Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Phật Đỉnh Như Lai Mật Nhơn Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh [大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經] »» Bản Việt dịch quyển số 5 »»

Đại Phật Đỉnh Như Lai Mật Nhơn Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh [大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經] »» Bản Việt dịch quyển số 5

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Việt dịch (2) » English version (1) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.41 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.47 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Thủ Lăng Nghiêm

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Hạnh Cơ

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

- Sáu Căn Là Đầu Mối của Sinh Tử và Niết Bàn
- Nhân Duyên và Phương Tiện Chứng Đắc Viên Thông
Đại đức A Nan bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Tuy đức Thế Tôn đã dạy nghĩa quyết định thứ hai (về việc mở gút), nhưng con xem trong thế gian, những người muốn mở gút mà không biết đầu mối của gút ở chỗ nào, thì chắc chắn là họ không thể mở được. Bạch đức Thế Tôn! Con và toàn thể hàng Thanh-văn hữu-học ở trong hội chúng này cũng vậy. Từ vô thỉ đến nay, chúng con cùng sinh cùng diệt với vô minh, tuy được gọi là người xuất gia, và có căn lành được nghe nhiều giáo pháp như thế này, nhưng chỉ là chợt giác chợt mê, giống như người bị bệnh sốt rét cách nhật! Cúi xin đức Đại Từ thương xót kẻ chìm đắm, chỉ dạy cho chúng con, giờ đây, chính nơi thân tâm này, cái gì là gút, và bắt đầu từ đâu để khởi sự mở? Đồng thời cũng khiến cho chúng sinh đau khổ trong đời vị lai được thoát khỏi luân hồi, vượt ra ngoài ba cõi.
Bạch lời ấy xong, đại đức A Nan cùng toàn thể đại chúng, năm vóc gieo xuống đất, một lòng thành khẩn, chờ nghe lời khai thị vô thượng của đức Phật.
Bấy giờ đức Thế Tôn thương xót đại đức A Nan cùng hàng hữu học trong pháp hội, lại cũng vì chúng sinh đời vị lai mà khai thị đạo nhãn, làm cái nhân tu chứng đạo quả giải thoát, bèn dùng bàn tay sáng ngời màu vàng tía xoa lên đầu đại đức A Nan. Liền ngay lúc ấy, tất cả cõi Phật khắp mười phương đều chấn động sáu cách. Các đức Như Lai nhiều vô lượng ở các cõi kia, mỗi Ngài đều có ánh sáng quí báu phát ra từ đỉnh đầu. Tất cả ánh sáng ấy cùng lúc đó đều chiếu đến rừng Kì-đà, soi trên đỉnh đầu của đức Thế Tôn. Tất cả đại chúng trong pháp hội đều thấy được cảnh tượng chưa từng có.
Lúc bấy giờ, đại đức A Nan và khắp đại chúng, đều nghe các đức Như Lai nhiều vô lượng trong mười phương, đồng thanh dạy rằng:
– Lành thay, A Nan! Ông muốn biết cái gì là “câu sinh vô minh”(124), cái gút thắt đã khiến ông luân chuyển trong vòng sinh tử: đó chính là sáu căn của ông, chứ chẳng phải vật gì khác! Ông lại muốn biết, cái gì làm cho ông mau chứng được cảnh giới an lạc giải thoát, tịch tĩnh diệu thường của quả vị Vô thượng Bồ đề: thì cũng chính là sáu căn của ông, chứ chẳng phải vật gì khác!
Đại đức A Nan tuy nghe pháp âm ấy, nhưng tâm vẫn chưa rõ, bèn cúi đầu bạch Phật:
– Tại sao cái làm cho con luân hồi sinh tử, hoặc chứng được cảnh giới an lạc diệu thường, đều chính là sáu căn chứ không phải vật gì khác?
Đức Phật dạy đại đức A Nan:
– Căn và trần cùng nguồn gốc; trói và cởi không hai; tánh của thức là hư vọng, giống như hoa đốm giữa hư không. Này A Nan! Do nơi trần mà phát sinh cái biết của căn; do nơi căn mà hiện ra cái tướng của trần. Cái tướng của trần và cái thấy biết của căn đều không có tự tánh độc lập, giống như hai cây lau phải dựa vào nhau mới đứng vững được. Thế nên giờ đây, nếu ở nơi tri kiến mà thầy bị dính mắc vào cái tướng năng tri sở tri, thì đó là gốc của vô minh; nếu ở nơi tri kiến mà không dính mắc vào tướng năng tri sở tri, thì đó chính là niết bàn chân tịnh; làm gì có vật nào khác ở trong đó!
Lúc ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:
Nơi thể tánh chân như,
Pháp hữu vi không thật,
Duyên sinh, nên như huyễn;
Vô vi không sinh diệt,
Cũng không phải thật pháp,
Như hoa đốm hư không.
Nói vọng để tỏ chân,
Vọng và chân đều vọng;
Đã không phải là “chân”,
Cũng không phải “phi chân”,
Thì làm sao có được
Năng kiến cùng sở kiến!
Ở giữa căn và trần,
Không có tánh chân thật,
Giống như cây giao-lô(125).
Thắt, mở đồng một nhân,
Thánh, phàm không hai lối.
Quán sát thật kĩ càng
Tánh trong cây giao-lô,
Có, không đều không phải;
Mê chấp có và không,
Đó tức là vô minh,
Thấy rõ không phải có
Và cũng không phải không,
Đó tức là giải thoát.
Mở gút theo thứ lớp,
Khi sáu gút(126) đã mở,
Cái một(127) cũng không còn.
Ở trong sáu căn kia,
Chọn một căn viên thông,
Vào dòng không thối chuyển,
Liền thành bậc Chánh-giác.
Thức đà-na(128) vi tế,
Tập khí luôn huân biến,
Thành dòng thác sinh tử;
Sợ chúng sinh lầm lạc
Mê chấp vọng làm chân,
Hoặc chấp chân làm vọng,
Vì thế nên Như Lai
Thường không nói thức này.
Tự tâm chấp tự tâm,
Nên pháp vốn chẳng huyễn,
Đều trở thành hư huyễn.
Nếu không còn chấp trước,
Pháp chẳng huyễn không sinh;
Chẳng huyễn còn không sinh,
Pháp huyễn làm sao có!
Đó là diệu liên hoa,
Chân tâm kim cang vương,
Như huyễn tam ma đề,
Chỉ trong khoảng sát na,
Vượt trên hàng Vô-học.
Đó là pháp vô thượng,
Đường đến thẳng niết bàn,
Của chư Phật mười phương.
Đại đức A Nan cùng đại chúng nghe lời dạy bảo từ bi vô thượng của Phật, kệ tụng tinh túy, diệu lí trong suốt, mắt tâm tỏ ngộ, đồng tán thán là việc chưa từng có. Bấy giờ, đại đức A Nan chắp tay đảnh lễ, bạch Phật rằng:
– Nay con được nghe lời dạy về pháp chân thật, thanh tịnh diệu thường, phát xuất từ tâm đại từ bình đẳng của đức Thế Tôn; nhưng tâm con vẫn chưa rõ thế nào là “khi sáu gút đã mở, cái một cũng không còn”, thế nào là “mở gút theo thứ lớp”, cúi xin đức Thế Tôn rủ lòng đại từ, thương xót hội chúng này cùng chúng sinh đời sau, ban bố cho pháp âm, để rửa sạch những cấu nhiễm nặng nề của chúng con.
Liền khi ấy, đức Phật từ nơi tòa sư tử, sửa nội y cho ngay ngắn, rồi vén đại y, đưa tay lấy chiếc khăn hoa (do trời Dạ-ma cúng dường) máng trên ghế bảy báu, ở trước đại chúng, Ngài cột một cái gút, đưa cho đại đức A Nan xem, và hỏi rằng:
– Cái này gọi là gì?
Đại đức A Nan cùng đại chúng đồng bạch Phật rằng:
– Đó gọi là cái gút.
Đức Phật lại cột cái khăn hoa thành một gút nữa, và hỏi đại đức A Nan:
– Cái này gọi là gì?
Đại đức A Nan cùng đại chúng lại bạch Phật rằng:
– Đó cũng là cái gút.
Đức Phật tuần tự cột khăn hoa như vậy, tổng cộng có sáu cái gút. Mỗi khi cột xong một gút, đức Phật đều đưa cho đại đức A Nan xem, và hỏi: “Cái này gọi là gì?” Đại dức A Nan cùng đại chúng, cũng lại như vậy, đồng tuần tự bạch rằng: “Đó là cái gút.” Bấy giờ Phật bảo đại đức A Nan:
– Khi Như Lai mới cột cái khăn thì thầy gọi đó là cái gút. Cái khăn hoa này, trước đó chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai, thứ ba, quí thầy cũng gọi là gút?
Đại đức A Nan bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Cái khăn hoa được dệt thật quí báu, tuy vốn chỉ có một cái, nhưng theo con suy nghĩ, đức Thế Tôn cột một lần thì gọi là một cái gút, nếu cột một trăm lần thì phải gọi là một trăm cái gút; huống chi cái khăn ấy chỉ có sáu cái gút, không lên đến bảy, cũng không dừng ở năm, vì sao đức Thế Tôn chỉ gọi cái đầu tiên là gút, còn cái thứ hai, thứ ba, thì không gọi là gút?
Phật bảo đại đức A Nan:
– Thầy biết cái khăn hoa quí báu này nguyên chỉ có một cái, nhưng khi Như Lai cột sáu lần thì có sáu cái gút. Thầy hãy xét kĩ, tự thể của cái khăn là đồng, nhưng nhân vì cột gút mà hóa ra thành khác. Ý thầy thế nào? Cái gút đầu tiên được cột thành thì gọi là gút thứ nhất, như thế cho đến cái gút thứ sáu được cột thành, thì lúc ấy, Như Lai muốn gọi cái gút thứ sáu là gút thứ nhất, có được không?
– Dạ không được, bạch Thế Tôn! Nếu cả sáu cái gút đều còn đủ, thì cái gọi là thứ sáu không bao giờ gọi là cái thứ nhất; cho dù con có biện giải suốt đời, cũng không thể nào đem tên của sáu cái gút đó mà gọi lộn xộn được!
Phật dạy:
– Đúng vậy! Sáu cái gút thứ lớp không đồng, tuy nhìn lại nguồn gốc, thì chỉ do một cái khăn mà có, nhưng rốt cuộc không ai có thể làm cho sáu cái gút ấy lộn xộn lẫn nhau được. Sáu căn của thầy cũng vậy, trong chỗ hoàn toàn đồng nhau, sinh ra cái hoàn toàn khác nhau.
Đức Phật lại hỏi đại đức A Nan:
– Giả sử thầy không muốn cái khăn làm thành sáu cái gút, mà muốn cái khăn trở lại tự thể duy nhất ban đầu của nó, thì thầy làm thế nào?
Đại đức A Nan thưa:
– Nếu còn những cái gút thì thị phi nổi dậy, sự tranh cãi từ trong đó mà sinh ra, nào là gút này không phải gút kia, nào là gút kia không phải gút này. Nếu bây giờ đức Thế Tôn mở tung hết các gút ấy ra, tất nhiên, không có gút nào cả thì không có cái này, cái kia; như thế, cái gọi là “một” còn không có, huống gì là cái “sáu”!
Phật dạy:
– Lời Như Lai nói: “Sáu gút đã mở thì cái một cũng không còn.”, ý nghĩa cũng giống như vậy.
Do vì từ vô thỉ, tâm thầy cuồng loạn, nên cái thấy biết vọng phát ra. Vọng phát mãi không dừng, làm cho cái thấy biết sinh bệnh mà phát ra trần tướng. Như con mắt mệt mỏi thì có hoa đốm lăng xăng; ở trong cái tánh sáng suốt trong lặng, không do đâu mà bỗng dưng rối rít khởi lên những tướng thế gian, nào núi sông đất liền, nào sinh tử niết bàn. Tất cả những thứ đó đều là hoa đốm điên đảo do bệnh mê lầm phát ra.
Đại đức A Nan bạch Phật:
– Cái bệnh mê lầm ấy giống như cái gút, làm sao mà giải trừ?
Đức Phật cầm cái khăn có thắt gút, kéo riêng mối bên trái, hỏi đại đức A Nan:
– Làm thế này có mở gút được không?
– Bạch Thế Tôn, không được!
Đức Phật lại kéo riêng mối bên phải, hỏi đại đức A Nan:
– Như thế này thì có mở được không?
– Bạch Thế Tôn, không được!
Phật bảo đại đức A Nan:
– Như Lai kéo mối bên trái không mở được gút, kéo mối bên phải cũng không mở được; vậy thì thầy hãy nói làm cách nào thì mở được?
Đại đức A Nan bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Phải mở ở trung tâm cái gút thì tháo tung ngay.
Phật bảo đại đức A Nan:
– Đúng thế! Muốn mở gút thì phải mở từ trung tâm cái gút. Này A Nan! Như Lai từng nói rằng, Phật pháp do nhân duyên sinh khởi, nhưng “nhân duyên” ở đây không phải là những tướng hòa hợp thô lậu của thế gian. Như Lai sáng tỏ tuệ giác vô thượng, cho nên thấy rõ cái nhân cội gốc của tất cả các pháp thế và xuất thế gian, và mỗi mỗi pháp ấy theo duyên gì mà phát hiện ra; đến như từng giọt mưa ở ngoài hằng sa thế giới, Như Lai cũng biết con số nhiều ít; các thứ trước mặt đây như cây tùng tại sao thẳng, cây gai tại sao cong, con thiên nga tại sao trắng, con quạ tại sao đen, Như Lai đều biết rõ nguyên do. Vì vậy cho nên, này A Nan, tùy tâm thầy chọn một trong sáu căn, nếu mở được cái gút nơi căn ấy thì các trần tướng tự nhiên tiêu vong. Vọng cảnh đã diệt mất hết rồi, ngay lúc ấy là thầy sống với chân tâm, chứ còn đợi cái chân nào nữa?
Này A Nan! Bây giờ Như Lai hỏi thầy: Cái khăn hoa báu này hiện có sáu cái gút, có thể cùng một lúc mở bung ra để bỏ hết sáu gút được không?
– Dạ không được, bạch Thế Tôn! Những cái gút ấy, khi cột vốn đã theo thứ lớp, thì bây giờ cũng phải theo thứ lớp mà mở. Sáu cái gút tuy là đồng thể, nhưng khi cột lại không cùng lúc; cho nên mở gút thì phải mở theo thứ lớp từng cái một, chứ đâu thể nào trong cùng một lúc mà mở được hết!
Phật dạy:
– Cởi bỏ những cái gút sáu căn cũng giống như vậy. Căn ấy khi bắt đầu được mở thì trước tiên cởi bỏ được ngã chấp mà chứng nhập lí nhân không. Khi tánh không sáng suốt viên mãn thì giải thoát được pháp chấp. Pháp chấp đã cởi bỏ được rồi, thì cả nhân không và pháp không đều không còn sinh khởi; đó gọi là Bồ-tát từ tam-ma-địa mà chứng được vô sinh nhẫn(129).
Đại đức A Nan cùng đại chúng nhờ Phật khai thị mà được tuệ giác viên thông, không còn điều gì nghi hoặc, đồng chắp tay đảnh lễ nơi chân Phật, và bạch rằng:
– Hôm nay chúng con thân tâm được rỗng sáng, rất vui mừng vì không còn bị chướng ngại. Chúng con đã lãnh hội diệu nghĩa “sáu mở một không còn”; tuy nhiên, chúng con vẫn còn chưa hiểu rõ “căn nào là căn gốc rễ để chứng nhập viên thông?”.
Bạch Thế Tôn! Chúng con phiêu bạt bơ vơ nhiều kiếp, đâu ngờ rằng ngày nay lại được dự vào dòng giống của Phật; như đứa trẻ thơ mất sữa, bỗng nhiên gặp được mẹ hiền! Nếu nhân cơ hội gặp gỡ may mắn này mà con y theo lời dạy của Thế Tôn tu tập thành tựu đạo quả, thì thật là không phụ duyên hạnh ngộ. Nay con nghe được giáo pháp chưa từng có, mà nếu cứ hiểu trên văn tự như trước đây, thì thật là uổng công nghe; ôm một mớ tri kiến trống rỗng mà không thực chứng điều gì, thì cũng giống như người chưa từng được nghe pháp, có khác biệt gì đâu! Vậy xin đức Thế Tôn rủ lòng đại bi, ban cho chúng con giáo pháp bí mật nghiêm tịnh, như là lời khai thị cuối cùng của Thế Tôn.
Đại đức A Nan bạch lời ấy xong, năm vóc gieo xuống đất, lui về bản vị, ẩn tâm nơi cơ cảm sâu nhiệm, thầm lặng cầu khẩn, mong Phật tâm truyền.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo khắp các vị đại Bồ-tát và các vị lậu tận đại A-la-hán đang hiện diện trong pháp hội rằng:
– Các ông là những vị Bồ-tát và A-la-hán sinh trưởng trong giáo pháp của Như Lai và đã chứng quả Vô-học. Giờ đây Như Lai hỏi các ông: Lúc ban đầu phát tâm, trong mười tám khu vực(130), do ở khu vực nào mà chứng ngộ viên thông, và nhờ phương tiện gì mà vào tam-ma-địa?
Lúc bấy giờ, nhóm tôn giả Kiều Trần Na gồm năm vị tì kheo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Ngay sau khi Thế Tôn thành đạo, chúng con đã được nhìn thấy Thế Tôn đầu tiên ở vườn Nai. Do nơi âm thanh của Thế Tôn mà chúng con tỏ ngộ diệu lí Bốn Sự Thật. Lúc đó Thế Tôn hỏi: “Các tì kheo hiểu không?” Con đã bạch trước tiên: “Con đã hiểu.” Thế Tôn liền ấn chứng cho con tên là A Nhã Đa. Âm thanh của Thế Tôn thật nhiệm mầu, thâm áo, tròn đầy. Con đã từ nơi âm thanh đó mà tu nhân, tỏ ngộ chân lí, chứng quả A-la-hán. Hôm nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện được chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì âm thanh là hơn hết.
Tôn giả Ưu Ba Ni Sa Đà(131) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con cũng được gặp Thế Tôn sau ngày Thế Tôn thành đạo không bao lâu. Con được Thế Tôn dạy cho pháp quán sát về sự bất tịnh của sắc thân, nhờ đó mà sinh tâm nhàm chán tột cùng, không đắm trước thân tướng, tỏ ngộ bản tánh của sắc trần. Do từ tướng bất tịnh đến tướng xương trắng, cho đến khi toàn thân bị thiêu đốt thành tro bụi, gặp gió thổi tung bay tứ tán, trở về hư không. Con quán sát cả hai, không và sắc đều không, chứng thành quả Vô-học, đức Thế Tôn ấn chứng cho con tên là “Ni Sa Đà”(132). Sắc tướng vọng trần đã hết sạch, hiển bày sắc tánh tịnh diệu thâm áo viên mãn. Con đã do nơi sắc tướng mà chứng quả A-la-hán. Hôm nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện được chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì sắc trần là hơn hết.
Tôn giả Hương Nghiêm(133) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Lúc đó con nghe đức Thế Tôn dạy con quán sát chín chắn các pháp hữu vi, con bèn từ giã đức Thế Tôn, trở về tĩnh tọa nơi tịnh thất. Các thầy tì kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương lặng lẽ bay vào trong mũi con. Con quán chiếu mùi hương ấy, nó không phải từ gỗ mà ra, không phải từ hư không mà đến, không phải do khói mà có, không phải do lửa phát sinh; bay đi thì không chỗ trụ, cũng không từ đâu mà đến. Do quán chiếu như vậy, ý thức phân biệt trong con tự tiêu vong, trí vô lậu bừng sáng; đức Thế Tôn ấn chứng cho con danh hiệu Hương Nghiêm. Hương trần đã diệt, hiển bày hương tánh tịnh diệu thâm áo viên mãn. Con đã do cái hương nghiêm tịnh ấy mà chứng quả A-la-hán. Hôm nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện được chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì hương trần là hơn hết.
Hai vị đại Bồ Tát Dược Vương và Dược Thượng(134), cùng năm trăm vị Phạm-thiên trong chúng hội, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Chúng con từ vô thỉ kiếp, từng là lương y của thế gian, miệng thường nếm các loại cỏ, cây, vàng, đá trong thế giới Ta-bà này, có đến mười vạn tám ngàn thứ. Chúng con biết rõ tất cả, như thứ nào có vị đắng, thứ nào có vị chua, thứ nào vị mặn, thứ nào vị nhạt, thứ nào ngọt, thứ nào cay, vân vân. Chúng con cũng biết rõ tánh của thứ nào cần hòa hợp nhiều thứ để trị một bệnh; thứ nào mới sinh ra, một mình nó đã đủ khả năng trị một bệnh. Lại như thứ nào cần phải sao, nấu, nướng cho biến chất thì mới công hiệu; thứ nào tánh lạnh để trị chứng nóng, thứ nào tánh nóng để trị chứng lạnh; thứ nào tánh độc, thứ nào không độc; tất cả những loại thuốc như vậy, chúng con đều biết rõ. Chúng con phụng sự đức Thế Tôn từ vô lượng kiếp, biết rõ tự tánh của vị trần, không phải không, không phải có, không phải tức thân tâm, không phải rời thân tâm. Chúng con do phân biệt vị trần mà được khai ngộ; nhờ đức Thế Tôn ấn chứng cho anh em chúng con danh hiệu Dược Vương và Dược Thượng. Hôm nay, ở trong pháp hội này, chúng con là Pháp-vương-tử. Chúng con do từ vị trần mà giác ngộ, được lên địa vị Bồ-tát. Đức Thế Tôn hỏi nhân duyên và phương tiện được chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của chúng con thì vị trần là hơn hết.
Đức Bồ Tát Bạt Đà Bà La(135) và mười sáu vị Bồ-tát đồng bạn, cùng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Chúng con xưa kia, ở vào thời đại Phật Oai Âm Vương(136) trụ thế, từng nghe pháp và xuất gia tu hành. Đến kì tắm gội của chư tăng, con theo thứ lớp mà vào phòng tắm. Trong lúc tắm, bỗng con thấy rõ nước chính là cái nhân dẫn đến giác ngộ. Nước vốn không rửa bụi trần, cũng không rửa thân thể, khoảng giữa an nhiên vắng lặng, cái tướng xúc trần hoàn toàn không thể nắm bắt. Con được Phật ấn chứng cho tên Bạt Đà Bà La. Hạt giống huân tập khi xưa con vẫn không quên, ngày nay con được theo đức Thế Tôn xuất gia, do phát hiện được chân tánh mầu nhiệm của xúc trần mà con chứng nhập địa vị Bồ-tát Đẳng-giác. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện được chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì xúc trần là hơn hết.
Tôn giả Đại Ca Diếp và tì kheo ni Tử Kim Quang(137), từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Vào một kiếp xa xưa, ở thế giới này có đức Phật ra đời, hiệu là Nhật Nguyệt Đăng. Thuở ấy con được thân cận Phật, được nghe pháp tu hành. Sau khi Phật diệt độ, con thắp đèn sáng liên tục để cúng dường xá-lợi; lại dùng vàng tía để thếp tượng Phật. Từ đó đến nay, đời đời kiếp kiếp, thân con thường toàn vẹn, ngời sáng màu vàng tía; tì kheo ni Tử Kim Quang đây là quyến thuộc của con, cũng đồng thời cùng phát tâm như vậy. Con quán sát sáu trần trong thế gian đều biến đổi hoại diệt, tự thể của chúng là không tịch. Con tu định diệt tận, nhờ đó mà thân tâm rỗng rang, có thể trải qua trăm ngàn kiếp chỉ như thời gian một cái khảy móng tay. Do quán chiếu các pháp rỗng không nên pháp trần tiêu diệt, từ đó mà con chứng quả A-la-hán. Đức Thế Tôn chứng nhận con tu hạnh đầu-đà bậc nhất. Tướng sinh diệt của pháp trần đã diệt thì pháp tánh nhiệm mầu hiển hiện, bao nhiêu lậu hoặc đều tiêu trừ. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì pháp trần là hơn hết.
Tôn giả A Na Luật từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Từ khi mới xuất gia, con thường ham ngủ, bị đức Thế Tôn quở trách là loài súc sinh. Nghe lời Thế Tôn quở, con khóc lóc tự trách, suốt bảy ngày đêm không ngủ, đến nỗi mù cả hai mắt. Đức Thế Tôn thương xót, chỉ dạy cho con pháp tu xoay cái thấy trở về nguồn tánh, chiếu soi cho đến khi thấy rõ được tự tánh vốn sáng suốt thì chứng nhập được kim cang tam muội. Con không dùng mắt mà có thể thấy khắp mười phương thế giới, rỗng suốt tinh tường như xem trái cây trong lòng bàn tay; được đức Thế Tôn ấn chứng, con thành tựu quả vị A-la-hán. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì xoay cái thấy của nhãn căn trở về nguồn tánh thanh tịnh sáng suốt bản nhiên là pháp tu ưu việt nhất.
Tôn giả Chu Lị Bàn Đặc Già(138) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con vốn kém trí nhớ, không có khả năng học rộng nghe nhiều. Buổi đầu gặp đức Thế Tôn, được nghe pháp xuất gia, con cố nhớ một câu kệ của Thế Tôn, mà một trăm ngày cũng không nhớ nổi, hễ nhớ được mấy chữ trước thì quên mấy chữ sau, hễ nhớ được mấy chữ sau thì lại quên mấy chữ trước. Thế Tôn thương xót con là kẻ ngu muội, dạy con an cư nơi vắng vẻ, tu tập phép điều hòa hơi thở ra vào. Lúc bấy giờ, vâng lời Thế Tôn dạy, con quán chiếu từng hơi thở, từ thô trọng đến vi tế; trước chỉ điều hòa hơi thở ra vào, sau soi thấu tận cùng chỗ sinh diệt của nó: bắt đầu hít vào gọi là “sinh”, hơi đầy trong phổi gọi là “trụ”, bắt đầu thở ra gọi là “dị”, thở ra hết hơi gọi là “diệt”; bốn tướng ấy trôi chảy chuyển biến từng sát na. Thực tập như thế ít lâu, tâm con bỗng nhiên rỗng sáng, được đại vô ngại; cho đến khi các lậu hoặc dứt hết, con chứng thành quả vị A-la-hán, trước pháp tòa của Thế Tôn, được ấn chứng thành hàng Vô-học. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì tập trung tâm ý quay về quán chiếu hơi thở ra vào, thấy rõ các tướng sinh trụ dị diệt của hơi thở và tâm niệm đều rỗng không thanh tịnh, đó là pháp tu thù thắng nhất.
Tôn giả Kiều Phạm Bát Đề(139) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con mang khẩu nghiệp, bởi trong kiếp quá khứ con đã khinh mạn giễu cợt một vị sa môn, nên nhiều đời mang tật nhai lại như trâu. Đức Thế Tôn chỉ dạy cho con pháp môn “tâm địa một vị thanh tịnh”. Nhờ tu tập pháp môn này mà con diệt trừ được tâm phân biệt, chứng nhập tam-ma-địa. Con quán chiếu cái tánh biết vị không phải do tự thể thiệt căn sinh ra, cũng không phải từ ngoại vật mà có. Liền đó con vượt khỏi mọi lậu hoặc của thế gian, trong thì giải thoát thân tâm, ngoài thì bặt tăm thế giới; vĩnh viễn xa lìa ba cõi, như chim sổ lồng, rửa sạch cấu nhiễm, diệt hết vọng trần, được pháp nhãn thanh tịnh, chứng thành quả vị A-la-hán. Đức Thế Tôn ấn chứng cho con vào hàng Vô-học. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì trả cái vị về cho sự phân biệt của thiệt căn, xoay cái biết về bản tánh nhất vị thanh tịnh, đó là pháp tu tập hữu hiệu nhất.
Tôn giả Tất Lăng Già Bà Ta(140) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con khi mới phát tâm theo đức Thế Tôn xuất gia học đạo, thường nghe đức Thế Tôn dạy rằng: Mọi sự việc ở thế gian đều là khổ, chẳng có gì vui. Trong khi đi khất thực ở trong thành, con vẫn chú tâm tư duy quán chiếu pháp môn Phật dạy, không ngờ chân con đạp phải cái gai độc giữa đường, toàn thân đau nhức. Lúc đó con quán niệm: Trong thân có cái biết để biết đau nhức. Tuy trong thân căn có cái biết để biết đau nhức, nhưng đó chỉ là cái biết hư vọng, cho nên mới có đau nhức; còn cái biết bản nhiên nơi chân tâm thanh tịnh thì không có cái đau nhức, cũng không có cái biết đau nhức. Con lại suy nghĩ: Trong một thân thể này lẽ đâu lại có đến hai tánh biết? Con nhiếp niệm không bao lâu, bỗng dưng thân tâm rỗng không thanh tịnh; hai mươi mốt ngày sau thì lậu hoặc tiêu trừ hết sạch, chứng thành quả vị A-la-hán; đức Thế Tôn ấn chứng cho con là bậc Vô-học. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì đừng quan trọng thân căn, mà hãy giữ tinh thuần giác tánh, đó là pháp tu nhân ưu thắng nhất.
Tôn giả Tu Bồ Đề từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Từ nhiều kiếp đến nay, tâm con luôn được vô ngại. Con tự nhớ những kiếp thọ sinh của con nhiều như cát sông Hằng. Lần thọ sinh này, từ lúc mới đầu ở trong thai mẹ, con đã biết về tánh không tịch của thân tâm. Cho đến khi ra khỏi thai mẹ, con lại biết cả vạn pháp trong mười phương thế giới cũng là không tịch. Sau khi xuất gia theo đức Thế Tôn, con lại tuyên thuyết pháp ấy, khiến cho mọi người cùng chứng nhập tánh không tịch ấy. Nhờ đức Thế Tôn hiển phát tánh giác là chân không, nên con tỏ ngộ được diệu tánh chân không tròn đầy sáng suốt, thành tựu quả vị A-la-hán, liền chứng nhập biển không sáng ngời vi diệu của Như Lai, tri kiến đồng như Phật. Đức Thế Tôn ấn chứng cho con thành bậc Vô-học, lại là người chứng ngộ tánh không cao hơn hết trong hàng Nhị-thừa, vì tuy con chứng ngộ tánh không mà không trụ nơi cái không. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì quán chiếu tất cả các tướng ngã, pháp đều là không tướng; cả không tướng và đối tượng của không tướng cũng đều không; xoay các pháp sinh diệt hư vọng trở về đệ nhất nghĩa không, có mà thật chẳng có gì, đó là pháp chuyển hóa ý căn hữu hiệu nhất.
Tôn giả Xá Lợi Phất từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con từ vô lượng kiếp đến nay, nhãn thức thường thanh tịnh. Số đời con thọ sinh nhiều như cát sông Hằng; các pháp biến hóa trong thế gian và xuất thế gian, hễ thấy là biết rõ ràng thông suốt, không hề bị chướng ngại. Trước đây, một hôm con đang đi trên đường thì gặp ba anh em thầy Ca Diếp(141), dụng ý theo con để thuyết pháp. Con được nghe giáo pháp “nhân duyên” mà tỏ ngộ được cái tâm rộng lớn bao la không bờ bến. Con theo đức Thế Tôn xuất gia, chỗ thấy biết sáng tỏ tròn đầy, được đại vô úy, chứng quả A-la-hán, làm trưởng tử của Phật, sinh ra từ miệng Phật, hóa sinh từ pháp Phật. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì do nhãn thức mà chuyển thành trí tuệ vô ngại, trí tuệ phát sáng cùng cực, thấu suốt đến tri kiến Phật; đó là pháp tu thù thắng nhất.
Đức Bồ Tát Phổ Hiền(142) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con đã từng là pháp vương tử của chư Phật nhiều như cát sông Hằng. Chư Phật trong mười phương đều dạy các vị đệ tử có căn cơ Bồ-tát hãy tu tập hạnh Phổ Hiền; đó là lấy tên con mà đặt tên cho hạnh tu vậy. Bạch đức Thế Tôn! Con dùng nhĩ thức phân biệt tất cả sự thấy biết của chúng sinh. Nếu ở một phương nào khác, dù cách xa đến hằng sa thế giới, có người phát tâm tu hạnh Phổ Hiền, thì ngay lúc ấy, con cưỡi voi sáu ngà, phân thân làm trăm, ngàn, đều đến chỗ người ấy; dù người ấy có bị nghiệp chướng sâu dầy mà không thấy được con, con cũng âm thầm sờ đầu, an ủi ủng hộ, khiến cho người ấy được thành tựu hạnh nguyện. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, thì theo như con vừa bạch lên đức Thế Tôn, nguyên chỗ tu nhân lúc ban đầu, con chỉ dùng ánh sáng trí tuệ của nhĩ thức để nhận biết cơ cảm của chúng sinh một cách tự tại; theo con, đó là pháp tu hiệu quả nhất.
Tôn giả Tôn Đà La Nan Đà(143) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Khi con mới theo đức Thế Tôn xuất gia học đạo, tuy giữ giới luật đầy đủ, nhưng trong lúc thiền định, tâm con thường bị tán loạn, chưa đạt được vô lậu. Đức Thế Tôn dạy con và thầy Câu Hi La(144), hãy chú mục nhìn nơi chóp lỗ mũi. Con bắt đầu thực tập pháp ấy, sau hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở ra vào lỗ mũi, hình trạng như khói; tị thức an định, ánh sáng trí tuệ phát sinh, tròn đầy thấu suốt, khắp thế giới biến thành trống không thanh tịnh, trong suốt như ngọc lưu li. Tướng khói dần dần cũng tiêu mất, hơi thở hóa thành trắng. Đến khi tâm khai ngộ, các lậu dứt hết, hơi thở ra vào hóa thành ánh sáng, soi khắp mười phương thế giới, chứng A-la-hán, đức Thế Tôn thọ kí cho con, trong tương lai sẽ thành Phật. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, theo con thì quán hơi thở để nhiếp tâm, cho đến khi cái hơi thở tiêu mất tướng thô trọng mà hoàn toàn trở thành bạch tịnh. Giữ như thế càng lâu thì định lực càng sâu, hơi thở bạch tịnh cũng tiêu mất mà hóa thành ánh sáng trí tuệ, chiếu soi mười phương, diệt trừ hết lậu hoặc. Như vậy, quán hơi thở nơi tị căn là pháp tu thù thắng nhất.
Tôn giả Phú Lâu Na từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con từ nhiều kiếp đến nay, biện tài vô ngại, tuyên dương các pháp khổ, không, thấu suốt thật tướng của vạn pháp. Như thế cho đến các pháp môn bí mật thâm áo của hằng sa các đức Như Lai, ở trong đại chúng, con đều đem nghĩa lí vi diệu mà chỉ bày một cách tự tại, không bị chướng ngại. Đức Thế Tôn biết con có đại biện tài, bèn đem pháp luân âm thanh dạy con tuyên dương. Con trợ lực đức Thế Tôn trong việc hoằng dương chánh pháp; và do sức thuyết pháp vô úy mà con chứng quả A-la-hán, đức Thế Tôn ấn chứng cho con là người thuyết pháp đứng đầu tăng đoàn. Nay đức Thế Tôn hỏi nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, theo con thì dùng thiệt thức phô diễn pháp âm để hàng phục mọi ma oán, tiêu trừ mọi lậu hoặc, đó là pháp tu ưu thắng nhất.
Tôn giả Ưu Ba Li(145) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Chính con được theo đức Thế Tôn vượt thành xuất gia;(146) chính mắt con được thấy đức Thế Tôn tinh cần tu khổ hạnh suốt sáu năm; lại chứng kiến đức Thế Tôn hàng phục chúng ma, chế ngự các ngoại đạo, giải thoát ra khỏi mọi lậu hoặc tham dục của thế gian. Con vâng theo giới pháp do đức Thế Tôn trao truyền, cho đến ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh(147), các tánh nghiệp và già nghiệp(148) thảy đều thanh tịnh, thân tâm vắng lặng, chứng quả A-la-hán. Con nắm giữ cương kỉ trong tăng chúng, được đức Thế Tôn ấn chứng là người trì giới tu thân bậc nhất. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, con đã dùng giới luật để chế phục thân thức; thân thức không khởi hiện cho nên thân được tự tại đối với xúc trần. Con lại dùng giới luật để chế phục tâm, mà tâm được thông suốt; tiến tới chỗ không còn có giới để chấp trì, cũng không còn có tâm để giữ giới, thân và tâm đều viên thông tự tại; không có ý niệm giữ giới mà không có giới nào bị hủy phạm, đó là pháp tu thù thắng nhất.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Lúc trước, trên đường đi khất thực, con được gặp ba anh em thầy Ca Diếp(149), giảng nói cho con nghe nghĩa lí giáo pháp nhân duyên sâu xa của đức Thế Tôn, tâm liền tỏ ngộ, phát tâm xuất gia, được đức Thế Tôn ban cho áo ca sa mặc trên mình, râu tóc tự rụng, phát sáng thần thông, chứng quả A-la-hán, du hành khắp mười phương không bị chướng ngại, được đại chúng xưng là thần thông bậc nhất. Không phải chỉ riêng đức Thế Tôn, mà cả chư Phật mười phương đều khen ngợi thần lực của con là viên minh thanh tịnh, tự tại vô úy. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì xoay ý thức vọng tưởng phân biệt trở về tánh trong lặng thường trú, tâm sáng suốt hiển bày, như lắng nước đục, để lâu thì thành trong sáng; đó là pháp tu thù thắng nhất.
Tôn giả Ô Sô Sắt Ma(150) chắp tay đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con thường nhớ trước kia, trong một kiếp xa xôi, tánh con quá nhiều tham dục. Lúc ấy có đức Phật ra đời, hiệu là Không Vương(151), dạy rằng: người đa dâm là đống lửa mạnh; nhân đó Ngài dạy con quán chiếu các hơi nóng lạnh ở tay chân và khắp thân mình. Con nhờ quán chiếu như thế mà ánh sáng linh diệu lắng đọng ở bên trong, tâm đa dâm được chuyển hóa thành lửa trí tuệ. Từ đó, chư Phật đều gọi con là Hỏa Đầu. Con do sức hỏa quang tam muội mà chứng quả A-la-hán; tâm liền phát nguyện: Khi nào có đức Phật thành đạo, con sẽ hiện làm thân lực sĩ để hàng phục tà ma, ủng hộ Phật pháp. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, theo chỗ tu chứng của con thì quán sát kĩ càng các hơi nóng nơi thân tâm đều lưu thông vô ngại; từ đó mà các lậu đều tiêu trừ, lửa trí tuệ phát sinh, được vô thượng giác, đó là pháp tu ưu thắng nhất.
Đức Bồ Tát Trì Địa từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con nhớ kiếp xưa, gặp thời đức Phật Phổ Quang(152) xuất hiện ở đời, con là một tì kheo, thường để ý xem xét nơi các bến đò, các trục lộ giao thông, nếu có chỗ đất mấp mô, nhỏ hẹp, gây khó khăn nguy hiểm cho bộ hành đi lại, phương hại đến ngựa, xe, con phát tâm làm cầu cống, hoặc sửa đường, hay gánh đất cát đổ đầy chỗ trũng cho mặt đất bằng phẳng; hoặc ở nơi chợ búa, có người sức yếu cần mang giúp đồ vật, con liền mang giúp người đó đem đến tận nơi, để đồ vật xuống là đi ngay, không lấy tiền công. Con đã làm việc siêng năng cực nhọc như thế trải qua vô lượng đức Phật ra đời, đến thời kì đức Phật Tì Xá Phù(153) tại thế, ở thế gian nhiều nơi bị đói kém, con đã giúp cõng người, không kể đi gần xa, chỉ lấy một đồng tiền; hoặc có xe bò bị lún xuống sình lầy, con phụ đẩy xe lên khỏi chỗ lầy, khiến cho người và vật không còn lo khổ. Vị quốc vương đương thời, một hôm thỉnh Phật Tì Xá Phù vào vương cung cúng dường trai phạn, con liền sửa sang đường đất bằng phẳng đợi Phật đi qua. Đức Phật xoa đầu con dạy rằng: Hãy bình tâm địa thì tất cả đất đai trên thế giới đều bình! Con nghe lời dạy ấy, tâm liền tỏ ngộ. Con quán thấy vi trần nơi thân thể mình cùng tất cả vi trần tạo thành thế giới đều không có gì sai khác. Dù ở trong thân hay thế giới bên ngoài, tự tánh vi trần không cọ xát nhau; cho đến các thứ đao binh cũng không có chỗ va chạm. Con ở nơi pháp tánh mà ngộ vô sinh nhẫn, chứng quả A-la-hán; rồi lại hướng tâm về đại thừa, nay đang ở trong hàng Bồ-tát; được nghe các đức Như Lai tuyên dạy “tri kiến Phật như diệu liên hoa”, con thể hội đầu tiên, trở thành thượng thủ. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên cùng phương tiện chứng ngộ viên thông, thì con quán chiếu vi trần nơi thân căn và thế giới đều bình đẳng không sai khác, vốn từ như lai tạng mà tùy duyên phát hiện. Trần tướng tiêu vong thì trí tuệ tròn sáng, thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ đề; đó là pháp tu tối thượng.
Đức Bồ Tát Nguyệt Quang(154) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con nhớ hằng sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Thủy Thiên. Ngài dạy các vị Bồ-tát tu tập phép quán nước để vào chánh định; tức là quán chiếu trong tự thân, tánh nước không chướng ngại. Quán chiếu từ nước mắt, nước mũi, nước miếng, cho đến tinh, huyết, nước đại tiểu tiện, xoay vần trong thân, đều đồng một tánh nước. Con thấy nước trong thân với nước trong các biển nước thơm ở các cõi Phật ngoài thế giới, đều bình đẳng không sai khác. Bấy giờ con vừa thành tựu phép quán nước này, chỉ thấy nước mà chưa thấy được “không thân”. Lúc đó con là một tì kheo, đang ngồi thiền trong phòng, người đệ tử của con dòm qua cửa sổ nhìn vào phòng, chỉ thấy trong phòng đầy nước, không có gì khác. Chú tiểu ấy còn nhỏ dại, không biết gì, bèn lấy một miếng ngói ném vào trong nước, nghe “tũm” một tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi. Sau đó con xuất định thì cảm thấy đau nhức nơi tim, giống như thầy Xá Lợi Phất bị ác quỉ đập đầu(155) vậy. Con tự suy nghĩ: “Mình đã chứng quả A-la-hán, từ lâu đã không còn duyên bệnh, tại sao hôm nay bỗng dưng tim bị đau, hay là quả vị đã bị thối thất rồi chăng?” Vừa khi ấy, chú đệ tử của con trở lại, thuật cho con nghe sự việc vừa xảy ra. Con bảo chú ấy: “Nếu lại thấy nước như lúc nãy, con hãy mở cửa phòng, vào trong nước lấy miếng ngói kia ra.” Chú đệ tử vâng lời. Con lại nhập định, chú ấy lại thấy trong phòng đầy nước, có miếng ngói nằm trong đó rõ ràng. Chú ấy liền mở cửa phòng, vào lấy miếng ngói trong nước ra. Sau đó con xuất định, thì thân thể không còn đau đớn nữa. Trải vô lượng kiếp sau đó con đã được gặp vô lượng chư Phật, cho đến thời đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai, con mới chứng được “không thân”, cùng với các biển nước thơm trong khắp mười phương thế giới đồng một tánh chân không, không hai không khác. Ngày nay con ở trong pháp hội của đức Thế Tôn, được tên Đồng Chân, và được dự vào hội chúng Bồ-tát. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, con do quán chiếu tánh nước một vị thông suốt mà chứng vô sinh nhẫn. Nếu muốn thành tựu viên mãn quả vị Vô thượng Bồ đề, thì pháp tu thủy quán ấy có hiệu quả bậc nhất.
Đức Bồ Tát Lưu Li Quang từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con nhớ hằng sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Thanh. Ngài khai thị cho hàng Bồ-tát về bản giác diệu minh, dạy quán chiếu thế giới và chúng sinh đều do sức lay động của gió vọng duyên chuyển biến mà hình thành. Lúc bấy giờ con quán chiếu sự an lập của không gian; quán chiếu sự trôi chảy của thời gian; quán chiếu cái động cái tĩnh của thân; quán chiếu mỗi động niệm của tâm; tất cả những chuyển động đều đồng một thể, không hai, không khác. Con thấy rõ tánh chất của những thứ chuyển động này là không từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu. Tất cả các loài chúng sinh nhiều như vi trần trong khắp mười phương đều đồng một tánh hư vọng. Nếu nhìn hẹp hơn đối với chúng sinh của một thế giới trong ba ngàn đại thiên thế giới, thì cũng giống như hàng trăm con muỗi bị nhốt trong một cái bình nhỏ, cứ ở trong cái khoảng chật hẹp ấy mà kêu vo ve râm rỉ với nhau. Con gặp đức Phật Vô Lượng Thanh không bao lâu thì chứng được vô sinh nhẫn. Lúc đó tâm đã khai ngộ, con thấy cõi nước của đức Phật Bất Động ở phương Đông, và trở thành pháp vương tử trong chúng hội của Ngài, thừa sự chư Phật khắp mười phương, thân tâm rỗng sáng, thấu suốt không ngăn ngại. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, do con quán sát phong đại không có chỗ nương, đến không từ đâu, đi không chỗ tới, mà tỏ ngộ tâm bồ đề, vào tam-ma-địa, hợp với tâm ấn vi diệu của chư Phật mười phương trao truyền; đó là pháp tu tối thắng.
Đức Bồ Tát Hư Không Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Thuở xưa con với đức Thế Tôn cùng thừa sự đức Phật Định Quang(156). Lúc bấy giờ con chứng được “thân vô biên”, tay cầm bốn viên bảo châu thật lớn, soi sáng cõi Phật nhiều như vi trần trong khắp mười phương, đều hóa thành hư không; lại nơi tự tâm hiện ra trí “đại viên cảnh”, trong đó phóng ra mười thứ ánh sáng vi diệu quí báu, chiếu khắp cùng tột hư không mười phương. Khắp các cõi Phật đều nhập vào gương trí đại viên, hòa nhập với thân con. Thân con đồng như hư không, không chướng ngại lẫn nhau; cho nên thân này có thể đi vào vô lượng quốc độ để rộng làm Phật sự vô cùng tự tại. Con có được thần lực như thế là do con quán chiếu kĩ càng, thấy rõ bốn đại không có tự thể, do vọng tưởng mà có sinh diệt, tứ đại đồng như hư không, không sai khác; cõi Phật do bốn đại làm thành, cho nên vốn cũng đồng như hư không. Do thấy rõ cái tánh “đồng” này mà chứng vô sinh nhẫn. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, do con quán chiếu hư không vô biên mà vào tam-ma-địa, từ đó mà có thần lực nhiệm mầu sáng suốt tròn đầy; đó là pháp tu thù thắng nhất.
Đức Bồ Tát Di Lặc(157) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con nhớ lại vô số kiếp trong đời quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Con được theo Ngài xuất gia, nhưng tâm còn nặng về danh vọng thế gian, thích giao du thân cận với các nhà quyền quí. Lúc bấy giờ đức Phật dạy con tu tập định “duy tâm thức”, được vào tam-ma-địa. Trải vô lượng kiếp đến nay, con dùng pháp tam muội ấy phụng sự hằng sa chư Phật, cái tâm cầu danh vọng thế gian tiêu diệt mất hết. Cho đến thời đức Phật Nhiên Đăng ra đời, con mới thành tựu được pháp tam muội “thức tâm diệu viên vô thượng”. Bấy giờ con quán thấy quốc độ của chư Phật trong tận cùng cõi hư không, dù sạch, dù dơ, dù có, dù không, đều do tâm thức con biến hóa chuyển hiện ra. Bạch đức Thế Tôn! Do con tỏ ngộ chư quốc độ dơ sạch đều do tâm thức biến hiện, mà nơi thức tánh lại lưu xuất vô lượng các đức Như Lai; và ngày nay con được đức Thế Tôn thọ kí, sẽ kế tiếp thành Phật nơi cõi này. Nay đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, con do quán chiếu kĩ càng mười phương chỉ có thức; thức tâm tròn sáng, xa lìa tánh “biến kế chấp” và tánh “y tha khởi”, chứng nhập tánh “viên thành thật”, được vô sinh nhẫn; đó là pháp tu tối thượng.
Đức Bồ Tát Đại Thế Chí(158) cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng tu một pháp môn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Con nhớ hằng sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Quang(159). Thời đó có 12 đức Phật kế tục nhau ra đời trong một kiếp; đức Phật sau cùng hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang(160), đã dạy con tu tập pháp môn “niệm Phật tam muội”. Ví như có một người chuyên nhớ, và một người chuyên quên, thì hai người ấy, dù gặp nhau cũng như không gặp nhau, dù thấy nhau cũng như không thấy nhau. Nếu cả hai người đều nhớ đến nhau, nhớ mãi thì cái nhớ càng khắc sâu, cho đến đời này sang đời khác, như bóng theo hình, không bao giờ xa cách. Chư Phật mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con, nếu con cứ trốn tránh thì mẹ nhớ cũng chẳng được gì! Nếu con nhớ mẹ đồng thời như mẹ nhớ con, thì kiếp kiếp mẹ con không bao giờ xa cách nhau. Nếu tâm chúng sinh luôn luôn nghĩ nhớ Phật, thì hiện tại hay tương lai, nhất định thấy Phật. Thấy Phật rồi thì không bao giờ xa cách Phật nữa, không cần phải nhờ phương tiện gì mà tâm tự khai ngộ; như người ướp mùi thơm thì thân thể có mùi thơm, như thế gọi là “hương quang trang nghiêm”. Bản thân con đã dùng tâm niệm Phật mà được vô sinh nhẫn. Nay ở thế giới Ta-bà này, con nguyện tiếp dẫn tất cả những người niệm Phật về cõi Tịnh-độ; đức Thế Tôn hỏi về nhân duyên và phương tiện chứng ngộ viên thông, con không chọn lựa riêng biệt căn nào, mà thu nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm thường xuyên nối tiếp mà vào tam-ma-địa; đó là cách tốt nhất.


Chú thích:
(124) Câu sinh vô minh: Loại vô minh căn bản vốn có từ vô thỉ, đeo đẳng theo chúng sinh không rời; khi một sinh mạng ra đời, nó liền sinh ra theo cùng lúc với sinh mạng đó.
(125) Giao-lô: tức là cây lau, nhưng đây là loại lau đặc biệt, khác với lau thường. Loại lau này, lúc mới mọc lên liền có hai cây cùng mọc, gốc rễ của hai cây dính liền nhau, thân của hai cây thì nương dựa nhau; do đó mà đứng vững được. Nếu chỉ một cây đơn độc thì ngã rạp trên mặt đất, không đứng lên được.
(126) Sáu gút (lục kết): Theo giải thích của pháp sư Viên Anh (trong tác phẩm Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa), sáu cái gút này tức là năm ấm, theo thứ lớp từ nơi sâu kín cho đến chỗ thô cạn, gồm có: 1) Thức ấm, tức thức thứ tám a-lại-da; 2) Hành ấm, tức thức thứ bảy mạt-na; 3) Tưởng ấm, tức thức thứ sáu, ý thức; 4) Thọ ấm, tức năm thức trước (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân); 5) Sắc ấm, gồm hai phần, trong là căn thân và ngoài là khí thế giới. Bốn ấm đầu (thức, hành, tưởng, thọ), mỗi ấm là một gút; riêng sắc ấm, vì gồm hai phần nên có hai gút; cộng lại là sáu gút (lục kết).
(127) Cái một: Cũng theo pháp sư Viên Anh trong tác phẩm vừa dẫn trên, nói “sáu gút” là nói về tướng của gút, nhưng nói về bản nguyên của gút thì chỉ có “một”.
(128) Thức đà-na: tức là thức a-đà-na, dịch ra Hán ngữ là chấp trì, có công năng gìn giữ mọi chủng tử nhiễm, tịnh, chủng tử của căn thân và khí thế giới; có thể nói, a-đà-na là một tên khác của thức a-lại-da, dịch ra Hán ngữ là tàng thức.
(129) Vô sinh nhẫn. (Xem chú thích số 41 ở trước.)
(130) Mười tám khu vực. (Xem chú thích số 86 ở trước.)
(131) Ưu Ba Ni Sa Đà: Sự tích không thấy chép rõ ràng, chỉ biết sơ lược rằng, tôn giả thuộc hạng người lợi căn, được gặp Phật rất sớm; nhưng tánh nhiều tham dục, cho nên đức Phật đã đặc biệt dạy cho pháp tu “bất tịnh quán”, nhờ đó mà tôn giả chứng A-la-hán.
(132) Ni-sa-đà: dịch là sắc tánh không, có nghĩa, tự tánh của sắc trần là không.
(133) Hương Nghiêm: Danh hiệu này có nghĩa là do quán chiếu hương trần mà thâm nhập được tự tánh của hương chân thật, và dùng hương chân thật này mà trang nghiêm pháp thân.
(134) Dược Vương và Dược Thượng: là tên hai vị Bồ-tát lớn thuộc hàng Đẳng-giác. Vào thời quá khứ xa xưa, lúc đức Phật Lưu Li Quang ra đời hóa độ chúng sinh, có vị trưởng giả tên Tinh Tú Quang, nghe pháp tu hành, tâm vô cùng hoan hỉ. Ông thường dùng các loại thuốc tốt nhất để trị bệnh cho chúng tăng, và phát nguyện rằng, trong các đời sau, ông sẽ luôn luôn trị cả thân bệnh lẫn tâm bệnh cho chúng sinh. Lời nguyện của ông được mọi người tán thán, xưng tặng ông danh hiệu Dược Vương. Người em trai của ông tên Điện Quang Minh cũng thường đem những vị thuốc bổ thượng hạng cúng dường Phật và chúng tăng, nên được mọi người xưng tặng danh hiệu Dược Thượng. Từ đó, trải bao nhiêu kiếp tu hành, họ đều là anh em với nhau, và đều chuyên trị về thuốc men cứu đời.
(135) Bạt Đà Bà La: là tên của một vị Bồ-tát lớn thuộc hàng Đẳng-giác. “Bạt-đà-bà-la” được dịch là “hiền thủ”, có nghĩa là lấy sự hiền đức để giữ mình; cũng dịch là “hiền hộ”, có nghĩa là đem hiền đức để cứu hộ chúng sinh; tự lợi và lợi tha đều gồm đủ trong hai nghĩa đó. Kinh Pháp Hoa ghi rằng: Vào thời kì tượng pháp của đức Phật Oai Âm Vương đầu tiên, Bồ Tát Bạt Đà Bà La và Bồ Tát Thường Bất Khinh là hai người cùng thời. Lúc đầu thì Bạt Đà Bà La thường khinh mạn, phỉ báng Bồ Tát Thường Bất Khinh; về sau, thấy được thần lực của Bồ Tát Thường Bất Khinh, Bạt Đà Bà La rất hối hận, tự trách mình, bèn xin theo phụng sự Bồ Tát; cho nên được nghe giáo pháp, và phát tâm xuất gia tu hành. Bồ Tát Thường Bất Khinh thuở đó, bây giờ thành Phật, tức đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni; còn Bạt Đà Bà La thì bây giờ là một vị Bồ-tát Đẳng-giác, đang có mặt trong pháp hội Lăng Nghiêm của đức Phật Thích Ca.
(136) Phật Oai Âm Vương: là đức Phật đầu tiên của kiếp Quá-khứ (tức Quá-khứ Trang-nghiêm kiếp). Theo Kinh Pháp Hoa (phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát) ghi chép, vào thời quá khứ, hơn vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kì kiếp về trước, có quốc độ tên Đại-thành, trong đó có đức Phật hiệu là Oai Âm Vương, ra đời thuyết pháp hóa độ cho các loài Trời, Người và A-tu-la. Đức Phật trụ thế bốn mươi vạn ức na-do-tha hằng-hà-sa kiếp. Sau khi đức Phật diệt độ, thời kì chánh pháp trải dài vô số kiếp; thời kì tượng pháp trải dài vô lượng vô số kiếp. Khi thời kì tượng pháp này chấm dứt, trong quốc độ ấy lại có đức Phật khác ra đời, cũng hiệu là Oai Âm Vương. Cứ như thế, trước sau có đến hai vạn ức đức Phật nối tiếp nhau ra đời, cùng có chung một danh hiệu là Oai Âm Vương. Phật Oai Âm Vương nói đến ở đây là chỉ cho đức Phật đầu tiên.
(137) Tì kheo ni Tử Kim Quang: tức bà Diệu Hiền, phu nhân của trưởng giả Đại Ca Diếp, khi hai người chưa xuất gia tu hành theo Phật.
(138) Chu Lị Bàn Đặc Già: cũng gọi là Chu Lị Bàn Đà Già, hoặc gọi tắt là Chu Lị Bàn Đặc, hay Bàn Đà, dịch ý là Tiểu Lộ. Tôn giả người ở thành Xá-vệ, có người anh ruột là Ma Ha Bàn Đặc (dịch ý là Đại Lộ), tánh rất thông minh, thuộc hạng người lợi căn, sớm bỏ tục xuất gia, không bao lâu thì chứng quả A-la-hán. Còn tôn giả thì ngược lại, bẩm tánh vô cùng ngu độn. Sau được huynh trưởng cho theo xuất gia để dạy dỗ, nhưng học trước quên sau, nhớ sau quên trước, không học tập gì được cả; bị mọi người gọi tên là Ngu Lộ. Đức Thế Tôn biết được, rất thương, nên gọi lên đích thân chỉ dạy. Nhờ vậy, một thời gian sau tôn giả gột sạch trần cấu vô minh, tâm tánh bừng sáng, chứng quả A-la-hán.
(139) Kiều Phạm Bát Đề: cũng gọi là Kiều Phạm Ba Đề, dịch ý ra Hán ngữ là Ngưu Tướng –nghĩa là có tướng trâu. Tôn giả là một trong số đệ tử thánh tăng của Phật, nhưng trong buổi đầu xuất gia thì do tôn giả Xá Lợi Phất chăm sóc dạy dỗ. Nhân trong đời quá khứ, ngài có ngắt một gié lúa đầy hạt vất xuống đất; lại một lần khác, ngài trông thấy một vị tì kheo A-la-hán già, đang ăn mà vì không có răng nên cứ nhai trệu trạo, ngài bèn cười chế giễu rằng: Ông ăn giống như trâu ăn cỏ! Do tội phí phạm lúa và phạm khẩu nghiệp giễu cợt vị A-la-hán ấy mà trải suốt 500 đời phải sinh làm thân trâu. Đến kiếp này, tuy ngài sinh trở lại làm người, nhưng tập quán loài trâu vẫn còn, dấu chân như trâu, giọng nói như trâu, nhất là miệng lúc nào cũng nhai lại như trâu; bởi vậy, ngài bị mọi người đàm tiếu, gọi là “Ngưu Tướng tì kheo”. Đức Phật thương xót, một phần không muốn ngài thường gặp người đời phải bị họ chê bai làm nhục, một phần không muốn người đời mang tội khinh mạn thánh tăng để phải đọa ác đạo, đức Phật đã cho ngài lên ở trong một khu vườn riêng biệt trên cung trời Đao-lợi để chuyên tu thiền định. Sau khi Phật diệt độ, tôn giả Đại Ca Diếp, khi tổ chức pháp hội kết tập kinh điển lần thứ nhất tại thành Vương-xá, có sai thị giả lên cung trời Đao-lợi thỉnh ngài về để dự hội kết tập. Lúc bấy giờ ngài mới biết tin đức Thế Tôn và tôn giả Xá Lợi Phất đã nhập diệt. Ngài than tiếc, rồi từ chối không chịu trở về; liền đó, ngài tự phóng lửa tam muội đốt nhục thân mà nhập diệt. Vị thị giả bèn thỉnh hết xá lợi của ngài đem về trình lên tôn giả Đại Ca Diếp.
(140) Tất Lăng Già Bà Ta: gọi tắt là Tất Lăng Già, dịch ý là “dư tập”, nghĩa là tập khí ngày xưa còn sót lại. Tôn giả vốn thuộc dòng Bà-la-môn, người ở thành Xá-vệ, ban đầu học được thuật ẩn thân (tàng hình), rất nổi tiếng; về sau gặp Phật thì thuật ẩn thân biến mất, bèn xin theo Phật xuất gia tu hành. Tôn giả vốn thuộc dòng Bà-la-môn từ 500 đời trước, tánh tình rất kiêu mạn, cho nên đời này, tuy đã thành một vị tì kheo đệ tử của Phật, mà cái tập khí kiêu mạn khi xưa vẫn còn, cho nên thường nói năng kênh kiệu, không kể người tôn quí. Tôn giả thường lội qua sông Hằng đi khất thực. Cứ mỗi lần qua sông thì gọi vị thần sông với giọng hách dịch: “Này tiểu tì kia, ngăn nước lại cho ta qua sông!” Vị thần sông phải làm theo lời tôn giả, nhưng trong lòng thì giận lắm, bèn đến tinh xá, đem chuyện ấy bẩm cáo lên Phật. Phật bảo tôn giả phải xin lỗi vị thần sông. Tôn giả bèn chắp tay hướng về vị thần, nói: “Tiểu tì đừng giận!” Mọi người đứng chung quanh cười ồ lên! Phật dạy đại chúng: Thật sự thì thầy Tất Lăng Già không có tâm kiêu mạn; nhân vì vị thần sông Hằng này trong kiếp quá khứ đã từng là tì nữ của thầy ấy, bây giờ cái tập quán kia còn sót lại, khiến thầy ấy nói năng không từ tốn mà thôi.
(141) Ba anh em Ca Diếp: tức ba vị đạo sĩ anh em ruột, cùng thờ thần Lửa, đạo cao đức trọng, có thanh danh lớn, rất được mọi người kính nể. Ba vị đều mở đạo tràng riêng để dạy dỗ đồ chúng: Người anh cả ở thôn Ưu-lâu-tần-loa, nên có tên là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, lãnh đạo 500 đồ chúng; người em kế ở núi Già-da (tức núi Tượng-đầu), nên có tên là Già-da Ca Diếp, lãnh đạo 250 đồ chúng; và người em út ở bờ sông Nan-đề, nên có tên là Nan Đề Ca Diếp, lãnh đạo 250 đồ chúng. Cả ba anh em đã được Phật độ rất sớm (chỉ sau năm anh em đạo sĩ Kiều Trần Như và nhóm thanh niên Da Xá), đều chứng quả A-la-hán.
Ở đây nói tôn giả Xá Lợi Phất đã gặp ba anh em tôn giả Ca Diếp ở giữa đường, nhờ được nghe giáo pháp “nhân duyên” từ tôn giả Ca Diếp mà ngộ đạo; nhưng các chỗ khác thì nói, tôn giả Xá Lợi Phất đã gặp tôn giả Mã Thắng (A Thị Thuyết) đang đi khất thực trong thành Vương-xá. Vì kính cảm phong thái oai nghi của tôn giả mà ngài đi theo hỏi chuyện, được tôn giả nói cho nghe giáo pháp “nhân duyên” mà tâm trí bừng sáng; bèn theo lời chỉ bảo của tôn giả, ngài tìm đến đức Phật xin xuất gia học đạo.
(142) Bồ Tát Phổ Hiền: là tên vị Bồ-tát lớn thường xuất hiện chung với Bồ Tát Văn Thù trong các kinh điển đại thừa. Vì thân tướng cùng công đức của ngài thuần thiện, biến khắp, cho nên gọi là Phổ Hiền. Trong khi ngài Văn Thù được tôn xưng là vị Bồ-tát “đại trí” thì ngài Phổ Hiền được tôn xưng là vị Bồ-tát “đại hạnh”. TRÍ là để giác ngộ thành Phật; HẠNH là để giáo hóa độ sinh. Vì tâm đại bi, ngài nguyện luôn luôn dùng mọi phương tiện để tuyên dương Phật pháp, hóa hiện mọi thân tướng để cứu độ chúng sinh, ủng hộ tất cả những ai hành trì và hoằng dương Phật pháp. Trong Kinh Hoa Nghiêm có ghi mười điều nguyện lớn của ngài, như: Nguyện thường cung kính lễ bái chư Phật; nguyện thường khen ngợi công đức của chư Phật; v.v... Và ngài có nói: “Nếu có người tin tưởng sâu xa vào mười điều nguyện lớn này, rồi thọ trì đọc tụng, biên chép, giảng nói cho mọi người, người đó sẽ được vãng sinh về nước Cực-lạc...” Bởi vậy, tông Tịnh Độ tôn kính ngài, cũng như Bồ Tát Văn Thù, là vị Bồ-tát đã góp công đức vào việc xiển dương pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh-độ. Ngài cùng với đức Bồ Tát Văn Thù, là hai vị hầu cận hai bên đức Thế Tôn. Đức Văn Thù cưỡi sư tử, ở bên trái Phật; đức Phổ Hiền cưỡi voi, ở bên phải Phật; đó là “Hoa Nghiêm Tam Thánh” (ba vị thánh của pháp hội Hoa Nghiêm).
(143) Tôn Đà La Nan Đà: Tôn giả Nan Đà nguyên là một vị hoàng tử, con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề (em ruột của hoàng hậu Ma Da), tức là em cùng cha khác mẹ của thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi thái tử đi xuất gia thành Phật, hoàng tử Nan Đà được kế lập làm thái tử để nối ngôi vua. Hoàng tử có người vợ sắp cưới tên là Tôn Đà La (hoặc Tôn Đà Lị). Triều đình Ca-tì-la-vệ đã chọn ngày để cùng lúc cử hành vừa lễ đăng quang thái tử, vừa lễ thành hôn cho Nan Đà; nhưng buổi sáng hôm ấy, trong khi Nan Đà đang chuẩn bị sẵn sàng cho buổi lễ, thì đức Phật xuất hiện ở hoàng cung, ngay trước mặt Nan Đà, dùng cách khéo léo dẫn Nan Đà đi xuất gia. Trong chúng có nhiều vị cùng tên Nan Đà, nên ở đây gắn thêm tên Tôn Đà La ở trước để phân biệt với các vị khác.
(144) Câu Hi La: Tôn giả quê ở thành Vương-xá, nguyên là cậu ruột của tôn giả Xá Lợi Phật. Tôn giả vốn là người thông minh bác đạt, rất giỏi về nghị luận, đầy đủ biện tài. Khi chưa xuất gia theo Phật, ông đã từng châu du tham học bốn phương, bác thông kinh điển Phệ Đà; sau đó về ở Nam Thiên-trúc, quyết tâm chuyên cần học hỏi, thề rằng, nếu không trở thành bậc thầy đệ nhất thiên hạ thì không bao giờ cắt móng tay. Bởi vậy, ông đã để móng tay mọc quá dài, được mọi người gọi tên là Trường Trảo Phạm Chí. Sau khi biết cháu ông là Xá Lợi Phật đã xuất gia theo Phật, ông liền đến Trúc-lâm xin diện kiến đức Phật. Sau một hồi nghị luận, ông bị đức Phật điều phục, bèn xin xuất gia làm đệ tử đức Phật, chứng quả A-la-hán, thông đạt lí lẽ “năm uẩn đều không”, nên cũng được gọi tên là Ngộ Không.
(145) Ưu Ba Li: Tôn giả Ưu Ba Li nguyên thuộc giai cấp hạ tiện, được tuyển vào hoàng cung Ca-tì-la-vệ, chuyên giữ việc cắt tóc cho các vương tử. Năm thứ ba sau ngày thành đạo, đức Phật về thăm hoàng cung, hóa độ cho cả triều đình qui y Phật pháp; trong dịp này, bảy vị vương tử trong hoàng tộc Thích-ca đã theo Phật xuất gia. Thấy các vương tử đi xuất gia, Ưu Ba Li cũng nhờ tôn giả Xá Lợi Phất giúp đỡ, dẫn đi xin Phật cho xuất gia; chẳng bao lâu thì chứng quả A-la-hán. Tôn giả là người giữ gìn giới luật triệt để, lại có khả năng thông hiểu giới luật vượt trội đại chúng, nên được xưng tụng là người trì luật đứng đầu tăng đoàn.
(146) Ưu Ba Li theo Phật vượt thành xuất gia: Đây là một truyền thuyết khác nói về trường hợp đi xuất gia của tôn giả Ưu Ba Li. Truyền thuyết này nói rằng: Ưu Ba Li vốn là một viên quan hầu cận riêng biệt cho thái tử Tất Đạt Đa. Khi thái tử vượt thành xuất gia thì Ưu Ba Li bị kết tội và mất chức, liền theo thái tử đi xuất gia. Khi vua Tịnh Phạn biết được thái tử đã nhất định đi xuất gia, nhà vua đã phái nhóm năm vị đạo sĩ Kiều Trần Như cùng theo làm bạn tu chung với thái tử. Vì Ưu Ba Li tự ý theo thái tử xuất gia, không phải do vua sai phái, nên không được kể chung vào nhóm đạo sĩ Kiều Trần Như.
(147) Ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh: “Oai nghi” là tác phong nghiêm chỉnh, đứng đắn, từ tốn; những hoạt động thường ngày như đi, đứng, ngồi, nằm đều theo phép tắc, luôn luôn tỏ rõ là người có đầy đủ uy đức. “Tế hạnh” cũng tức là oai nghi. Trong các kinh luật thường nói chư vị tì kheo phải giữ gìn đến ba ngàn oai nghi và tám muôn tế hạnh. Con số “3.000” hay “80.000” này là có ý chỉ cho số nhiều, nhưng các nhà giải thích pháp số cũng đã đưa chúng vào thành những danh mục pháp số để giải thích hợp lí. Một vị tì kheo phải giữ 250 giới; oai nghi được thể hiện qua 4 loại hành động thường ngày là đi, đứng, ngồi, nằm –gọi là bốn oai nghi; mỗi một oai nghi này đều phải phù hợp với 250 giới, vậy là, 4 oai nghi ấy bây giờ thành ra (250 x 4 =) 1.000 oai nghi; và trong cả 3 thời quá khứ, hiện tại và vị lai, thời nào cũng phải giữ gìn đầy đủ 1.000 oai nghi như vậy, cộng lại tất cả là “3.000 oai nghi”. Lại đem áp dụng 3.000 oai nghi này cho 7 hành động của thân và khẩu (sát, đạo, dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ), thành ra có cả thảy (3.000 x 7) là 21.000 tế hạnh; lại nữa, 4 loại phiền não độc hại là tham, sân, si và đẳng phần (tức là tham, sân, si cùng hiện khởi một lúc), mỗi loại phải dùng đầy đủ 21.000 tế hạnh mới chuyển hóa tận gốc, cho nên một vị tì kheo phải tu tập tất cả là (21.000 x 4 =) 84.000 tế hạnh –nói tròn con số là “tám muôn tế hạnh”.
(148) Tánh nghiệp, già nghiệp: Những hành động vốn ác từ thể tánh, không cần phải chế giới luật, hễ phạm phải thì liền thành nghiệp ác, như sát, đạo, dâm, vọng, gọi là tánh nghiệp. Những hành động vốn không có tánh ác, nhưng nếu không khéo léo thì có thể dẫn tới làm ác, như uống rượu, ăn các thứ hôi tanh, đào đất, v.v..., gọi là già nghiệp.
(149) Ở kinh này thì nói tôn giả Xá Lợi Phất và tôn giả Mục Kiền Liên đều nhân gặp ba anh em tôn giả Ca Diếp trên đường đi khất thực mà được nghe pháp và tỏ ngộ đạo lí; nhưng ở nhiều tài liệu khác thì nói hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vốn là hai vị đạo sĩ Bà-la-môn, bạn thân của nhau, ở cùng chỗ, cùng nhiếp lãnh một đạo tràng có 200 đồ chúng. Vì không thỏa mãn với những tri kiến sở đắc hiện tại, nên cả hai ngài đều bảo nhau để tâm tìm một vị minh sư khác để học hỏi thêm. Một hôm đang đi trên một con đường trong thành Vương-xá, ngài Xá Lợi Phất bỗng gặp được tôn giả A Thị Thuyết đang đi khất thực; và qua vị tôn giả này, ngài Xá Lợi Phất đã được nghe về giáo pháp “nhân duyên sinh” của đức Phật. Vừa nghe xong bài pháp, ngài liền tỏ ngộ. Ngài vô cùng mừng rỡ, liền mau mau trở về nói chuyện cho ngài Mục Kiền Liên nghe. Ngài Mục Kiền Liên vừa nghe được bài pháp “nhân duyên sinh” do ngài Xá Lợi Phất thuật lại, tâm liền bừng sáng; cho nên cả hai ngài cùng quyết định tìm đến tinh xá Trúc-lâm để xin xuất gia theo Phật. Chẳng bao lâu, cả hai ngài đều chứng quả A-la-hán, và trở thành hai vị đệ tử thượng thủ của đức Phật.
(150) Ô Sô Sắt Ma: dịch ra Hán ngữ là Hỏa Đầu, là một vị kim cang lực sĩ ủng hộ Phật pháp.
(151) Phật Không Vương: Đức Phật này, do chứng đệ nhất nghĩa không mà thành Phật, nên có danh hiệu như vậy. Trong Kinh Pháp Hoa đức Phật có dạy: “Như Lai cùng với A Nan đã cùng phát tâm tu hành dưới thời đức Phật Không Vương...” Vậy thì tôn giả A Sô Sắt Ma ở đây (xem chú thích số 150 kế trên) cũng từng là bạn đồng tu của đức Phật Thích Ca và tôn giả A Nan vào thời đó; nay vì trợ giáo cho đức Thích Ca mà tôn giả hiện thân là vị kim cang lực sĩ, gọi là Hỏa Đầu Kim Cang.
(152) Phật Phổ Quang: Thân và trí đều sáng chói, chiếu soi khắp thế gian, gọi là “Phổ Quang”; đó là danh hiệu khác của đức Phật Nhiên Đăng. Kinh Tu Hành Bản Khởi chép rằng: Vào đời quá khứ, ở vương quốc Đề-hòa-vệ có vị thánh vương trị vì, tên là Đăng Thạnh. Trước khi lâm chung, thánh vương truyền ngôi cho thái tử Định Quang. Thái tử thấy mọi việc ở đời đều là vô thường, bèn nhường ngôi lại cho người em, rồi đi xuất gia làm sa môn; sau thành Phật, hiệu là Định Quang Như Lai. Lúc bấy giờ có vị phạm chí tên Nho Đồng, gặp đức Phật Định Quang đi du hóa, bèn khởi lòng kính ngưỡng, mua hoa cúng dường, được Phật thọ kí trong đời vị lai sẽ thành Phật. Đức Định Quang Như Lai thuở đó tức là đức Phật Nhiên Đăng; còn phạm chí Nho Đồng là tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(153) Phật Tì Xá Phù: Đây là đức Phật cuối cùng của một ngàn đức Phật ra đời trong kiếp Trang-nghiêm (quá khứ).
(154) Bồ Tát Nguyệt Quang: tức Nguyệt Quang đồng tử, con trai của trưởng giả Thân Nhật ở thành Vương-xá thời Phật tại thế. Trưởng giả Thân Nhật sùng tín ngoại đạo, nghe lời xúi giục của họ, làm một cái hầm lửa lớn ngay lối đi vào nhà ông, rồi thỉnh Phật và tăng chúng đến nhà để cúng dường trai tăng, mục đích là ám hại Phật. Nguyệt Quang đồng tử hết lời can gián, nhưng ông không nghe. Cuối cùng, khi đức Phật đến nơi thì hầm lửa biến thành ao sen trong mát. Ông trưởng giả quá kinh sợ, bèn xin qui y theo Phật, từ bỏ ngoại đạo, nghe Phật thuyết pháp, chứng quả Tu-đà-hoàn.
(155) Tôn giả Xá Lợi Phất bị ác quỉ đập đầu. Một hôm, tôn giả Xá Lợi Phất ngồi trong hang núi Kì-xà, nhập Kim-cang định. Lúc bấy giờ có hai con quỉ đi qua trên không: con quỉ dữ tên là Phục Hại, con quỉ hiền tên là Vi Hại. Quỉ Phục Hại (dữ) nói với quỉ Vi Hại (hiền) rằng: “Ta muốn đập trên đầu ông sa môn này.” Quỉ Vi Hại liền ngăn cản, bảo không nên khởi ý ác đối với vị sa môn. Quỉ Phục Hại không nghe lời khuyên, quỉ Vi Hại liền bỏ đi. Quỉ Phục Hại bèn dùng nắm tay đánh trên đầu tôn giả Xá Lợi Phất. Sau đó tôn giả xuất định, cảm thấy đầu bị đau nhức, liền đến trước đức Phật, bạch rằng: “Thân thể con vốn không bệnh hoạn gì, tại sao đầu con lại đau nhức?” Phật dạy: “Trong lúc thầy nhập định, con ác quỉ Phục Hại đã dùng nắm tay đánh trên đầu thầy. Con quỉ này sức mạnh vô cùng, nếu nó đập núi Tu-di thì núi cũng bị bể đôi. Nếu thầy không nhờ có Kim-cang tam- muội hộ vệ thì thân thầy đã nát nhừ. Hiện con quỉ ấy đã thọ khổ báo ở địa ngục A-tì.”
(156) Phật Định Quang: tức Phật Nhiên Đăng (xem lại chú thích số 152 ở trên).
(157) Bồ Tát Di Lặc: Ngài vốn sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở miền Nam Thiên-trúc, sau xuất gia làm đệ tử Phật, và nhập diệt trước Phật. Sau khi nhập diệt, Ngài sinh lên Nội-viện cõi trời Đâu-suất, trở thành vị Bồ-tát “nhất sinh bổ xứ”; vì Ngài từng được đức Thế Tôn thọ kí, trong tương lai, vào tiểu kiếp thứ 10 của trung kiếp Trụ, khi tuổi thọ con người giảm đến tám vạn tuổi (từ tám vạn bốn ngàn tuổi), ngài sẽ hạ sinh trong nhân gian để thành Phật, nối tiếp pháp vận của Phật Thích Ca Mâu Ni. Bởi vậy, ngay từ bây giờ, Ngài cũng được tôn xưng là Phật Di Lặc.
(158) Bồ Tát Đại Thế Chí: Âm tiếng Phạn là Ma Ha Ta Thái Ma Bát La Bát Đa, dịch ý là “đắc đại thế”, hay “đại tinh tấn”, tức là Bồ Tát Đại Thế Chí. Ngài cùng với Bồ Tát Quán Thế Âm là hai vị cận sự luôn luôn ở hai bên tả hữu của đức Phật A Di Đà – cả ba Ngài được gọi chung là “Tây Phương Tam Thánh”. Bồ Tát Đại Thế Chí dùng trí tuệ chiếu soi cùng khắp, khiến cho chúng sinh xa lìa ba đường dữ, được sức vô thượng. Trong lúc ngài thực hiện hạnh nguyện ấy, cõi đất ở khắp thế giới mười phương đều chấn động, cho nên gọi ngài là Đại Thế Chí. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: Khi còn tu nhân, Bồ Tát Đại Thế Chí đã dùng tâm niệm Phật mà nhập vào vô sinh nhẫn; cho nên, hôm nay ngài có thể giúp cho những người niệm Phật ở thế giới Ta-bà được về cõi Tịnh-độ. Kinh Bi Hoa còn nói: Sau khi đức Phật A Di Đà nhập diệt, Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thành Phật và thay thế vào địa vị của Phật A Di Đà; sau khi đức Quán Thế Âm nhập diệt, Bồ Tát Đại Thế Chí sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai, thay thế đức Quán Thế Âm mà nhiếp hóa chúng sinh.
(159) Phật Vô Lượng Quang: tức Phật A Di Đà, nhưng đây không phải là đức Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực-lạc (mới thành Phật cách nay 10 kiếp – theo Kinh A Di Đà). Đức Phật Vô Lượng Quang nói ở đây đã thành Phật từ hằng sa kiếp về trước. Chư Phật trùng tên là chuyện thường.
(160) Danh hiệu 12 đức Phật: Theo Kinh Đại Di Đà, danh hiệu của 12 đức Phật này như sau:
1. Phật Vô Lượng Quang: trí tuệ chân thật chiếu soi chân lí không hạn lượng.
2. Phật Vô Biên Quang: trí tuệ quyền xảo chiếu soi sự tướng không ngằn mé.
3. Phật Vô Ngại Quang: ánh sáng đại từ ban vui cho chúng sinh không bị chướng ngại.
4. Phật Vô Đối Quang: ánh sáng đại bi cứu khổ chúng sinh không ai bì kịp được.
5. Phật Diệm Vương Quang: ánh sáng ứng hóa khắp nơi một cách tự tại.
6. Phật Thanh Tịnh Quang: cấu nhiễm hoàn toàn dứt sạch, chỉ thuần ánh sáng thanh tịnh.
7. Phật Hoan Hỉ Quang: cho chúng sinh thọ dụng, tâm sinh đại hoan hỉ.
8. Phật Trí Tuệ Quang: dùng ánh sáng trí tuệ phá trừ mọi lậu hoặc.
9. Phật Bất Đoạn Quang: ánh sáng từ thân phóng chiếu thường xuyên không dứt.
10. Phật Nan Tư Quang: ánh sáng vi diệu vô tận, khó có thể nghĩ bàn.
11. Phật Vô Xưng Quang: ánh sáng đầy đủ mọi công đức, không thể xưng tán cho cùng.
12. Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang: ánh sáng chiếu soi khắp nơi, cả những chỗ u tối nhất, ánh sáng mặt trời mặt trăng cũng không sánh bằng được.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.129.63.214 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập