Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận.
Kinh Pháp cú
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
BỐN THIÊN VƯƠNG HỘ QUỐC
_PHẨM THỨ MƯỜI HAI_
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghe bốn Thiên Vương cung kính, cúng dường Kinh Kim Quang Minh với hay ủng hộ người trì Kinh, thì khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Bốn Thiên Vương các ông đã ở chỗ của vô lượng trăm ngàn vạn ức Phật quá khứ: cung kính, tôn trọng, khen ngợi, gieo trồng các căn lành, tu hành Chính Pháp, thường nói Chính Pháp, dùng Pháp hóa độ đời. Các ông trong đêm dài, đối với các chúng sinh thường nghĩ đến lợi ích, khởi Tâm Đại Từ, nguyện ban cho an vui. Do nhân duyên này, hay khiến cho các ông hiện nhận quả báo thù thắng. Nếu có Nhân Vương cung kính cúng dường Kinh Điển Kim Quang Minh Tối Thắng này thì các ông cần phải siêng năng gia thêm thủ hộ khiến được an ổn. Bốn Thiên Vương các ông với quyến thuộc khác, vô lượng vô số trăm ngàn Dược Xoa hộ trì Kinh này, tức là hộ trì Chính Pháp của chư Phật quá khứ hiện tại vị lai.
(như thế) Bốn Thiên Vương các ông với Thiên Chúng khác kèm với các Dược Xoa khi chiến đấu với A Tu La thời thường được thắng lợi. Nếu các ông hay hộ trì Kinh này, do sức của Kinh cho nên hay trừ mọi khổ, oán tặc, đói kém mất mùa với các bệnh dịch. Thế nên, các ông nếu thấy bốn Chúng thọ trì, đọc tụng Kinh Vương này thì cũng nên chuyên tâm cùng nhau gia thêm thủ hộ để trừ suy não, ban cho an vui”
Khi ấy, bốn Thiên Vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay cung kính, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Kim Quang Minh Tối Thắng Kinh Vương này, ở đời vị lai: nếu có cõi nước, thành ấp, thôn xóm, núi rừng, nơi hoang vắng… tùy theo nơi đã đến, khi lưu bày thời nếu có quốc vương kia đối với Kinh Điển này chí Tâm nghe nhận, khen ngợi, cúng dường lại cung cấp cho Cúng của bốn Bộ thọ trì Kinh này, thâm tâm ủng hộ, khiến lìa suy não. Do nhân duyên đó, Con hộ giúp cho vị vua ấy với các nhân chúng đều khiến an ổn, xa lìa lo khổ, tăng ích thọ mạnh, đầy đủ uy đức.
Thế Tôn! Nếu quốc vương ấy thấy người ở bốn Chúng thị trì Kinh, cung kính thủ hộ giống chư cha mẹ, thảy đều cung cấp tất cả thứ cần dùng thì bốn Thiên Vương chúng con thường làm thủ hộ, khiến cho các hữu tình không có ai chẳng tôn kính, Thế nên, chúng con cùng với vô lượng Dược Xoa, chư Thần tùy theo nơi lưu bày Kinh Vương này ẩn thân ủng hộ khiến cho không còn tai nạn. Cũng sẽ hộ niệm cho người, các quốc vương nghe Kinh này trừ suy nạn ấy đều khiến được an ổn, đều khiến cho oán tặc phương khác lui tan. Nếu có Nhân Vương lắng nghe Kinh này thời oán địch của nước lân cận dấy niệm như vầy: “Đem đủ bốn loại binh hoại quốc độ ấy”
Bạch Đức Thế Tôn! Do sức uy thần của Kinh Vương này, lúc đó oán địch của nước lân cận lần lượt có oán khác, khi đến xâm nhiễu cảnh giới ấy thì phần lớn bị các tai biến, bệnh dịch lưu hành. Khi vị vua nhìn thấy xong, liền nghiêm ngặt phát bốn loại binh hướng đến nước kia để thảo phạt. Khi ấy chúng con đem các quyến thuộc, vô lượng vô viên Dược Xoa, chư Thần đều tự ẩn hình hỗ trợ khiến cho oán địch kia tự nhiên hàng phục, còn chẳng dám đi đến biên giới nước ấy, há lại được có binh khí để chinh phạt sao?!...”
_Bấy giờ, Đức Phật bảo bốn Thiên Vương: “Lành thay! Lành thay! Bốn Thiên Vương các ông mới có thể ủng hộ Kinh Điển như vậy. Ta ở trăm ngàn câu chi na dữu đa kiếp quá khứ, tu các Khổ Hạnh được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, chứng Nhất Thiết Trí, nay nói Pháp này. Nếu có Nhân Vương thọ trì Kinh này, cung kính cúng dường sẽ được tiêu trừ suy hoạn, khiến cho an ổn. Cũng lại ủng hộ thành ấp, thôn xóm cho đến oán tặc đều khiến cho lui tan. Cũng khiến cho hết thảy các vị vua trong tất cả Thiệm Bộ Châu (Jambu-dvīpa) vĩnh viễn không có việc suy não đấu tranh
Bốn Thiên Vương nên biết ở Thiệm Bộ Châu này: tám vạn bốn ngàn thành ấp thôn xóm, tám vạn bốn ngàn các Nhân Vương đều ở nước của họ thọ nhận các khoái lạc đều được tự tại, hết thảy tài bảo thọ dụng dư thừa, chẳng xâm đoạt lẫn nhau, tùy theo Nhân đời trước mà nhận quả báo ấy, chẳng khởi niệm ác tham cầu nước khác, đều sinh Tâm ít muốn lợi lạc, không có đau khổ bởi sự chiến đấu cột trói. Người dân của đất nước ấy tự sinh yêu thích, trên dưới hòa thuận giống như nước với sữa, cảm thông yêu trọng lẫn nhau, vui vẻ dạo chơi đùa giỡn, Từ Bi khiêm nhượng, tăng trưởng căn lành, Do nhân duyên đó mà Thiệm Bộ Châu này được an ổn, vui sướng, sung túc. Người dân đông đầy, đất đai xốp mềm màu mỡ, nóng lạnh điều hòa, thời tiết chẳng rối loạn. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú theo quy luật cố định không có khuyết thiếu. Mưa gió thùy theo thời, lìa các tai hoạnh. Tài bảo, của cải riêng thảy đều dư đầy. Tâm không có keo kiệt hẹp hòi, thường thực hành Tuệ Thí, đầy đủ mười Nghiệp thiện. Nếu mạnh người kết thúc thì phần lớn sinh lên cõi Trời, tăng ích cho Thiên Chúng.
Này Đại Vương! Nếu đời vị lai có các Nhân Vương nghe nhận Kinh này, cung kính cúng dường kèm thọ trì Kinh này, tôn trọng ca ngợi Chúng của bốn Bộ, lại muốn an vui, nhiêu ích cho các ông với các quyến thuộc, vô lượng trăm ngàn các Dược Xoa Chúng. Bởi thế, vị vua ấy thường nên nghe nhận Kinh Vương màu nhiệm này, Do được nghe nước của Chính Pháp này, Cam Lộ thượng vị sẽ tăng ích cho thân tâm, thế lực của các ông, tinh tiến dũng mãnh, đều khiến cho tràn đầy Phước Đức, Uy Quang
Các Nhân Vương đó, nếu hay chí tâm nghe nhận Kinh này, tức làm cúng dường rộng lớn hiếm có, cúng dường Ta, Thích Ca Mâu Ni Ứng Chính Đẳng Giác. Nếu cúng dường Ta tức là cúng dường trăm ngàn câu chi na dữu đa Phật quá khứ vị lai hiện tại. Nếu hay cúng dường chư Phật ba đời tức được vô lượng nhóm Công Đức chẳng thể nghĩ bàn. Do nhân duyên này, các ông cần phải ủng hộ vị vua ấy, hậu phi, quyến thuộc khiến cho không có suy não với Thần cung trạch thường thọ nhận an vui, Công Đức khó nghĩ. Hết thảy người dân của các cõi nước ấy cũng thọ nhận mọi loại niềm vui của năm Dục, tất cả việc ác đều khiến tiêu sạch hết”
Lúc đó, bốn Thiên Vương bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Ở đời vị lai, nếu có Nhân Vương thích nghe Kinh Kim Quang Minh như vậy, vì muốn ủng hộ cho thân mình, hậu phi, vương tử cho đến các Cung Nữ trong Nội Cung, thành ấp, cung điện… đều được vui vẻ, vắng lặng, an lạc tối thượng bậc nhất chẳng thể nghĩ bàn. Ở trong đời hiện tại được ngôi vua (vương vị) tôn quý cao cả, tự tại hưng thịnh thường được tăng trưởng. Lại muốn nhiếp nhận vô lượng vô biên nhóm Phước khó nghĩ, ở cõi nước của mình khiến không có oán địch với các việc tai ách lo lắng bực bội.
Thế Tôn! Như vậy, Nhân Vương chẳng nên buông thả khiến Tâm tán loạn, nên sinh cung kính, chí thành, ân trọng, nghe nhận Kinh Vương tối thắng như vậy. Khi muốn nghe thời trước tiên trang nghiêm cung thất tối thượng, nơi rộng rãi thông thoáng mà vua yêu trọng, dùng nước thơm rưới vảy trên đất, rải mọi hoa đẹp thơm, an trí Pháp Tòa Sư Tử tối thắng, dùng các châu báu để trang sức, giăng bày mọi loại lọng, phướng, phan báu; đốt hương vô giá, tấu các âm nhạc. Lúc đó, vị vua ấy nên tắm gội sạch sẽ, dùng hương xoa bôi thân. Mặc áo sạch mới với đeo chuỗi Anh Lạc. ngồi ở tòa nhỏ thấp, chẳng sinh cao cả, buông bỏ địa vị tự tại, lìa các kiêu mạn, Tâm ngay thẳng chính niệm, lắng nghe Kinh Vương này. Ở chỗ của Pháp Sư khởi tưởng Đại Sư. Lại đối với hậu phi, vương tử, cung nữ, quyến thuộc trong cung, sinh Tâm Từ Mẫn, vui thích nhìn nhau, nét mặt hòa nhã, nói năng nhẹ nhàng, ở thân tâm của mình tràn khắp niềm vui. Tác niệm như vầy: “Nay Ta đắc được lợi ích thù thắng rộng lớn khó nghĩ bàn. Đối với Kinh Vương này nên cúng dường đầy đủ”
Đã xếp đặt xong, khi thấy Pháp Sư đến thời nên đứng dậy, khởi Tâm ngưỡng mộ thành kính”.
Bấy giờ, Đức Phật bảo bốn Thiên Vương: “Chẳng nên chẳng nghênh đón Pháp Sư như vậy. Lúc đó, Nhân Vương ấy nên mặc áo sạch mới không có vết dơ nào, dùng mọi loại Anh Lạc để nghiêm sức, tự cầm cái lọng trắng với đem hương hoa, chuẩn bị đầy đủ nghi lễ của quân đội, tấu bày đủ các âm nhạc, đi bộ ra khỏi thành khuyết, nghênh đón vị Pháp Sư ấy, vận tưởng cung kính làm việc cát tường.
Này bốn Thiên Vương! Do nhân duyên gì khiến cho Nhân Vương ấy đích thân làm cung kính cúng dường như vậy? Do Nhân Vương ấy nhấc chân lên, hạ chân xưống. mỗi một bước đi tức là cung kính, cúng dường, thừa sự, tôn trọng trăm ngàn vạn ức na dữu đa chư Phật Thế Tôn. Lại được vượt qua nỗi khổ trong kiếp số sinh tử như vậy. Lại ở đời sau trải qua kiếp số như vậy sẽ thọ nhận Tôn Vị thù thắng của Luân Vương. Tùy theo mỗi một bước đi ấy cũng ở đời này tăng trưởng Phước Đức, tự tại làm vua, cảm ứng khó nghĩ, được mọi người khâm phục tôn trọng, sẽ ở vô lượng trăm ngàn ức kiếp, trong cõi người, Trời thọ dụng cung điện bảy báu, tại nơi sinh ra thường được làm vua, tăng ích thọ mạng, ngôn từ biện luận thông suốt, người Trời tin nhận, không có chỗ sợ hãi, có danh tiếng lớn, (mọi người) đều cùng nhau chiêm ngưỡng. Trên Trời, trong cõi người thọ nhận niềm vui thắng diệu, được thế Đại Lực, có uy đức lớn, thân tướng kỳ diệu đoan nghiêm không gì so sánh được. Gặp Thiên Nhân Sư (Śāstā-deva-manuṣyāṇāṃ), gặp Thiện Tri Thức (Kalyāṇa-mitra), thành tựu đầy đủ vô lượng nhóm Phước.
Bốn Thiên Vương nên biết, các Nhân Vương ấy thấy mọi loại Công Đức lợi ích vô lượng như vậy, cho nên tự đi phụng đón vị Pháp Sư, Hoặc một du thiện na, cho đến một trăm du thiện na, đối với vị Pháp Sư nên sinh tưởng là Đức Phật. Rồi quay về thành, tác niệm như vầy: “Hôm này Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác vào trong cung của Ta, nhận sự cúng dường của ta, vì ta nói Pháp. Ta nghe Pháp xong tức đối với A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác) chẳng thoái lùi nữa, tức là gặp thẳng trăm ngàn vạn ức na dữu đa chư Phật Thế Tôn. Ta ở ngày nay tức là mọi loại nhạc cụ thù thắng thượng diệu rộng lớn cúng dường chư Phật quá khứ vị lai hiện tại. Ta ở ngày nay tức là vĩnh viễn nhổ bứt nỗi khổ của cõi Diêm Ma Vương (Yama-rāja), Địa Ngục, Quỷ đói, bàng sinh, liền gieo trồng hạt giống căn lành của vô lượng trăm ngàn vạn ức Chuyển Luân Thánh Vương, Thích Phạm Thiên Chủ, sẽ khiến cho vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh ra khỏi nỗi khổ của sinh tử, được niềm vui của Niết Bàn, gom chứa vô lượng vô biên nhóm Phước Đức chẳng thể nghĩ bàn. Hậu Cung, quyến thuộc với các người dân đều được an ổn, cõi nước thanh tịnh bình an, không có các tai ách, độc hại, người ác, oán địch phương khác chẳng đến xâm nhiễu, xa lìa sự lo lắng”.
Bốn Thiên Vương nên biết, Nhân Vương ấy nên làm như vậy: tôn trọng Chính Pháp cũng đối với Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca trọ trì Kinh Điển màu nhiệm … cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi. Căn lành đã đạt được, trước tiên dùng Thắng Phước cúng thí cho các ông với các quyến thuộc. Vị Nhân Vương ấy có nhân duyên, nghiệp Thiện, Phước Đức lớn ở trong đời này được đại tự tại, tăng ích uy quang, tướng màu nhiệm cát tường thảy đều trang nghiêm. Dùng Chính Pháp hay tồi phục tất cả oán địch”.
Khi ấy, bốn Thiên Vương bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu có Nhân Vương hay làm như vầy: cung kính Chính Pháp, lắng nghe Kinh Vương này, kèm với bốn Chúng, người trì Kinh… cung kính, cúng dường. tôn trọng, khen ngợi. Thời vị Nhân Vương ấy muốn làm cho chúng con sinh vui vẻ, nên ở một bên, gần với Pháp Tòa dùng nước thơm rưới vảy đất, rải mọi hoa tươi đẹp, an trí nơi chốn, dựng bày tòa của bốn Thiên Vương. Con cùng với vị vua ấy cùng nghe Chính Pháp, hết thảy căn lành tự lợi của vị vua ấy cũng đem phần Phước cúng thí cho chúng con
Bạch Đức Thế Tôn! Vị Nhân Vương ấy thỉnh người thuyết Pháp, khi lên trên Tòa, liền vì chúng con đốt mọi hương thơm tốt cúng dường Kinh này
Thế Tôn! Khi khói hương ấy ở khoảng một niệm, bay lên hư không liền đến cung điện của chúng con với chư Thiên. Ở trong hư không biến thành cái lọng hương, Thiên Chúng chúng con ngửi mùi hương màu nhiệm ấy, Hương có ánh sáng vàng ròng chiếu sáng cung điện mà chúng con cư ngụ, cho đến nơi cư trú của Phạm Thiên (Brahma) cùng với Đế Thích (Indra), Đại Biện Tài Thiên (Sarasvatī), Đại Cát Tường Thiên (Mahā-śrī-devī), Kiên Lao Địa Thần (Dṛḍha-pṛthivī), Chính Liễu Tri Đại Tướng (Saṃjñeya), các Dược Xoa Thần của hai mươi tám Bộ, Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara), Kim Cương Mật Chủ (Vajra-guhyādhipati), Bảo Hiền Đại Tướng (Maṇi-bhadra), năm trăm quyến thuộc của Ha Lợi Để Mẫu (Hārīti), Vô Nhiệt Não Trì Long Vương (Anavatapta-nāgarāja), Đại Hải Long Vương (Mahā-sāgara-nāgarāja)
Thế Tôn! Nhóm chúng như vậy ở cung điện của mình, thấy khói hương ấy trong khoảng một sát na biến thành cái lọng hương, ngửi mùi hương thơm phức, nhìn ánh sáng màu sắc, đến khắp tất cả cung của các Thiên Thần”
Đức Phật bảo bốn Thiên Vương: “Ánh sáng của hương đó chẳng phải chỉ đến cung điện này, biến thành thành cái lọng hương phóng ánh sáng lớn. Do khi vị Nhân Vương kia tay bưng lò hương, đốt mọi hương thơm tốt cúng dường Kinh thời hơi khói hương ấy ở khoảng một niệm đến khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, trăm ngàn mặt trời mặt trăng, trăm ức Diệu Cao Sơn Vương, trăm ức bốn châu. Ở ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này: tất cả cung điện của Trời, Rồng, Dược Xoa, Kiện Thát Bà, A Tô La, Yết Lộ Trà, Khẩn Na La, Mạc Hô La Già… trụ tràn đầy ở trong không trung, mọi loại khói hương biến thành cái lọng mây. Cái lọng ấy màu vàng ròng chiếu khắp cung Trời. Như vậy ba ngàn Đại Thiên Thế Giới: hết thảy mọi loại, mây hương, lọng hương đều là sức uy thần của Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương. Khi các Nhân Vương đó tay bưng lò hương thời mọi loại hơi thơm chẳng phải chỉ đến ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này, ở khoảng một niệm cũng tràn khắp vô lượng vô biên hằng hà sa đẳng trăm ngàn vạn ức cõi nước của chư Phật ở mười phương. Trong hư không ở trên chư Phật biến thành cái lọng hương tỏa sánh sáng vàng ròng soi chiếu khắp cũng lại như vậy.
Khi chư Phật ấy ngửi thấy hương màu nhiệm này, nhìn cái lọng mây với màu vàng ròng này, thời hằng ha sa đẳng chư Phật Thế Tôn ở mười phương giới hiện Thần Biến xong. Các Thế Tôn ấy đều cùng nhau quán sát, khác miệng đồng âm khen vị Pháp Sư rằng: “Lành thay! Lành thay Đại Trượng Phu! Ông hay rộng lưu bày Kinh Điển vi diệu thâm sâu như vậy, tức làm thành tựu vô lượng vô biên nhóm Phước Đức chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có người lắng nghe Kinh như vậy thì Công Đức đạt được có số lượng rất nhiều huống chi là viết chép, thọ trì, đọc tụng, vì người khác diễn bày, như Thuyết tu hành. Tại sao Thế? Thiện Nam Tử! Nếu có chúng sinh nghe Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này tức đối với A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề chẳng thoái lùi nữa”.
Khi ấy, Mười phương có trăm ngàn câu chi na dữu đa vô lượng vô số hằng hà sa đẳng cõi nước của chư Phật. Tất cả Như Lai ở các cõi nước ấy, khác miệng đồng âm, ở trên Pháp Tòa khen vị Pháp Sư kia rằng: “Lành thay! Lành thay Thiện Nam Tử! Ông ở đời sau, do sức tinh cần, sẽ tu vô lượng trăm ngàn Khổ Hạnh (Duṣkara-caryā), đầy đủ tư lương (Sambhāra) vượt hơn các Thánh Chúng, vượt qua ba cõi làm Tối Thắng Tôn, sẽ ngồi dưới cây vua Bồ Đề thù thắng trang nghiêm, hay cứu chúng sinh có duyên trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, khéo hay tồi phục các quân chúng Ma có hình dạng đáng sợ, hiểu thấu các Pháp, Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề tối thắng thanh tịnh thâm sâu. Thiện Nam Tử! Ông sẽ ngồi ở tòa Kim Cương, chuyển bánh xe Pháp mười hai Diệu Hành thâm sâu mà chư Phật vô thượng đã khen ngợi, hay đáng trống Pháp vô thượng cực lớn, hay thổi loa Pháp vô thượng cực mầu nhiệm, hay dựng phướng Pháp vô thượng thù thắng, hay thắp đuốc Pháp vô thượng cực sáng, hay tuôn mưa Pháp Cam Lộ vô thượng, hay chặt đứt phiền não oán khết, hay khiến cho vô lượng trăm ngàn vạn ức na dữu đa hữu tình vượt qua biển lớn đáng sợ không có bờ mé, giải thoát luân hồi sinh tử không có bờ mé, gặp thẳng vô lượng trăm ngàn vạn ức na dữu đa Phật”
Bấy giờ, bốn Thiên Vương lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này hay ở vị lai, hiện tại thành tựu vô lượng Công Đức như vậy. Thế nên, Nhân Vương nếu được nghe Kinh Điển vi diệu này, tức là đã ở chỗ của trăm ngàn vạn ức vô lượng Phật gieo trồng các căn lành. Đối với Nhân Vương ấy, con sẽ hộ niệm. Lại thấy vô lượng Phước Đức, lợi ích cho nên bốn Thiên Vương chúng con với quyến thuộc khác, vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Thần ở cung điện của mình, khi nhìn thấy mọi loại Thần Biến của khói hương, lọng mây thời con sẽ ẩn che, chẳng hiện thân ấy. Vì nghe Pháp cho nên sẽ đến nơi giảng Pháp đã được nghiêm sức thanh tịnh tại cung điện của vị vua đó. Như vậy cho đến Phạm Thiên (Brahma), Đế Thích (Indra), Đại Biện Tài Thiên (Sarasvatī), Đại Cát Tường Thiên (Mahā-śrī-devī), Kiên Lao Địa Thần (Dṛḍha-pṛthivī), Chính Liễu Tri Thần Đại Tướng (Saṃjñeya), Các Dược Xoa Thần của hai mươi tám Bộ, Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara), Kim Cương Mật Chủ (Vajra-guhyādhipati), Bảo Hiền Đại Tướng (Maṇi-bhadra), năm trăm quyến thuộc của Ha Lợi Để Mẫu (Hārīti), Vô Nhiệt Não Trì Long Vương (Anavatapta-nāgarāja), Đại Hải Long Vương (Mahā-sāgara-nāgarāja)… nhóm Chúng như vậy vì nghe Pháp cho nên đều chẳng hiện thân, đến nơi thuyết Pháp ở tòa cao trang nghiêm tại cung điện thù thắng của Nhân Vương ấy
Thế Tôn! Bốn Thiên Vương chúng con với quyến thuộc khác, Dược Xoa, chư Thần đều sẽ một lòng cùng với vị Nhân Vương ấy làm Thiện Tri Thức. Nhân vào Thí Chủ (Dāna-pati) Đại Pháp vô thượng này, dùng vị Cam Lộ đầy đủ nơi con. Thế nên chúng con ủng hộ vị vua đó trừ bỏ suy hoạn khiến được an ổn với cung điện., thành ấp, cõi nước của vị vua ấy thảy đều khiến tiêu diệt các tai biến ác”
Lúc đó, bốn Thiên Vương đều cùng chắp tay bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu có Nhân Vương ở cõi nước ấy, tuy có Kinh nhưng chưa thường lưu bày, sinh Tâm buông lìa, chẳng ưa thích nghe, cũng chẳng cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Thấy bốn Bộ Chúng, người trì Kinh lại cũng chẳng hay tôn trọng, cúng dường… Cho nên khiến chúng con với quyến thuộc khác, vô lượng chư Thiên chẳng được nghe Pháp màu nhiệm thâm sâu này, bỏ mất vị Cam Lộ, đánh mất dòng Chính Pháp, không có uy quang cùng với thế lực, tăng trưởng nẻo ác, tổn giảm người Trời, rơi vào con sông sinh tử, trái nghịch với đường Niết Bàn.
Thế Tôn! Bốn Thiên Vương chúng con kèm với các quyến thuộc, các hàng Dược Xoa thấy việc như thế thì buông bỏ cõi nước ấy, không có Tâm ủng hộ. Chẳng phải chỉ có chúng con vứt bỏ vị vua này, cũng có vô lượng các Đại Thiện Thần thủ hộ cõi nước thảy đều bỏ đi. Đả buông lìa xong thì nước ấy sẽ có mọi loại tai họa, địa vị của nước mất đi, tất cả mọi người đều không có Tâm thiện, chỉ có sự trói buộc, giết hại, giận dữ tranh đoạt, nói xấu lừa dối lẫn nhau, với người không có tội bị xử oan ức, bệnh dịch lưu hành, sao chổi (Tuệ Tinh) hiện ra, hai mặt trời cùng hiện, nhật thực nguyệt thực không có bình thường, hai cầu vồng đen trắng biểu thị cho tướng chẳng lành, sao rơi, động đất, trong giếng phát ra tiếng, mưa mạnh bạo gió ác chẳng y theo thời tiết, thường gặp đói kém mất mùa, mầm non quả trái chẳng thành, có nhiều oán tặc ở phương khác xâm lược, người dân trong nước chịu các khổ não, đất nước không có nơi nào có thể an vui
Thế Tôn! Bốn Thiên Vương chúng con cùng với vô lượng trăm ngàn Thiên Thần và các Thiện Thần xưa kia hộ giúp đất nước… khi bỏ đi xa thời sinh ra vô lượng trăm ngàn việc ác, tai quái như vậy
Thế Tôn! Nếu có Nhân Vương muốn giữ gìn cõi nước, thường thọ nhận khoái lạc, muốn khiến cho chúng sinh đều được an ổn, muốn được tồi phục tất cả kẻ địch bên ngoài, ở đất nước của mình vĩnh viễn được hưng thịnh, muốn khiến cho Chính Pháp lưu bày ở Thế Gian, đều trừ diệt Pháp ác, khổ não.
Thế Tôn! Các Quốc Chủ đó đều nên nghe nhận Kinh Vương màu nhiệm này, cũng nên cung kính, cúng dường, đọc tụng, thọ trì Kinh thời chúng con với vô lượng Thiên Chúng khác do uy lực của căn lành nghe Pháp đấy, được uống vị Pháp Cam Lộ vô thượng, tăng ích cho hết thảy quyến thuộc của chúng con với các Thiên Thần khác đều được lợi ích thù thắng. Tại sao thế? Do Nhân Vương đó chí Tâm nghe nhận Kinh Điển này.
Thế Tôn! Như Đại Phạm Thiên đối với các hữu tình thường vì họ tuyên nói Luận (Śāstra) Thế (Loka) Xuất Thế (Lokottara). Đế Thích lại nói mọi loại các Luận (Śāstra). Ngũ Thông Tiên cũng nói các Luận
Thế Tôn! Phạm Thiên, Đế Thích, Ngũ Thông Tiên Nhân tuy có trăm ngàn câu chi na dữu đa các Luận. Nhưng Đức Phật Thế Tôn Từ Bi thương xót vì chúng Người, Trời nói Kinh Điển Kim Quang Minh vi diệu. Đem so với điều đã nói lúc trước thì hơn hẳn điều ấy gấp trăm ngàn câu chi na dữu đa lần, chẳng thể ví dụ. Tại sao thế? Do điều này hay khiến cho hết thảy hàng vua chúa ở các Thiệm Bộ Châu dùng Chính Pháp cảm hóa Thế Gian, hay cho chúng sinh việc an vui, hộ giúp cho thân của mình với các quyến thuộc khiến cho không có khổ não. Lại không có oán tặc phương khác xâm hại, hết thảy các ác thảy đều đi xa, cũng khiến cho đất nước trừ khử được tai ách, dùng Chính Pháp giáo hóa không có tranh đấu kiện tụng. Bởi thế, Nhân Vương đều ở các cõi nước nên thắp cây đuốc Pháp chiếu sáng vô biên, tăng ích cho Thiên Chúng với các quyến thuộc.
Thế Tôn! Bốn Thiên Vương chúng con, vô lượng Thiên Thần, chúng Dược Xoa, hết thảy Thiên Thần trong Thiệm Bộ Châu… do nhân duyên này được uống vị Pháp Cam Lộ vô thượng, được đại uy đức, thế lực, ánh sáng không có gì chẳng đầy đủ, tất cả chúng sinh đều được an ổn. Lại ở đời sau: trong trăm ngàn chẳng thể nghĩ bàn na dữu đa kiếp thường thọ nhận khoái lạc, lại được gặp thẳng vô lượng chư Phật, gieo trồng các căn lành, sau đó chứng được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Vô lượng vô biên thắng lợi như vậy đều là Đức Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác dùng Đại Từ Bi hơn hẳn các Phạm Chúng, dùng Đại Trí Tuệ dạo nơi Đế Thích, tu các Khổ Hạnh hơn hẳn Ngũ Thông Tiên… gấp trăm ngàn vạn ức na dữu đa lần chẳng thể xưng tính. Vì các chúng sinh diễn nói Kinh Điển vi diệu như vậy, khiến cho tất cả quốc chủ với các nhân chúng trong Thiệm Bộ Châu hiểu rõ hết thảy Pháp Thức của Thế Gian, trị quốc, cảm hóa người, khuyên làm việc Đạo.
Do sức lưu thông của Kinh Vương này, cho nên khắp nơi được an vui. Nhóm Phước Lợi này đều là sức Từ Bi của Đức Thích Ca Đại Sư đối với Kinh Điển này rộng bày lưu thông
Thế Tôn! Do Nhân Duyên này, các hàng Nhân Vương đều nên thọ trì, cung kính, cúng dường, khen ngợi Kinh Vương màu nhiệm này. Tại sao thế? Do Công Đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn của nhóm như vậy lợi ích cho tất cả. Thế nên gọi là Tối Thắng Kinh Vương”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo bốn Thiên Vương: “Bốn Thiên Vương các ông với quyến thuộc khác, vô lượng trăm ngàn câu chi na dữu đa chư Thiên, Đại Chúng… thấy vị Nhân Vương ấy, nếu hay chí Tâm lắng nghe Kinh Điển này, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi… thì cần phải ủng hộ trừ suy hoạn cho vị ấy, ắt hay khiến cho các ông cũng thọ nhận an vui. Nếu bốn Bộ Chúng hay rộng lưu bày Kinh Vương này, ở trong người Trời rộng làm Phật Sự, hay lợi ích khắp cho vô lượng chúng sinh. Người như vậy thời bốn Thiên Vương các ông thường nên ủng hộ. Bốn Chúng như vậy, đừng khiến cho duyên khác cùng nhau xâm nhiễu, khiến cho thân tâm của người ấy được vắng lặng, an vui. Đối với Kinh Vương này, rộng tuyên lưu bày khiến cho chẳng đoạn tuyệt, lợi ích cho hữu tình tận bờ mé vị lai”
Khi ấy, Đa Văn Thiên Vương (Vaiśravaṇa) từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con có Pháp Như Ý Bảo Châu Đà La Ni. Nếu có chúng sinh ưa thích thọ trì thì Công Đức vô lượng, con thường ủng hộ khiến cho chúng sinh ấy lìa khổ được vui, hay thành hai loại tư lương Phước (Puṇya) Trí (Jñāna). Người muốn thọ trì, trước tiên nên tụng Chú Hộ Thân này.
Liền nói Chú là:
“Nam mô bệ thất la mạt noa dã, mạc ha hạt la xà dã. Đát điệt tha: la la la la, củ nộ củ nộ, khu nộ khu nộ, lâu nộ lâu nộ, táp phộc táp phộc, yết la yết la, mạc ha tỳ yết lạt ma, mạc ha tỳ yết lạt ma, mạc ha hạt la xã, hạt lạc xoa, hạt lạc xoa, đổ mạn (tự xưng tên của mình) tát bà tát đỏa nan giả, toa ha”
*) NAMO VAIŚRAVAṆĀYA MAHĀ-RĀJĀYA
TADYATHĀ: RARA RARA, KUṆU KUṆU, KHUṆU KHUṆU, LŪṆU LŪṆU, SAPA SAPA, KARA KARA, MAHĀ-VIKRAMA MAHĀ-VIKRAMA, MAHĀ-RĀJĀYA, RAKṢA RAKṢA TUMAṂ (…) SARVA-SATVĀNĀṂCA SVĀHĀ
Thế Tôn! Người tụng Chú này nên dùng sợi dây trắng, Chú vào bảy biến, một biến thắt một gút rồi cột buộc sau khuỷu tay. Việc ấy thành xong, nên lấy các thứ hương là: An Tức (Guggulu, hay Gulguru), Chiên Đàn (Candana), Long Não (Karpūra), Tô Hợp (Turuṣka), Đa Yết La (Tagaraka), Huân Lục (Kundurnka) đều chia phần bằng nhau hòa hợp một chỗ. Tay bưng lò hương, đốt hương cúng dường, tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch mới, ở trong một Tịnh Thất có thể tụng Thần Chú thỉnh con Bệ Thất La Mạt Noa Thiên Vương (Vaiśravaṇa)
Liền nói Chú là:
“Nam mô bệ thất la mạt noa dã. Nam mô đàn na đà dã, đàn nê thuyết la dã, a yết xả, a bát lại nhĩ đá, đàn nê thuyết la, bát la ma ca lưu ni ca, tát bà tát đỏa, hứ đá, chấn đá, ma ma (dùng tên gọi…) đàn na mạt nô bát lạt duệ xả, toái diêm ma yết xả, toa ha”
*)NAMO VAIŚRAVĀṆĀYA
NAMO DHANADĀYA DHANEŚVARĀYA
ĀKARṢA APARAMITA DHANEŚVARA PARAMA-KĀRUṆĪKA SARVA-SATVA HĪTA CITTA MAMA (…) DHANA MANU-PRAYACCHA SVAYAM ĀKARṢA SVĀHĀ
Chú này, tụng đủ bảy biến xong, tiếp theo tụng Bản Chú. Khi muốn tụng Chú thời trước tiên nên xưng tên, kính lễ Tam Bảo với Bệ Thất La Mạt Noa Thiên Vương. Hay bố thí tài vật khiến cho đầy đủ nguyện mà các chúng sinh đã mong cầu, đều hay thành tựu cho họ an vui. Như vậy lễ xong, tiếp theo tụng Như Ý Ma Ni Bảo Tâm Thần Chú của Bệ Thất La Mạt Noa Thiên Vương hay ban cho chúng sinh tùy theo ý an vui”.
Lúc đó, Đa Văn Thiên Vương liền ở trước mặt Đức Phật nói Như Ý Mạt Ni Bảo Tâm Chú là:
“Nam mô hạt lạt đát na, đát lạt dạ dã. Nam mô bệ thất la mạt noa dã, mạc ha la xà dã. Đát điệt tha: tứ nhĩ tứ nhĩ, tô mẫu tô mẫu, chiên trà chiên trà, chiết la chiết la, tát la tát la, yết la yết la, chỉ lý chỉ lý, củ lỗ củ lỗ, mẫu lỗ mẫu lỗ, chủ lỗ chủ lỗ, sa đại dã, ngạch tham (Tên tôi là….) nật điếm, át tha, đạt đạt đổ toa ha. Nam mô bệ thất la mạt noa dã, toa ha. Đàn na đà dã, toa ha. Mạn nô lạt tha, bát lợi bô lạt ca dã, toa ha”
*) NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMO VAIŚRAVAṆĀYA MAHĀ-RĀJĀYA
TADYATHĀ: SIDDHI SIDDHI, SUMU SUMU, CAṆḌA CAṆḌA, CARA CARA, SARA SARA, KARA KARA, KIRI KIRI, KURU KURU, MURU MURU, CURU CURU, SĀDHAYA ĀTMĀNĀṂ (…) NITYAM-ARTHA DHĀTVA SVĀHĀ
NAMO VAIŚRAVAṆĀYA SVĀHĀ
DHANADĀYA SVĀHĀ
MANORATHA PARIPŪRAKĀYA SVĀHĀ
Khi trì Chú này thời trước tiên tụng một ngàn biến, sau đó ở trong Tịnh Thất dùng Cồ Na (Gomayī: phân bò) xoa tô mặt đất, làm cái Đàn Trường nhỏ, tùy theo thời ăn uống, một lòng cúng dường, thường đốt hương thơm tốt khiến cho khói chẳng dứt, tụng Tâm Chú lúc trước, ngày đêm cột buộc Tâm, chỉ lỗ tai của mình nghe, đừng khiến cho người khác hiểu.
Thời có con vua Bệ Thất La Mạt Noa tên là Thiền Nị Sư (?Śaṇḍika) hiện hình Đồng Tử (Kumāra) đi đến chỗ của người ấy hỏi rằng: “Cần điều gì mà hô gọi cha của Ta?” Liền có thể nói: “Tôi vì cúng dường việc của Tam Bảo nên cần tài vật. Nguyện hãy ban cho”
Khi Thiền Nị Sư nghe lời nói này xong, liền quay về chỗ của cha, bạch với cha rằng: “Nay có Thiện Nhân phát Tâm chí thành cúng dường Tam Bảo, vì thiếu thốn tài vật nên làm Thỉnh Triệu này”
Người cha (tức Đa Văn Thiên Vương) ấy bảo rằng: “Ngươi có thể mau chóng, một ngày cho kẻ ấy một trăm Ca Lợi Sa Ba Noa (Kārṣāpaṇa. Đây là Phạn Âm căn bản, còn gọi là Bối Xỉ nên tùy theo phương chẳng nhất định. Hoặc là Bối Xỉ hoặc là nhóm tiền: vàng, bạc, đồng, sắt. Nhưng hiện nay Ma Yết Đà (Magadha) thông dụng một Ca Lợi Sa Ba Noa có 1600 Bối Xỉ, tổng số có thể dựa theo mà biết, Nếu dựa theo giá trị của vật thì tùy theo nơi chốn chẳng nhất định. Nếu người trì Chú được thành tựu, khi được vật thời tự biết số ấy. Có bản nói rằng: mỗi ngày ban cho 100 Trần Na La tức tiền vàng vậy, cho đến suốt đời, ngày ngày thường được. Người ở phương Tây cầu xin, phần lớn có Thần Nghiệm, trừ kẻ chẳng chí Tâm)
Người trì Chú ấy thấy tướng đó xong thì biết việc được thành, cần phải ở một mình trong Tịnh Thất, đốt hương rồi nằm, có thể ở bên giường để một hộp hương, mỗi lần đến sáng sớm, nhìn vào trong cái hộp ấy sẽ được vật đã mong cầu. Mỗi khi được vật thời ngay trong ngày liền nên cúng dường Tam Bảo, hương hoa, thức ăn uống kèm với cho người nghèo túng, đều khiến cho sạch hết, chẳng được lưu giữ. Đối với các hữu tình khởi niệm Từ Bi, đừng sinh Tâm giận dữ, lừa dối, gây hại, Nếu dấy lên giận dữ liền mất Thần Nghiệm, thường có thể hộ giữ Tâm đứng khiến cho giận dữ.
Lại có người trì Chú, ở trong mỗi ngày thường nhớ đến Ta, Đa Văn Thiên Vương với nam nữ quyến thuộc, xưng dương khen ngợi. Luôn dùng mười Thiện cùng nhau tương trợ, khiến cho Phước Lực của hàng Trời ấy tăng thêm sáng tỏ đến khắp mọi Thiện, chứng nơi Bồ Đề. Các Thiên Chúng ấy thấy việc này xong đều rất vui vẻ, cùng nhau đi đến giúp dỡ bảo vệ người trì Chú.
Lại người trì Chú được thọ mạng lâu dài, trải qua vô lượng tuổi, lìa hẳn ba đường ác (tam đồ), thường không có tai ách. Cũng khiến cho được viên ngọc báu Như Ý (Cintā-maṇi) cùng với Phục Tàng (kho tàng bị che lấp), Thần Thông tự tại, điều cầu nguyện đều thành. Nếu cầu vinh dự, quan tước (quan vinh) thì không có gì chẳng xứng ý, cũng hiểu ngôn ngữ của tất cả cầm thú.
Thế Tôn! Nếu khi trì Chú, muốn được thấy con (Đa Văn Thiên Vương) tự hiện thân thời có thể ở ngày 8 hoặc ngày 14 của tháng, vẽ hình tượng Phật ở trên vải lụa trắng, nên dùng nhựa cây, mọi màu sắc tô điểm. Người vẽ Tượng ấy thọ nhận tám Giới. Ở bên trái Đức Phật vẽ tượng Cát Tường Thiên Nữ (Śrī-devī). Ở bên Phải Đức Phật vẽ con, tượng Đa Văn Thiên kẻm vẽ loại nam nữ quyến thuộc, an trí chỗ ngồi đều khiến như Pháp, xếp bày hoa màu, đốt mọi hương thơm tốt, thắp đèn sáng liên tục, ngày đêm không tắt. Bày thức ăn thượng diệu, mọi thứ trân kỳ, phát Tâm ân trọng, tùy theo thời cúng dường, thọ trì Thần Chú, Tâm chẳng được khinh suất.
Khi thỉnh triệu con thời nên tụng Chú này:
“Nam mô thất lợi kiện na dã, bột đà dã. Nam mô bệ thất la mạt noa dã, dược xoa la xà dã, mạc ha la xà, a địa la xà dã. Nam ma thất lợi gia duệ, mạc ha đề tệ duệ. Đát điệt tha: đát la đát la, đốt lỗ đốt lỗ, mạt la mạt la, tể suất thổ, tể suất thổ, hán na hán na, mạt ni, yết nặc ca, bạt chiết la, bệ lưu ly dã, mục để la lăng cật lật đá, thiết lợi la duệ bồ, tát bà tát đỏa, hứ đá, ca ma, bệ thất la mạt noa, thất lợi dạ đề tỳ, bạt lạp bà dã, y hứ y hứ, ma tỳ lam bà, cồ lật noa cồ lật noa, vị lạt sa, vị lạt sa, đạt đà hứ, ma ma, a mục ca na mạt tả (tự xưng tên của mình) viễn lý thiết na, ca mạt tả, đạt lý thiết nam, ma ma, mạt na, bát lạt hạt la đại dã, toa ha”
*)NAMO ŚRĪ-GAṆĀYA-BUDDHĀYA
NAMO VAIŚRVAVAṆĀYA- YAKṢA-RĀJĀYA MAHĀ-RĀJĀ ADHIRĀJĀYA
NAMAḤ ŚRĪYA-DEVYE
TADYATHĀ: TĀRA TĀRA, TURU TURU, BALA BALA, SUSIDDHI SUSIDDHI, MAṆI, KANAKA, VAJRA, VAIḌŪRYA, MUKTIKA, ALAṂKṚTA, ŚARĪRAYE BHŪḤ, SARVA-SATVA HĪTA KĀMA VAIŚRAVAṆA ŚRĪYA-DEVĪ PRABHĀYA EHYEHI MAVILAMBA, GṚHṆA GṚHṆA, VIRASA VIRASA, DĀDĀ HI MAMA, AMOGHA-NĀMAṢYA (…) DARŚANA KĀMAṢYA, DARŚANĀṂ MAMA-MĀNA, PRAKRADĀYA SVĀHĀ
Thế Tôn! Nếu con thấy người tụng Chú này, lại thấy cúng dường đầy đủ như vậy, tức sinh Tâm Từ Ái vui vẻ. Con liền biến thân làm hình đứa trẻ, hoặc người già, vị Bật Sô (Bhikṣu: Tỳ Kheo) tay cầm viên ngọc báu Ma Ni kèm cầu cái túi vàng đi vào trong Đạo Trường, thân hiện cung kính, miệng xưng tên Phật, bảo người trì Chú: “Tùy theo ngươi đã mong cầu, đều khiến như Nguyện. Hoặc ẩn ở rừng, đầm. Hoặc làm viên ngọc báu, hoặc muốn mọi người yêu chuộng, Hoặc cầu nhóm vật vàng bạc. Muốn trì các Chú đều khiến có hiệu nghiệm. Hoặc muốn Thần Thông, thọ mạng lâu dài với niềm vui thắng diệu thì không có gì chẳng xứng Tâm”.
Nay con lại nói việc như vậy. Nếu cầu điều khác thì tùy theo ước nguyện đều được thành tựu, Kho báu không tận, Công Đức không cùng. Giả sử mặt trời mặt trăng rơi xuống đất, hoặc có thể Đại Địa có lúc di chuyển. Lời chân thật này của con, cuối cùng chẳng hư dối, thường được an ổn, tùy theo Tâm khoái lạc.
Thế Tôn! Nếu có người hay thọ trì, đọc tụng Kinh Vương này, khi tụng Chú thời chẳng lao nhọc mà Pháp mau thành tựu.
Thế Tôn! Nay con vì chúng sinh nghèo túng, khốn ách, khổ não nói Thần Chú này khiến được lợi lớn, đều được giàu có vui sướng tự tại không có tai vạ, cho đến suốt đời, con sẽ ủng hộ, đi theo người này để trừ tai ách, cũng lại khiến cho người trì Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này lưu thông, với người trì Chú ở bên trong một trăm bước, ánh sáng chiếu soi. Hết thảy chư Thiên, Dược Xoa Thần của con cũng thường hộ vệ, tùy muốn sai khiến, không có gì chẳng toại Tâm. Con nói lời chân thật không có hư dối, chỉ có Đức Phật chứng biết”
Khi Đa Văn Thiên Vương nói Chú này xong thì Đức Phật bảo: “Lành thay Thiên Vương! Ông hay xé rách lưới khổ đau, nghèo túng của tất cả chúng sinh khiến được giàu có vui sướng, Lại khiến cho Kinh này lưu hành rộng ờ đời”
Thời bốn Thiên Vương đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở một bên vai, đỉnh lễ hai bàn chân của Đức Phật, quỳ gối phải sát đất, chắp tay cung kính, dùng Diệu Già Tha, khen Công Đức của Phật:
“Mặt Phật như trăng tròn thanh tịnh
Như ngàn mặt trời phóng ánh sáng
Mắt trong dài rộng như sen xanh
Răng trắng khít đều giống Kha Tuyết
Công Đức của Phật như biển lớn
Trong ấy chứa vô lượng Diệu Bảo
Luôn đầy nước Công Đức, Trí Tuệ
Trăm ngàn Thắng Định đều tràn đầy
Dưới chân: tướng bánh xe nghiêm sức
Đùm, vành, ngàn căm đều ngang bằng
Trai chân màng mỏng trang nghiêm khắp
Giống như ngỗng chúa (nga vương) đầy đủ tướng
Thân Phật tỏa sáng như núi vàng
Thanh tịnh thù đặc không gì sánh
Cũng như Diệu Cao (Sumeu: núi Tu Di) đủ Công Đức
Nên con cúi lạy Phật Sơn Vương
Tướng tốt như hư không khó lường
Dạo nơi Thiên Nguyệt (một ngàn mặt trăng) phóng ánh sáng
Đều như lửa huyễn khó nghĩ bàn
Nên con cúi lạy Tâm Vô Trước”
Khi bốn Thiên Vương khen ngợi Đức Phật xong, thì Đức Phật cũng dùng Già Tha (Gāthā: Kệ Tụng) trả lời rằng:
“Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng này
Nơi Vô Thượng Thập Lực (tức Đức Phật) đã nói
Bốn vua các ông thường ủng hộ
Nên sinh Tâm dũng mãnh chẳng lui
_Báu Diệu Kinh này rất thâm sâu
Hay ban vui cho các hữu tình
Do hữu tình ấy an vui nên
Thường được lưu thông Thiệm Bộ Châu
_Ở trong Đại Thiên Thế Giới này
Hết thảy tất cả loài hữu tình
Quỷ đói, Bàng Sinh với Địa Ngục
Nẻo khổ như vậy thảy đều trừ
_Các quốc vương trụ Nam Châu (Nam Thiệm Bộ Châu) này
Với tất cả loài hữu tình khác
Do uy lực Kinh thường vui vẻ
Đều nương ủng hộ được an ninh
_Cũng khiến các hữu tình trong đây
Trừ mọi bệnh khổ, không trộm cướp
Nhờ cõi nước này rộng truyền Kinh
An ổn, giàu vui không phiền não
_Nếu người nghe nhận Kinh Vương này
Muốn cầu tôn quý với tài lợi
Cõi nước giàu vui, không tranh đấu
Tùy Tâm ước nguyện thảy đều theo
_Hay khiến giặc phương khác lui tan
Ở đất nước mình thường an ổn
Do sức Tối Thắng Kinh Vương này
Lìa các khổ não, không lo sợ
_Như cây vua báu (Bảo Thụ Vương) ngay trong nhà
Hay sinh tất cả vật vui thích
Tối Thắng Kinh Vương cũng như thế
Hay cho Nhân Vương Thắng Công Đức
_Ví như nước trong mát lắng sạch
Hay trừ các nóng bức đói khát
Tối Thắng Kinh Vương cũng như thế
Khiến đầy đủ Tâm người thích Phước
_Như nhà người có hộp Diệu Bảo
Tùy chỗ thọ dùng, đều theo Tâm
Tối Thắng Kinh Vương cũng như thế
Phước Đức tùy Tâm, không chỗ thiếu
_Các ông: Thiên Chủ với Thiên Chúng
Cần phải cúng dường Kinh Vương này
Nếu hay y Giáo phụng trì Kinh
Trí Tuệ, uy thần đều đầy đủ
_Hiện Pháp (Pháp hiện tại), tất cả Phật mười phương
Đều cùng hộ niệm Kinh Vương này
Thấy có đọc tụng với thọ trì
Khen ngợi: “Lành thay! Thật hiếm có!”
_Nếu có người hay nghe Kinh này
Thân Tâm hớn hờ sinh vui vẻ
Thường có trăm ngàn chúng Dược Xoa
Tùy theo chỗ ở, giúp người này
_Ở Thế Giới này, các Thiên Chúng
Số ấy vô lượng khó nghĩ bàn
Đều cùng nghe nhận Kinh Vương này
Vui vẻ thọ trì không thoái chuyển
_Nếu người nghe nhận Kinh Vương này
Uy Đức dũng mãnh, thường tự tại
Tăng ích tất cả chúng người, Trời
Khiến lìa suy não, tăng ánh sáng”
Lúc đó, bốn Thiên Vương nghe Tụng này xong thì vui mừng hớn hở, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Từ xưa đến nay, con chưa từng được nghe Pháp vi diệu thâm sâu như vậy, Tâm sinh vui buồn lẫn lộn, nước mắt nước mũi tuôn chảy, tòa thân run rẩy, chứng việc hiếm có khó nghĩ bàṅ”
Đem hoa Man Đa La, hoa Ma Ha Mạn Đa La của cõi Trời rải tán lên trên Đức Phật, làm thù thắng này cúng dường Đức Phật xong, rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Bốn Thiên Vương chúng con đều có năm trăm Dược Xoa quyến thuộc, thường sẽ ở mỗi một nơi ủng hộ Kinh Này với vị Thầy nói Pháp. Dùng ánh sáng của Trí để hỗ trợ bảo vệ. Như đối với hết thảy nghĩa câu của Kinh này có chỗ quên mất thì con đều khiến cho người ấy nhớ nghĩ chẳng quên kèm với Pháp Môn thù thắng của Đà La Ni khiến cho được đầy đủ. Lại muốn khiến cho Tối Thắng Kinh Vương này tại nơi cư trú, vì các chúng sinh rộng tuyên lưu bày, chẳng mau chóng ẩn mất”.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trong Đại Chúng nói Pháp này thời vô lượng chúng sinh đều được Đại Trí, thông duệ biện tài. Nhiếp nhận vô lượng nhóm Phước Đức, lìa các lo lắng bực bội, khéo hiểu rõ mọi Luận, bước lên con đường xuất ly, lại chẳng thoái lùi, mau chứng Bồ Đề. KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH
_QUYỂN THỨ SÁU (Hết)_
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.136.19.203 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.