Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó.
Kinh Pháp cú
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
ĐẠI LUÂN MINH VƯƠNG HỌA TƯỢNG NGHI TẮC MẠN NOA LA THÀNH TỰU PHÁP _PHẨM THỨ MƯỜI BỐN_CHI KHÁC
“Này Diệu Cát Tường! Nay Ta lại nói Phấn Đàn Mạn Noa La có thể làm hai khuỷu tay, hoặc bốn khuỷu tay, hoặc tám khuỷu tay, chẳng vượt qua Nghi này
Như Pháp Độ lúc trước, tìm chỗ bên bờ sông, đỉnh núi với nơi thanh tịnh tối thượng khác, vạch vẽ vị trí của Đàn, làm bốn phương, mở bốn cửa, bốn góc, bốn đường viền vuông vức ngay ngắn. Dùng phấn ngũ sắc làm hoặc xen lẫn năm màu, mọi loại sắc tướng trang nghiêm
Người Đồng Sựấy cần phải ân cần chuyên chú, Tâm không có phiền não, không có hành nghiệp tội, như Pháp biết việc, luôn trì tụng, yên lặng y theo Pháp bắt đầu làm (khởi thủ)
Nếu làm Tức Tai, Tăng Ích thì nên ở chính giữa vẽ làm cái khám báu lớn trong ngọn núi báu lớn. Trong cái khám, vẽ Đức Đại Bảo Quang Tràng Như Lai (Mahā¬teja ratna-ketu- tathāgata) ngồi Kiết Già, tướng Chuyển Pháp Luân. Ở trước tượng làm ba lớp cúng dường với làm Quang Diệm Ấn như Pháp trang nghiêm. Dùng lửa sáng ấy che trùm khắp cả, sáng rực đều tràn đầy ở bên trong. Bản Tôn đã vẽ là Đại Sư của ba cõi, như mặt trời mới mọc, ví như màu hoa Cung Câu Ma (Kuṅkuma) như tướng Luân Vương, đầu đội mão báu, thân mặc Thiên Y với mọi loại vòng hoa thù diệu trang nghiêm. Làm khuôn mặt Đại Tiếu như Đại Tinh Tiến Đại Lực Na La Diên Thiên, diệu sắc đoan nghiêm, chẳng già chẳng trẻ, tay phải làm thể ngửi hoa Phộc Câu La (Vakula), tay trái cầm bánh xe rực rỡ lửa sáng, ngồi trên ngọn núi báu lớn, co một chân duỗi một chân, có ánh sáng vòng khắp đám lửa, như lửa sáng rực, lại như gió thổi.
Như vậy trang nghiêm xong. Người trì tụng ấy ở trước tượng này, hết thảy nguyện cầu, tất cả thành tựu với được thành tựu tất cả Chân Ngôn cho đến các nhóm hữu tình, nếu có phiền não với nămtội Nghịch, phạm các Cấm Giới. Các người không có Trí, nếu y theo Pháp tu hành đều được giải thoát.
Nếu được thấy Mạn Noa La với Trì Luân Thiên Tôn, ở khoảng sát na, thành tâm tùy vui thì tất cả tội nặng đều được tiêu diệt.
Ở cửa Đông của Mạn Noa La làm nhóm cây chuối trang nghiêm với làm Môn Ngạch (Bộ phận bên trên cái xà ngang gác trên cửa)
Ở bên ngoài cửa, tụng Chân Ngôn, làm Sái Tịnh (Rưới vảy cho sạch sẽ) với hiến quả trái, hương, đèn, năm nhóm hương, vòng hoa… đều tinh khiết tối thượng, thành tâm trịnh trọng
Ở trước mặt Thiên Tôn, an cái Hiền Bình thù thắng tối thượng, chẳng được động chạm đến
Lò Hộ Ma (Agni-kuṇḍa) ấy như Nghi Tắc lúc trước an trí, rồi làm việc Hộ Ma. Củi sự dụng thì nên dùng cây Khư Nễ La (Khadira), cây Ba La Xá (Pālāśa), cây Cát Tường (Śrī), cây Ưu Đàm Bát La (Udumbara), cây A Lý Ca (), cây A Ba Mạt Lý Nga (Apāmārga)… làm tám ngàn miếng củi hoặc 1080 miếng. Lại dùng Hồ Ma (mè) với hoa lúa gạo hòa chung với Lạc (váng sữa đặc) xong, làm việc Hộ Ma
Hành Nhân ấy chọn ngày có tinh tú cát tường. Trước tiên nên tắm rửa, mặc máu sạch mới, ăn ba thức ăn màu trắng. Như vậy thanh tịnh xong, rồi làm Hộ Ma. Tụng Đại Luân Nhất Tự Minh với làm việc Pháp, y theo Pháp mãn túc Đại Nguyện đã mong cầu, thảy đều đắc được Đại Lực, đầy đủ tất cả Vô Úy.
Nếu thời Mạt Kiếp mà Trì Tụng Hành Nhân luôn trì tụng thì đối với tất cả việc của Thế Gian với Xuất Thế Gian đều được thành tựu.
Sức của Đại Minh này được đại tinh tiến, cho đến mười lực với hàng Phạm Thiên, Đế Thích hộ thế… Na La Diên Thiên, Nhật Nguyệt Thiên… cho đến Dạ Xoa, La Sát, Ma Hầu La, Khẩn Na La, Nga Lỗ Noa, Ma Đa La, người với Tiên Nhân, tất cả hữu tình… đã nói Chân Ngôn đều được thành tựu. Nhóm như vậy, trong đây thỉnh triệu thảy đều tập hội
Nếu tụng Đại Luân Nhất Tự Minh Vương này thì hay giáng phục tất cả BộĐa, hay triệu tất cả Hiền Năng, hay được tất cả Thầy tốt (Thiện Sư)với được tất cả hữu tình tin tưởng ưa thích
Nếu y theo Pháp Hành, như Pháp vẽ tượng, tìm nơi rất thanh tịnh ở bên bờ sông, đỉnh núi.. an trí
Nếu muốn làm Tức Tai, Tăng Ích. Phàm là những thứ cần dùng đều trước tiên an trí. Người trì tụng ở trước tượng này, hướng mặt về phương Đông, ngồi trên tòa cỏ, chuyên tâm trì tụng chẳng được tán loạn. Tiếng trì tụng chẳng được quá cao, cũng chẳng được quá thấp
Nếu giáng phục BộĐa (Bhūta) thì mau được thành tựu. Hoặc Tâm Từ (Maitra¬citta) thương xót hữu tình trong Thế Gian. Hết thảy lo khổ bức bách, không có chủ, không có chỗ nương cậy… với các người bị khổ luân hồi trong nẻo ác, vì họ làm cứu hộ đều được thành tựu. Chỉở trước tượng, một lòng suy nghĩ, tưởng làm hết thảy cúng dường tối thượng của nhân gian mà phụng hiến
Lại ở trước tượng, y theo Pháp làm việc Hộ Ma. Đem Đoàn Thực thanh tịnh hòa chung với nhóm hương Bạch Đàn (Śveta-candana), Long Não (Karpūra), Cung Câu Ma (Kuṅkuma)… làm 108 viên rồi đem thức ăn này ném vào trong lửa để làm cúng dường. Mỗi một viên, một lần ném thì một lần tụng Chân Ngôn.
Dùng cây Khư Nễ La (Khadira), cây Bát Lạc Xoa (Plakṣa), cây Nhữ Nga LỗĐà (Nyagrodha), cây Ba La Xá (Palāśa)… dùng nhóm cây này làm củi. Nếu không có nhóm cây này thì có thể dùng cây khác. Phàm cây bị loài trùng ăn với khô queo, mục nát đều chẳng được dùng. Tất cả cây có gai cũng chẳng được dùng. Nếu dùng thì tự bị tội nặng
Đây rộng nói Nhất Tự Chân Ngôn Nghi Quỹ, ở trong tất cả Chân Ngôn là tối thượng, đối với tất cả việc, sự dụng được thành không có nghi ngờ, cho đến Thỉnh Triệu thì đây cũng triệu được
Nếu làm việc Hộ Ma thì nên dùng nhóm củi Bất Lạc Xoa (Plakṣa), Ưu Đàm Bát La (Udumbara), Ni Câu Đà () dùng nhóm bơ, mật, lạc tẩm hai đầu củi, chuyên tâm làm Hộ Ma, nên vì Vương Gia tác hộ việc nước
Nếu vì cầu sinh lên Trời, làm Hộ Ma thì nên dùng Cung Câu Ma với Bạch Đàn
Nếu cầu là Trì Minh Thiên Chủ làm Hộ Ma thì dùng 36 lạc xoa hoa sen làm Hộ Ma. Sau đó lại làm Át Già hiến Phật. Nếu được trên tượng Phật ấy, khắp cả có lửa sáng thì người kia ắt được làm chủ, cho đến được sinh lên cõi Phạm Thiên (Brahma) với Sắc Cứu Cánh Thiên (Akaniṣṭha) cho đến trong A Tu La (Asura). Sau này ở trong tất cả Thánh Nhân luôn được làm chủ, hay phá hoại tất cả hàng BộĐa, dùng sức tinh tiến, sức đại kiên cố được Pháp thành tựu. Ở trong Trì Minh Thiên luôn được làm vua, sống lâu một Kiếp, sau khi mệnh chung, quyết định hướng về Vô Thượng BồĐề
_Lại nữa, có Pháp lược nói. Nếu dùng hoa sen trắng, Bạch Đàn đồng làm Hộ Ma đủ một trăm lạc xoa số thì công thành, quyết định được thấy Đức Phật Bảo Tràng (Ratna-ketu)
Lại có Thế Giới Đại Bảo (Ratna-vatī), cõi ấy có Đức Thế Tôn hiệu là Tối Thượng Mâu Ni Tối Thượng Đệ Nhất Bảo Tràng Như Lai (Muni-śreṣṭho-vara-agro ratnaketustathāgata) trụở trong đó. Người trì tụng ấy được trụ trong đó, quyết định không có nghi ngờ.
_Lại nữa, có Pháp tối thượng là Thuyết tối thượng của Như Lai. Dùng hoa Nẵng Nga Chỉ Bà La (Nāgakesara) với nhóm Long Não, Bạch Đàn, Cung Câu Ma hòa hợp với nhau. Người trì tụng làm Hộ Ma 78 lạc xoa. Sau khi làm Hộ Ma thì chỗ muốn Triệu Thỉnh đều được đi đến, được hàng Trời vui vẻ, chỗ mong cầu đều được
Người trì tụng ấy được Đức Phật xoa đỉnh đầu, ở khoàng xoa đỉnh đầu, chứng địa vị của Bồ Tát Thất Địa, được gọi là Chân Phật Tử, được Thọ Ký (Vyākaraṇa) xong, quyết định chứng Bồ Đề. Vịấy có tri kiến đều từ Phật Trí, tu tất cả Chân Ngôn Hạnh, làm đại cúng đường, được năm Thần Thông. Ở khoảng một niệm làm Chân Ngôn Vương đủ mọi loại tướng, cũng khiến cho người khác đầy đủ tất cả tướng, ưu thích Pháp cúng dường, ở trong khoảng sát na, phát Tâm Bồ Đề. Ở các cõi Phật, trăm ngàn Thế Giới đều hay đến được, được thất Đức Phật ấy với các Bồ Tát, gần gũi cúng dường, được nghe Pháp Yếu.
_Lại nữa, có Pháp. Nếu có Hành Nhân dùng Tâm thanh tịnh, chuyên chú chân thật xem xét kỹ lưỡng, Dùng vật khí bằng vàng bạc, hoặc vật khí bằng đồng, sành… chứa đầy bơ, thắp đèn đủ một lạc xoa, số định một trăm ngàn chẳng được thừa chẳng được thiếu. Chỉ dùng người Nam làm Đồng Chấp Sự, chẳng được sai người nữ Chấp Sự, đèn ấy mỗi mỗi cầm giữ, ở trước mặt Phật Đại Luân Vương cúng dường phụng hiến, mỗi mỗi đều khắp. Mỗi một ngọn đèn, tụng Chân Ngôn một biến chẳng được thừa thiếu. Như vậy cúng dường xong, ở khoảng sát na được thành tựu chỗ mong cầu, nghe âm của tiếng trống vang rền khắp, có vô số Thiên Chúng với Phật Bồ Tát trụ trong hư không khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông thành bậc Trí, khéo hay tu hành. Ông quyết định chẳng bị trầm luân trong biển khổ lần nữa, được con đường tám Chính trong sạch tối thượng, vắng lặng không sợ hãi, an vui lớn. Chỗ mà bậc hiền thiện đã thực hành, thì ông có thể thực hành, ắt hướng đến Niết Bàn, thành được Phật Đạo”
_Lại có Pháp. Tu Chân Ngôn Hạnh cầu tướng của Đại Luân Nhất Tự, điều mà bậc Chính Giác đã nói. Pháp Đại Trí của Hạnh tối thượng này, dùng gỗ cây Nễ Ma (Nimba) làm cái chày Kim Cương ba chấu (Tam Cổ Kim Cương): hai đầu, khoảng giữa làm phần bằng nhau, thường thời an trí trước mặt tượng. Nếu khi trì tụng thời cầm nắm, một lòng chuyên chú, đủ 16 lạc xoa, hoặc 8 lạc xoa. Tụng đủ số xong, được Pháp thành tựu.
Nếu được phụng hiến cúng dường ấy với khắp bên trên chày Kim Cương có lửa sáng rực rỡ thì người trì tụng ấy hay đến Phạm Thế (Brahma-loka: Thế Giới của Phạm Thiên) với Thiên Giới khác. Ở trong tất cả Thánh Nhân được làm Chủ Tể, được làm Trì Minh Thiên với được Chuyển Luân Vương trên Trời, được chuyển thân của mình làm mọi loại tướng diệu sắc đoan nghiêm, được kéo dài thọ mệnh trụ mười Trung Kiếp, thọ nhận khoái lạc tôn thắng. Lại nữa, dùng Tâm Bồ Đề tu Hạnh bình đẳng, xa lìa tất cả nghiệp tội của nẻo khổ, được làm Thánh Thiên, sau khi chết lại sinh vào nhân gian cũng thọ nhận đại khoái lạc. Nếu y theo Pháp này tu hành, tinh tiến chẳng lùi thì quyết định sẽ chứng quả BồĐề.
_Lại có mọi loại Pháp. Nếu vì người làm trì tụng cúng dường, tu Đại Luân Vương Quảng Đại Nghi Quỹ này, hoặc cầu các việc thù thắng của hàng Đế Thích, Chuyển Luân Thánh Vương, Trì Minh Thiên...ṭhì nên thành tâm chuyến chú, a71t tất cả thành tựu
Nếu đã được Pháp Tiên Hành thành tựu, ở trong một đêm, ngồi Kiết Già, trì tụng chẳng gián đoạn cho đến sáng sớm thì người ấy được năm Thần Thông
Nếu ở trong rừng Thi Đà (Śmaśāna) lấy cái xác chưa bị hư hoại, chuyên tâm trì tụng Nhất Tự Minh một đêm chẳng gián đoạn thì sáng sớm được thành tựu chỗ làm.
Lại nữa, nếu ở trong rừng Thi Đà trì tụng Phẫn Nộ Đại Lực Nhất Tự Minh Vương sáu tháng thì được Pháp thành tựu, mãn được nguyện đã mong cầu
_Lại nữa, muốn thành tựu tất cả vật dụng trang nghiêm, ấy là: dù lọng trắng, giày da, vòng đeo tai, chuỗi Anh Lạc, vòng xuyến đeo ở cổ tay… cho đến áo, áo da hươu, áo Trời, Tịnh Bình, tăm xỉa răng (Xỉ mộc) với mũ trụ, áo giáp, kiếm báu, dây đai báu cho đến nhóm tràng hạt, hoa sen, tất cả trang nghiêm của Thế Gian đều được thành tựu.
Chỉở trước tượng an mọi loại vật thuộc các món lúc trước, cho đến báu trang nghiêm, các khí trượng...ṇên rưới vảy cho sạch, trì tụng tám lạc xoa biến. Nếu được vật của mọi món lúc trước đều có lửa sáng tuôn ra tiếp chạm người trì tụng thì Pháp đấy được thành tựu tối thượng, tùy theo khoảng tiếp chạm, người trì tụng đắc được Thần Thông.
_Lại nữa, người trì tụng hoặc đem bùn đất tạo làm các loại khí trượng trang nghiêm. Hoặc chúng hữu tình, loài chim (cầm) cho đến loài vật có tưởng, không có tưởng với mọi loại Giới, mọi loại có mạng sống với tất cả hành BộĐa… Hoặc tự làm hoặc dạy người khác làm, chỉở trước tượng, như Nghi Pháp lúc trước, rưới vảy sạch sẽ, trì tụng đủ sáu lạc xoa cho đến bảy lạc xoa biến. Tụng đủ số xong, nếu ở trên mọi loại vật ấy có lửa sáng hiện ra tiếp chạm người trì tụng thỉ người ấy ở khoảng tiếp chạm đắc được Thần Thông, cũng được thành tựu tối thượng, hay dạo chơi bốn phương được trường thọ khoái lạc, chuyển thân lại được sinh ở trên Trời. Như vậy chỗ làm, chỗ mong cầu đều được thành tựu, cũng được Đại Lực Minh vương vô lượng vui vẻ.
_Lại nữa, người trì tụng như vậy tu hành Nghi Quỹ rộng lớn, cầu sức Đại Minh, mau thành tựu. Phàm việc tạo làm đều cầu thanh tịnh, nên dùng người trong sạch, than tâm thanh tịnh, xa lìa chỗồn ào náo nhiệt, ưa thích nơi yên tịnh, luôn thường an trụ. Nên dùng người này trợ tu việc Pháp, được Pháp thành tựu, được quả của Thượng Phẩm
Nếu dùng người của Phẩm Trung Hạ trợ tu việc Pháp, lại tự không có Tâm tinh chuyên Thượng Phẩm thì quả báo đạt được chỉ thành việc của Phẩm Trung Hạ. Nếu chẳng vì việc lớn thì chẳng làm Hộ Ma, cho đến ở chút thời chuyên tâm trì tụng cũng được Phước Đức. Quốc Vương, Đại Nhân nhìn thấy vui vẻ. Nếu thường trì tụng thì tội chướng tiêu trừ
Chân Ngôn Vương này, nếu thường trì tụng, mỗi ngày tụng hai biến hoặc 7, 8 biến ủng hộ thân của mình thì ở tất cả nơi chốn thường được cát tường
Nếu cái áo đã mặc trải qua ba lần gia trì, nếu có người mặc thì hay trừ bệnh khổ. Nếu gia trì vào ba cái áo (Đại y, thượng y, nội y), người bị bệnh Quỷ, đem áo tiếp chạm thì bệnh tự trừ khỏi
Nếu có người sân nộ, tưởng mặt mắt của người ấy rồi gia trì. Người ấy nếu nhìn thấy thì sân nộ tự dứt
_Nếu là BộĐa, chúng ác với người làm hại gây não loạn. Chỉ tưởng mặt mắt của người bị não loạn ấy, tụng Chân Ngôn Vương 30 biến, dùng tay, miệng của mình gia trì thì người ấy tự tránh được, không bị tổn hại.
Nếu tất cả trẻ con của nhân gian vào lúc ngủ say, lúc ăn uống...hoặc bị nhóm Quỷ Ma ĐaLa (Mātara) luôn làm cho sợ hãi, não loạn. Dùng Chân Ngôn Vương gia trì 60 biến thì Quỷ tự xa lìa, dứt trừ sự sợ hãi
Nếu hoặc có người trụ bên sông lớn sông nhỏ, thường trì tụng Chân Ngôn Vương thì Quỷ Thần trong nước, loại có độc, loài không có độc… tất cả chẳng thể gây hại.
Như vậy Đại Địa, Nhân Gian có mọi loại việc, dùng Đại Minh gia trì thì không có gì chẳng được hiệu nghiệm.
Nếu lại có người thường tụng trì Chân Ngôn Vương này. Hoặc ở nơi thấy chịu khổ não thì mau được an vui, cho đến có tai nạn lớn cũng mau được tiêu trừ.
Nếu dùng hoa sen xanh, hoa gạo với các diệu hương hòa với mật làm Hộ Ma, tụng Đại Luân Minh 600 biến hoặc 1080 biến thì cũng được đẩy lùi nạn Oan Gia, dứt trừ bức não
Nếu dùng nhóm hoa Ma Lợi Ca, Bạch Đàn, Long Não, Cung Câu Ma… làm Hộ Ma sẽ được Quỷ Thần kính yêu
Nếu thường trì tụng, luôn làm Hộ Ma thì đối với tất cả việc, không có gì chẳng đạt được, cho đến ba Phẩm linh nghiệm chỉở ngay Tâm của người trì tụng: chuyên chú hay chẳng chuyên chú. KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ NHẤT THIẾT PHÁP HÀNH NGHĨA _PHẨM THỨ MƯỜI LĂM_ CHI MỘT_
Bấy giờ Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát ở trong Đại Chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật rồi bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Lành thay! Đức Thế Tôn khéo hay diễn nói tất cả Minh Tối Thượng Chân Ngôn Tương Ứng Đại Pháp Vân (Sarva vidyā-mantra-prayoga-mahā-dharma¬megha), tất cả Như Lai Tâm (Sarva-tathāgata-hṛdya), Đại Luân Minh Vương (Mahā-vidyā-rāja-cakravarti), Pháp Đại Nghi Quỹ (Mahā-kalpa) khiến cho Hành Nhân kia ở tất cả Nghĩa được quả viên mãn, thực hành Đạo vô thượng, trì tụng Hộ Ma, nhập vào Tam Muội, được tướng Nhân Quả, hiện chứng Đại Thập Lực, Pháp chưa từng có, quyết định được ngồi BồĐề Đạo Trường
Lành thay Thế Tôn! Nguyện xin nói người tu Chân Ngôn Hạnh cầu thành tựu kia, ở trong mộng thấy tướng cát tường, đối với tất cả Minh (vidya) mà được thành tựu. Lại nữa, vì Hành Nhân ấy với các chúng sinh làm Đại Nhiêu Ích, tu các Pháp Hành, rồi ở trong mộng thấy tướng cát tường, biết chỗ làm ấy, quyết định thành tựu.
Thế Tôn! Làm sao thành tựu điềm lành cát tường? Nguyện vì con diễn nói”
Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lànhthay Kim Cương Thủ! Ông Đại Bi Mẫn làm Dạ Xoa Vương vì phần lớn hữu tình của chúng Thế Gian làm lợi ích an vui. Lại vì các người tu hành mà thưa hỏi Ta: “Người kia ở trong mộng, thấy điềm lành nào mới là cát tường? Ở tất cả Minh, quyết định được thành tựu”
Này Kim Cương Thủ! Hãy nghe cho kỹ! Hãy nghe cho kỹ! Ông hãy khéo nghĩ nhớ! Nay Ta vì ông, mỗi mỗi tuyên nói
Kim Cương Thủ! Ta trước tiên nói rằng: Người muốn làm Pháp, trước hết tìm nơi thanh tịnh không có ngăn ngại ấy là nơi ở trong núi, nơi trên đỉnh núi, nơi ở sườn núi, hoặc nơi bên bờ sông, thanh tịnh không có ngăn ngại, làm an cư xong, an trí tượng Phật, hiến cúng dường lớn. Sau đó chọn ba Trường Nguyệt, ngày cát tường của kỳ Bạch Nguyệt, ở đầu đêm dùng nhóm hương Bạch Đàn, Long Não, Cung Câu Ma hòa hợp với nhau, dùng cây củi Khư Nễ La nhóm lửa. Ở trước mặt tượng Phật, ngồi trên mặt đất cách Đức Phật bốn khuỷu tay. Dùng Đoàn Thực một ngàn cái làm Hộ Ma
Nếu đám lửa lớn thanh tịnh không có khói. Lại dùng hoa sen gồm tám ngàn cái làm Hộ Ma. Dùng Bạch Đàn tẩm hoa sen Hộ Ma. Sau đó kết Bảo Tọa Ấn hiến tòa ngồi. Khi làm Hộ Ma thời dùng Hỏa Thiên Căn Bản Chân Ngôn , hoặc dùng Chân Ngôn này:
“Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạđá xá sa nẵng nam. Đát nhữ tha: Án, câu ma la, lỗ bế ni, nại lý-xá dã, nại lý-xá dã, a đát-ma nỗ nột-bộ để mô bà phộc dã, sa-phộc bán-nam, nhĩ, nễ phệ nại dã, dã tha bộđán, hồng hồng, phả tra, phả tra, sa-phộc hạ”
*)Namaḥ samanta-buddhānāṃ apratihataśāsanānāṃ
Tadyathā: Oṃ_ Kumāra-rūpiṇa darśaya darśayam-ātman udbhūtim udbhāvaya svapnaṃ me nivedya yathā-bhūtam, hūṃ hūṃ phaṭ phaṭ svāhā
ĀTMANO BHŪTI SAMUDBHĀVAYA SVAPNAṂ ME NIVEDA YATHĀ¬BHŪTAM, HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ SVĀHĀ]
Chân Ngôn này hay làm ủng hộ. Nếu làm tất cả việc Hộ Ma xong, cầu thành tựu ứng cát tường là tướng lúc trước. Nên ở trước tượng, chẳng gần chẳng xa, trải cỏ cát tường (Kuśa). Vào lúc đầu đêm, chẳng ngủ, tác Quán tương ứng, tưởng tất cả Phật với hàng Bồ Tát, thấy rõ ràng xong, đỉnh lễ sám hối. Lại buông xả thân của mình, dâng phụng tất cả Phật, sau đó hướng cái đầu về phương Đông, tùy ý mà nằm.
Nếu ở phần đầu của đêm mà được mộng thì nên biết là chỗ được của Âm. Ở phần thứ hai mà được mộng thì đây là chỗ được củaDương. Ở phần thứ ba mà được mộng là chỗđược của Phong...đều chẳng phải là cát tường
Nếu là phần thứ tư mà được mộng, thì đây là chân thật.
_Từ Âm mà đạt được mộng. Như vậy thấy nhóm của Ma Ni, thủy tinh, trân châu, Anh Lạc. Hoặc thấy biển lớn, sông lớn, nơi nơi tràn đầy nước rồi lại phân chia dòng chảy trôi nổi ở thân của mình. Hoặc thấy nạn nước, nước không có bờ mé, cỡi căn nhà để vượt qua. Hoặc thấy núi tuyết, núi ngọc, núi thủy tinh với thấy mưa lớn. Lại thấy dù lọng trắng, mọi màu trắng trang nghiêm với lưới trân châu, lọng trân châu với nhóm voi trắng, ngựa trắng. Mộng này là từ Âm mà hiện ra
Lại nữa, thấy người màu trắng, áo trắng, cây phất trắng với tơ Đổ La (Tūla), lụa, vải, bạc trắng với muối… Hoặc lại thấy đường cát, đậu xanh, loại dầu mè… vật như trên hoặc tiếp chạm hoặc nhận lấy. Lại nữa, hoặc mộng ăn bánh, ăn cháo với bơ, sữa, dầu, mật, mọi loại vật ăn được… vật như trên hoặc tiếp chạm hoặc nhận lấy. Lại nữa, thấy cái yên ngựa rồi cỡi lên, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc tiếp chạm, hoặc cỡi. Mọi loại mộng như trên với loại tương tự đều là chỗ biến từ Âm, chẳng phải là chỗứng của cát tường chân thật
_Khi ở phần thứ hai của đêm. Nếu mộng thấy lửa với lửa lớn rực sáng chiếu bốn phương với thấy ánh sáng Thiểm Điện (sấm chớp) chiếu tất cả. Đây là chỗ biến của Dương
Lại nữa, thấy báu Bát Nạp Ma La Nga (Padma-rāga) với thấy mọi loại báu đều như màu lửa. Lại mộng ở gần lửa với lại thân tiếp chạm dẫn đến nhiệt não. Lại mộng ăn mọi loại thức ăn màu vàng. Lại thấy màu trời hôn ám chẳng thấy ánh sáng mặt trời. Lại thấy hư không kèm với Đại Địa cho đến núi, đá thảy đều màu vàng. Lại thấy cỡi ngựa, đi xe kèm với voi lớn… tất cả trang nghiêm đều là màu vàng ròng, hoặc ngồi, hoặc nằm với dùng bàn tay tiếp chạm… đều là chỗ từ Dương mà có được
Lại nữa, thấy vòng hoa, quần áo với dây quấn nách ấy, cho đến thân của mình thày đều màu vàng ròng, có ánh sáng có mùi thơm. Như vậy cho đến mộng thấy mọi loại tướng khác đều là màu vàng. Điều này đều là chỗ từ Dương mà có được
_Khi ở phần thứ ba của đêm, mộng thấy ánh sáng chiếu ở hư không, khắp cả bốn phương. Lại mộng thấy Đại Địa rộng rãi, luôn bước đi khắp cả. Lại mộng leo lên cây với leo lên cây có gai… cũng là từ Phong (gió) mà có được
Lại mộng ăn vật đắng với tất cả vật cay nồng. Hoặc lại ăn quả trái, hoặc sống hoặc chín cũng đều cay nồng. Lại nữa, mộng thấy người có tính nóng nảy, cùng nhau nói năng gây gỗ. Hoặc thấy tất cả BộĐa múa, hoặc thấy tự thân múa, cho đến thấy mọi loại tướng ác, mọi loại loạn ngôn. Điều này đều là chỗ biến từ Phong
_Lại có ba loại Pháp hợp với ba loại Âm, Dương, Phong ấy là ba loại Tham (Rāga), Sân (Dveṣa), Si (Moha). Tham là Âm, Sân là Dương, Si là Phong với tướng tạp loạn, cực tạp loạn.
Nếu ưa thích Thế Pháp (Pháp của đời), tướng của người nữ là chỗ sinh của Âm. Thỏa thích trong sự giận dữ, phần lớn ưa đấu tranh là chỗ sinh của Dương. Si là đen tối, quên mất, ưa thích nhiều tạp loạn là chỗ sinh của Phong. Như vậy các cảnh mộng là chỗ sinh của ba Pháp.
-Phàm cầu thành tựu nên tùy theo tướng của cảnh mộng. Lại thùy thuận Âm nói sắc tướng của chúng sinh. Nếu người có nhan sắc trắng tươi, đoan nghiêm, sáng bóng, chẳng ngu, chẳng độn, có Trí, có Tuệ, chấp chí chẳng chuyển biến. Lại nhiều dũng mãnh, có Tâm Đạo, luôn ái ngữ, mạng trường thọ, rất được người Âm phụng trọng, sinh gặp Cát Tinh (sao tốt), lại sinh ở Ngư Cung (Mīna) ắt chủ về quân binh, làm Hộ Quốc Trọng Thần, được đại phú quý. Hết thảy việc mong cầu chẳng phải lìa Chân Ngôn, chẳng phải nhân vào Chân Ngôn, tùy theo Nghiệp Quả của mình sẽ cầu thành tựu. Được thành tựu xong, cầu Phước Đức lớn, cầu việc của Nhất Phẩm đều được thành tựu.
_Phàm thức ăn uống được phát ra từ Âm thì tất cả thường chẳng được ăn. Lại tùy thuận Dương nói hành tướng ấy. Tướng thường giận dữ (Dveṣa: sân) phần lớn đen gầy, thích làm việc ác, phần nhiều làm Tà Hạnh. Song, có dũng mãnh tinh tiến, lại có Trí Lực, phần lớn ưa thích bạn bè, có nhiều học vấn, nói năng khéo léo, có Tâm Đạo, học Nghiệp chẳng lùi, ý có nhiều niệm oán, yêu nói việc giận dữ, biết nhiều Thế Pháp, có Ngã Kiến, đối với cái khổ thì không có sợ, tu Chân Ngôn Hạnh tinh tiến chẳng lùi, ắt được thành tựu. Hết thảy việc mong cầu, tùy theo Nghiệp được thành, làm Pháp Giáng Phục mau được thành tựu, tất cả người tụng đều đến phụng trọng. Hết thảy đối với chúng sinh khác, hoặc giết, hoặc hại, hoặc xâm lấn, hoặc cướp đoạt, hoặc vì mình hoặc vì người khác. Song đối với Pháp được thành Phật thì chẳng phải là chỗ hứa.
Người có tướng sân, nhan sắc phần lớn là màu đen, hoặc màu tím, hoặc tạp sắc, hoặc màu đen xanh, hoặc màu đỏ vàng, xa lìa màu vàng ròng tối thượng. Người này nếu sinh ở Hiết Cung (Vṛścika:cung bò cạp) là Đại Diệu (Maha-grahā) A Thất Lệ Sử Tinh (Āśleṣā) hoặc sinh ở Mộc Tinh (Vṛhaspati) thì thức ăn thích hợp luôn luôn có vị chua cay, thọ mệnh lâu dài, được Túc Mệnh Trí
_Lại nữa, tùy thuận Phong nói hành tướng của chúng sinh. Người thuận Phong thì thân chi thô ráp xấu xí, chẳng quá mập gầy, tính chẳng thông minh, chí chẳng quyết định, phần lớn có quên mất, chẳng ở yên một chỗ, có nhiều đàm rãi, tùy tiện khạc nhổ mọi nơi. Lại tham ăn, nhiều bệnh, Tâm ưa ganh ghét, đối với các hữu tình có nhiều hiềm oán, hoặc được làm vua thì phần lớn gây tổn hại Phật Pháp, sinh ở Âm Tinh khó biết chân thật. Người này nếu thường trì tụng, làm Giáng Phục, Kính Ái cầu Pháp ắt thành. Nếu có chúng sinh, Tâm phát phong cuồng mê đảo thì người này trì tụng ngăn cấm liền lui. Nếu làm sự nghiệp Thiện khác thì khó được thành tựu.
_Lúc trước đã nói cảnh mộng đã được của ba loại Âm, Dương, Phong. Lại hợp với thân sắc đã thọ nhận của ba Pháp Tham Sân Si, nơi tâm tính ưa thích, có thể tu, có thể làm các sự nghiệp… Nếu lại khi ở phần thứ tư của đêm thì được cảnh mộng chân thật, tất cả chân thật, đối với các sự nghiệp đều được thành tựu
_Lại nữa, có nhiều loại việc của Cung. Ấy là Dương Cung (Meṣa), Ngưu Cung (Vṛṣabha), Nam Nữ Cung (Mithuna), Giải Cung (Karkaṭaka), Sư Tử Cung (Siṃha), Xứng Cung (Tula), Đồng Nữ Cung (Kanya), Hiết Cung (Vṛścika), Nhân Mã Cung (Dhanu), Ma Kiệt Cung (Makara), Bảo Bình Cung (Kumbha), Ngư Cung (Mīna), Thiên Nhân Cung (Naraka-vidyādhara), A Tu La Cung (Asura), cung của hàng Càn Thát Bà (Gandharva), Dạ Xoa (Yakṣa)… cho đến cung của hàng Thánh Nhân. Mọi loại cung xứ, mọi loại hữu tình mà ứng thọ sinh, bẩm thọ mọi loại hình tướng, có mọi loại nghĩa nghiệp mà Đức Như Lai đã nói.
Kẻ kia cầu tất cả nghiệp quả, tu hành được Cung cát tường, tinh tú cát tường tương ứng thì sẽ được quả báo rộng lớn. Nếu không có Nhân Nghiệp thì quả báo chẳng thành. Nếu Pháp Nghĩa đầy đủ, được Chân Ngôn thành tựu. Người trì tụng ấy tu đủ Công Đức, biết Lý Chân Như, phân biệt Nhân Quả. Điều này có Công Đức, điều này không có Công Đức. Nếu đầy đủ Nghiệp Hạnh, được Pháp thành tựu. Như Nghiệp Hạnh lúc trước, y theo Pháp đã nói tức là Công Đức Hành Nghiệp của Như Lai quá khứ vì các hữu tình cầu mọi loại cảnh mộng, thấy mọi loại hình tướng, đắc được điềm tốt lành, thích ý ưa thấy
Hoặc lại thấy hình tướng chướng nạn ấy, cảnh mộng đại ác thì người trì tụng kia ắt có ba loại tu tập của Phẩm Thượng Trung Hạ. Cần phải dùng sức đại tinh tiến tối thượng cầu thành tựu ấy, đối với sự nghiệp quyết định, lìa cái thấy nghi ngờ về sự thành tựu, chẳng thành tựu
Người cầu lìa chướng nạn cần phải y theo Pháp tác Quán Hạnh ấy. Tưởng Tự Tự Đại Minh Đồng Tử hóa làm tướng Lục Diện Lục Tý Đại Minh Vương Đại Phẫn Nộ. Vị Minh Vương ấy có hình sắc như Đại Diệm Ma Bồ Tát mặc áo dá báo, dùng rắn trang nghiêm, tay cầm cây kiếm bén, hiện uy lực lớn, phá các chướng nạn, như mặt trời ra đời thì hắc ám bị tiêu trừ. Hết thảy tất cả loài gây chướng nạn lớn, các BộĐa ác thấy vị Minh Vương này thảy đều sợ hãi, chẳng dám tạo làm các việc chướng nạn. Trì Tụng Hành Nhân đều trừ chướng nạn, được Pháp thành tựu.
Lục Tý Đại Minh Vương nói Trừ Chướng Đại Minh Đại Đà La Ni này, các BộĐa ấy với Thiên Chúng thảy đều lắng nghe.
Đà La Ni là:
“Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạđá xá sa nẵng nam. Đát nhữ tha: Hứ hứ, ma hạ cốt-lỗđà, sam mục khư, sa trá-tả la noa, tát lý-phộc vĩ cận nẵng, già đá ca, hồng hồng, khẩn tức la dã tất, vĩ nẵng dạ ca, nhạ vĩđa ca la, nậu sa-phộc bán¬nam, nhĩ, nẵng xá dã, la hộ la hộ, tam ma dã ma nỗ sa-ma la, phả tra, phả tra, sa-phộc hạ”
*)Namaḥ samanta-buddhānāṃ apratihataśāsanānāṃ
Tadyathā: He he mahā-krodha ṣaṇ-mukha ṣaṭ-caraṇa sarva-vighna-ghātaka hūṃ hūṃ, kiṃcirāyasi vināyaka jīvitānta-kara duḥ-svapnaṃ me nāśaya, lahu lahu, samayam-anusmara phaṭ phaṭ svāhā
[Bản Phạn thay lahu lahu bằng LAṄGHA LAṄGHA]
Đại Phẫn Nộ Minh Vương nói Đà La Ni này xong thời hết thảy tất cả loài gây chướng nạn kinh hoàng sợ hãi, thân tâm run rẩy. Lúc đó, Điệu Cát Tường Đồng Tử đỉnh lễ bàn chân của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, làm lễ kính xong, liền nhập vào Tam Muội (Samādhi)
_Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật quán sát tất cả Đại Chúng trên Trời Tịnh Quang ấy rồi nói như vầy: “Thiên Chúng các ông! Phẫn Nộ Minh Vương này có uy lực lớn, hết thảy người hành trì tụng cầu thành tựu tất cả Chân Ngôn của Thế với Xuất Thế Gian, bị hàng BộĐa với chúng sinh ác gây chướng nạn, hành chẳng nhiêu ích thì Phẫn Nộ Vương ấy khiến cho tự Tộc ấy chịu điều phục mà chẳng chặt đứt mạng ấy, sẽ khiến cho tật bệnh, chịu sự khổ não… ủng hộ người tụng thì khiến được an trụ, kèm được Phước Đức tăng trưởng. Kẻ gây chướng nạn kia nếu chẳng thuận theo Mệnh ấy thì cái đầu bị vỡ ra bảy phần như cành cây A Lê”
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói Thuyết này thời Diệu Cát Tường Đồng Tửấy liền ra khỏi Tam Muội.
Đức Phật bảo Đồng Tử: “Này ông! Do Chân Ngôn có nghĩa sâu xa rộng lớn, trong các Nghi Quỹ là tôn thắng tối thượng. Phẫn Nộ Vương Đà La Ni này ở các Thế Gian, khiến cho người trì tụng, Tâm thường nhớ niệm, ở trong ngày đêm chận đứng Tâm Oán ấy, chướng nạn tự lui, thường tựủng hộ, chỗ làm thành tựu” KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ _QUYỂN THỨ MƯỜI HAI (Hết)_
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.116.19.29 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.