tự thọ lạc, thân tướng thường có ánh sáng. Niệm dâm dục ở đây càng nhẹ nhàng, và nam nữ chỉ mỉm cười với nhau là âm dương thành tựu; con cái hóa sinh từ đầu gối của cha hoặc mẹ, mới sinh ra đã lớn bằng đứa trẻ mười hai tuổi ở nhân gian. Họ sống lâu tám ngàn tuổi (một ngày đêm dài bằng tám trăm năm ở nhân gian).
(225) Trời Tha-hóa-tự-tại (Tha-hóa-tự-tại thiên): là tầng trời cao nhất trong 6 tầng trời cõi Dục (Lục Dục thiên), và cũng là cõi cao nhất của cõi Dục (Dục giới); ở cách xa cõi người 128 vạn do tuần, đất đai như mây. Thiên chúng ở tầng trời phía dưới là Hóa-lạc thiên, tự mình biến hóa ra năm trần cảnh để hưởng thụ; rồi thiên chúng ở tầng trời này lại lấy các trần cảnh kia để hưởng thụ một cách tự tại, như Luận Đại Trí Độ nói: Cõi này chiếm lấy sự biến hóa của người khác để làm vui cho mình, cho nên gọi là “Tha-hóa-tự-tại”. Cõi trời này làm chủ của cả 6 cõi trời Dục giới. Đối với 5 cõi ở dưới thì thiên chúng ở cõi trời này sống lâu hơn, đoan chính hơn và sung sướng hơn rất nhiều. Dục niệm ở đây chỉ còn rất ít, thiên nam và thiên nữ chỉ nhìn nhau là âm dương thành tựu. Muốn có con thì khởi niệm, liền có thiên tử hóa sinh nơi đầu gối, lớn bằng đứa trẻ mười tuổi ở nhân gian. Họ sống đến 16.000 tuổi, mà một ngày đêm ở đó dài ước chừng bằng 1.600 năm ở cõi người. Cõi trời này cũng có duyên với Phật pháp, chính đức Thế Tôn đã từng nói một hội Kinh Hoa Nghiêm và một hội Kinh Bát Nhã ở cung trời này. Nhưng ở cõi trời này cũng có một cung điện vô cùng rộng lớn, đẹp đẽ, là chỗ ở của ma vương, chuyên tâm phá hoại Phật pháp, mà Luận Đại Trí Độ gọi đó là “Tha-hóa-tự-tại thiên tử ma” (là một trong 4 loại ma).
Sáu cõi trời Tứ-vương, Đao-lợi, Dạ-ma, Đâu-suất, Hóa-lạc và Tha-hóa-tự-tại, được gọi chung là sáu cõi trời Dục-giới (Lục Dục thiên). Hai cõi trời Tứ-vương và Đao-lợi đều tọa lạc trên núi Tu-di, còn thuộc cõi đại địa, nên gọi là “địa cư thiên”; bốn cõi trời còn lại đều tọa lạc trên hư không, cho nên được gọi là “không cư thiên”.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.227.72.27 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.