Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại;
giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to!
(Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Tôi nghe như vậy, vào lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá, giữa núi Kỳ-xà-quật. Cùng với hội chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, hết thảy đều là các bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã dứt, không bị phiền não trở lại, được lợi lạc bản thân, dứt hết các trói buộc, tâm được tự tại. Tên các ngài là: A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bà-sa, Bạc-câu-la, Ma-ha Câu-hi-la, Nan-đà, Tôn-đà-la Nan-đà, Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử, Tu-bồ-đề, A-nan, La-hầu-la. Các vị đại A-la-hán được nhiều người biết đến như vậy. Lại có các vị hữu học, vô học đến 2.000 người. Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với quyến thuộc 6.000 người cùng đến. Mẹ của La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la cũng cùng đến với quyến thuộc. Có 8.000 vị Đại Bồ-Tát, tất cả đều không còn thối chuyển đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, đều đạt được đà-la-ni, có tài biện luận ưa thích thuyết giảng, chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển, từng cúng dường vô số trăm nghìn đức Phật, ở nơi chư Phật gieo trồng gốc công đức, thường được chư Phật ngợi khen xưng tán, dùng tâm từ để tu thân, khéo thể nhập trí tuệ Phật, thông đạt trí tuệ lớn lao, đạt đến bờ giải thoát, danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới, thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh. Danh hiệu của các vị là: Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đắc Đại Thế, Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Bất Hưu Tức, Bồ Tát Bảo Chưởng, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Bảo Nguyệt, Bồ Tát Nguyệt Quang, Bồ Tát Mãn Nguyệt, Bồ Tát Đại Lực, Bồ Tát Vô Lượng Lực, Bồ Tát Việt Tam Giới, Bồ Tát Bạt-đà-bà-la, Bồ Tát Di-lặc, Bồ Tát Bảo Tích, Bồ Tát Đạo Sư, các vị Đại Bồ Tát như vậy, cả thảy 80.000 vị cùng tham dự pháp hội. Lúc bấy giờ có Thích-đề-hoàn-nhân và quyến thuộc 20.000 vị thiên tử cùng đến. Lại có Thiên tử Danh Nguyệt, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang, Tứ đại Thiên vương và quyến thuộc 10.000 vị thiên tử cùng đến. Thiên tử Tự Tại, Thiên tử Đại Tự Tại và quyến thuộc 30.000 vị thiên tử cùng đến. Phạm Thiên vương chủ Thế giới Ta-bà, Đại Phạm Thi-khí, Đại Phạm Quang Minh... và quyến thuộc 12.000 vị thiên tử cùng đến. Có 8 vị long vương: Long vương Nan-đà, Long vương Bạt-nan-đà, Long vương Sa-già-la, Long vương Hòa-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca, Long vương A-na-bà-đạt-đa, Long vương Ma-na-tư, Long vương Ưu-bát-la, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội. Có bốn vị vua khẩn-na-la: Vua Khẩn-na-la Pháp, Vua Khẩn-na-la Diệu Pháp, Vua Khẩn-na-la Đại Pháp, Vua Khẩn-na-la Trì Pháp, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội. Có bốn vị vua càn-thát-bà: Vua Càn-thát-bà Nhạc, Vua Càn-thát-bà Nhạc Âm, Vua Càn-thát-bà Mỹ, Vua Càn-thát-bà Mỹ Âm, mỗi vị đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội. Có bốn vị vua a-tu-la: Vua A-tu-la Bà-trĩ, Vua A-tu-la Khư-la-kiển-đà, Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la, Vua A-tu-la La-hầu, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội. Có bốn vị vua ca-lâu-la : Vua Ca-lâu-la Đại Uy Đức, Vua Ca-lâu-la Đại Thân, Vua Ca-lâu-la Đại Mãn, Vua Ca-lâu-la Như Ý, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội. Vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hi cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc, hết thảy đều đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn có bốn chúng đi nhiễu quanh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Phật thuyết kinh ấy xong, ngồi kết già nhập Tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm chẳng động. Lúc bấy giờ trời mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hoa rơi trên thân Phật và khắp thảy đại chúng. Cõi đất chấn động khắp thế giới Phật. Bấy giờ trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân, cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương. Đại chúng ấy gặp việc chưa từng có, hoan hỉ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật. Lúc bấy giờ, đức Phật phóng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa hai chân mày, soi chiếu 18.000 thế giới ở phương đông, không một nơi nào không soi thấu, phía dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ, phía trên chiếu đến cõi trời A-ca-ni-trá. Từ nơi thế giới này thấy hết thảy sáu đường chúng sanh cõi kia, lại thấy chư Phật hiện tại ở cõi ấy cùng nghe được những kinh điển giáo pháp mà chư Phật ấy thuyết giảng, cùng thấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những vị tu hành đạt đạo. Lại thấy các vị Đại Bồ Tát, đủ mọi nhân duyên, đủ mọi tín giải, đủ mọi tướng mạo, thực hành đạo Bồ Tát. Lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn. Lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn, [đại chúng] thu xá-lợi Phật, dựng tháp thờ bằng bảy món báu. Lúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc nghĩ rằng: Nay đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, do nhân duyên gì mà có điềm lành này? Nay đức Phật Thế Tôn đã nhập tam-muội, thật không thể nghĩ bàn, hiện ra việc ít có, nay nên hỏi ai? Ai có thể giải đáp? Rồi lại nghĩ rằng: Ngài Văn-thù-sư-lợi, là con dấng Pháp vương, đã từng thân cận cúng dường vô số chư Phật trong quá khứ, chắc hẳn đã từng được thấy tướng ít có này, nay ta nên thưa hỏi. Lúc ấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng với chư thiên, loài rồng, quỷ thần... cũng đều nghĩ rằng: Tướng thần thông chiếu sáng hào quang của đức Phật, nay biết thưa hỏi ai? Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di-lặc muốn dứt mối nghi của mình, lại quan sát thấy được tâm nghi của bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng chư thiên, loài rồng, quỷ thần... nên thưa hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: “Do nhân duyên gì mà có điềm lành Phật hiện tướng thần thông, phóng hào quang lớn chiếu đến 18.000 cõi nước ở phương đông, [đại chúng] thấy hết được những cõi Phật trang nghiêm nơi ấy? Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc muốn lặp lại ý nghĩa trên liền nói kệ thưa hỏi rằng:
Ngài Văn-thù-sư-lợi! Đấng Đạo sư vì sao, Từ lông trắng giữa mày, Phóng hào quang soi chiếu. Mưa hoa mạn-đà-la, Với hoa Mạn-thù-sa, Gió thơm hương Chiên-đàn, Đại chúng đều hoan hỷ? Lại do nhân duyên này, Mặt đất đều nghiêm tịnh, Và khắp thế giới này, Chấn động theo sáu cách. Bấy giờ cả bốn chúng, Đều vui mừng hoan hỷ, Thân ý đều sảng khoái, Được việc chưa từng có. Hào quang từ giữa mày, Soi chiếu thấu phương đông, Khắp mười tám ngàn cõi, Đều sáng đẹp sắc vàng, Từ địa ngục A-tỳ, Lên đến trời Hữu đỉnh. Các thế giới trong đó, Đủ sáu đường chúng sanh, Sống, chết, đi về đâu, Hay nghiệp duyên lành dữ, Chịu quả báo tốt xấu, Từ đây đều thấy rõ. Lại thấy các đức Phật, Bậc Sư tử Thánh chúa, Diễn thuyết nhiều kinh điển, Đều vi diệu bậc nhất. Âm thanh thật thanh tịnh, Tiếng nói nghe dịu dàng, Dạy bảo hàng Bồ Tát, Vô số muôn ngàn người, Tiếng cõi trời sâu mầu, Ai ai cũng thích nghe. Mỗi vị nơi cõi mình, Đều giảng thuyết chánh pháp, Cùng đủ mọi nhân duyên. Và vô số thí dụ, Làm sáng tỏ Phật pháp, Để khai ngộ chúng sanh. Với những người gặp khổ, Chán bỏ già, bệnh, chết, Vì họ thuyết Niết-bàn, Dứt hết mọi cảnh khổ. Với những người có phước, Đã từng cúng dường Phật, Quyết cầu pháp vượt trội, Liền dạy pháp Duyên giác, Riêng với hàng con Phật, Tu đủ mọi công hạnh, Cầu trí tuệ Vô thượng, Liền thuyết đạo thanh tịnh. Thưa Văn-thù-sư-lợi! Tôi ở tại nơi đây, Thấy nghe những việc ấy, Cùng muôn ngàn việc khác, Hội chúng đủ hạng người, Nay chỉ xin lược nói. Tôi thấy những cõi kia, Có vô số Bồ Tát, Dùng đủ mọi nhân duyên, Để cầu thành Phật đạo. Có người thường bố thí, Vàng bạc với san hô, Hạt châu quý ma ni, Xa cừ cùng mã não, Kim cương, các trân bảo, Nô tỳ và xe cộ, Trang trí bằng châu báu, Đều hoan hỉ bố thí. Hồi hướng cầu Phật đạo, Nguyện đạt được Phật thừa, Bậc nhất trong ba cõi, Chư Phật đều khen ngợi. Hoặc có những Bồ Tát, Bố thí cả xe quý, Có bốn ngựa, lọng che, Cùng trang sức xinh đẹp. Lại thấy các Bồ Tát, Bố thí cả xương thịt, Chân tay cùng vợ con, Vì cầu đạo Vô thượng. Lại thấy các Bồ Tát, Ưa thích, vui mừng thí, Đầu, mắt cùng thân thể, Vì cầu trí tuệ Phật. Thưa Văn-thù-sư-lợi! Tôi thấy các vị vua, Đến viếng thăm chỗ Phật, Thưa hỏi đạo Vô thượng, Rồi bỏ cõi dục lạc, Cung điện nhiều mỹ nữ, Cạo sạch cả râu tóc, Mặc pháp phục xuất gia. Hoặc thấy các Bồ Tát, Mà hiện làm tỳ-kheo, Sống cô độc nhàn tĩnh, Ưa thích tụng kinh điển. Lại thấy các Bồ Tát, Sức dũng mãnh tinh tấn, Vào tận trong núi sâu, Nỗ lực tư duy Đạo. Lại thấy bậc ly dục, Thường sống nơi nhàn tịnh, Tu sâu pháp thiền định, Đạt được năm thần thông. Lại thấy các Bồ Tát, Trong thiền định chắp tay, Dùng muôn ngàn lời kệ, Ngợi khen các đức Phật. Lại thấy các Bồ Tát Trí sâu chí nguyện vững, Thường thưa hỏi chư Phật, Nghe giảng liền thọ trì. Lại thấy hàng con Phật, Đã trọn đủ định, tuệ, Dùng vô số thí dụ, Vi đại chúng giảng pháp. Vui thích thuyết chánh pháp, Giáo hóa các Bồ Tát, Phá trừ hết quân ma, Đánh vang rền trống Pháp. Lại thấy các Bồ Tát, Trụ yên trong tĩnh lặng, Trời, rồng đều cung kính, Nhưng không lấy làm vui. Lại thấy các Bồ Tát, Từ rừng sâu phóng quang, Chúng sanh khổ địa ngục, Khiến được vào đạo Phật. Lại thấy hàng con Phật, Tỉnh thức không ngủ nghỉ, Trong rừng sâu kinh hành, Chuyên cần cầu đạo Phật. Lại thấy người giữ giới, Oai nghi không khuyết tổn, Trong sáng như châu ngọc, Để cầu thành Phật đạo. Lại thấy hàng con Phật, An trụ sức nhẫn nhục, Dù những kẻ kiêu mạn, Mắng chửi và đánh đập, Cũng đều nhẫn nhịn được, Để cầu thành Phật đạo. Lại thấy hàng Bồ Tát, Lìa xa chuyện cợt đùa, Không gần kẻ ngu si, Thân cận bậc trí tuệ, Chuyên tâm trừ loạn tưởng, Giữa núi rừng nhiếp tâm, Trong suốt muôn ngàn năm, Để cầu thành Phật đạo. Hoặc thấy hàng Bồ Tát, Dùng thức ăn ngon quý, Cùng trăm loại thuốc thang, Cúng dường Phật và Tăng. Dùng y phục thượng hạng, Giá trị đến muôn ngàn, Quý báu đến vô giá, Cúng dường Phật và Tăng. Dùng trăm ngàn muôn loại, Nhà quý gỗ chiên-đàn, Với tòa ngồi tốt đẹp, Cúng dường Phật và Tăng. Đem vườn rừng yên tĩnh, Có hoa trái sum suê, Suối chảy, hồ trong mát, Cúng dường Phật và Tăng. Cúng dường những thứ ấy, Đều tốt đẹp nhiệm mầu, Tâm hoan hỉ không chán, Vì cầu đạo Vô thượng. Hoặc có hàng Bồ Tát, Thuyết giảng pháp tịch diệt, Dùng mọi cách chỉ bày, Cho vô số chúng sanh. Hoặc thấy hàng Bồ Tát, Quán chiếu các tánh pháp, Vốn thật không hai tướng, Thảy đều như hư không. Lại thấy hàng con Phật, Tâm không chút dính mắc, Dùng trí tuệ nhiệm mầu, Để cầu đạo Vô thượng. Thưa Văn-thù-sư-lợi! Lại có hàng Bồ Tát, Sau khi Phật diệt độ, Liền cúng dường xá-lợi. Lại thấy hàng con Phật, Xây dựng các tháp miếu, Nhiều như cát sông Hằng, Làm trang nghiêm cõi nước. Tháp báu đẹp tuyệt vời, Cao năm ngàn do-tuần, Ngang, rộng đều như nhau, Đều hai ngàn do-tuần. Mỗi một ngôi tháp miếu, Đều có ngàn cờ phướn, Cùng màn ngọc phủ che, Với chuông nhỏ hòa ngân. Có chư thiên, long thần, Người và loài phi nhân, Dùng hương hoa, âm nhạc, Thường dâng lên cúng dường. Thưa Văn-thù-sư-lợi! Hết thảy hàng Phật tử, Vì cúng dường xá-lợi, Nên trang nghiêm tháp miếu, Khắp cõi nước tự nhiên, Thành tươi đẹp tuyệt vời, Như cây chúa cõi trời, Đang mùa hoa nở rộ. Một lần Phật phóng quang, Tôi cùng cả hội chúng, Đều thấy cõi nước này, Đủ mọi vẻ tươi đẹp. Thần lực của chư Phật, Trí tuệ thật ít có, Phóng hào quang thanh tịnh, Chiếu vô số cõi nước. Chúng tôi đều được thấy, Việc xưa nay chưa có. Nguyện Phật tử Văn-thù! Vì đại chúng giải nghi. Bốn chúng đều ngưỡng vọng, Mong đợi ngài và tôi. Nói rõ Phật vì sao Phóng tỏa hào quang này. Xin kịp thời giải đáp, Dứt nghi để được vui. Lại vì lợi ích gì, Phật hiện phóng hào quang? Phật ngồi nơi đạo trường, Đã chứng đắc diệu pháp, Nay sẽ thuyết pháp ấy, Hay vì ai thọ ký? Nên hiện các cõi Phật, Với châu báu nghiêm tịnh, Lại thấy các cõi Phật, Chẳng phải duyên nhỏ nhặt. Ngài Văn-thù nên biết, Bốn chúng, hàng trời, rồng... Đều mong ngóng chờ xem, Ngài nói ra những gì?
Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ Tát Di-lặc, các vị đại sĩ và các thiện nam tử rằng: “Theo như tôi suy xét thì nay đức Phật Thế Tôn muốn thuyết pháp lớn lao, mưa xuống cơn mưa pháp lớn, thổi tù và pháp lớn, đánh tiếng trống pháp lớn, diễn giảng nghĩa pháp lớn.” Các vị thiện nam tử! Tôi ở nơi chư Phật trong quá khứ từng thấy điềm lành này, phóng hào quang này rồi ắt thuyết pháp lớn lao. Cho nên biết được rằng, nay Phật hiện hào quang cũng giống như vậy, muốn cho chúng sanh thảy đều nghe biết pháp khó tin nhận với tất cả thế gian, cho nên hiện điềm lành này. Các thiện nam tử! Như trong quá khứ cách đây vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kì số kiếp. Lúc bấy giờ có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. [Đức Phật ấy] diễn thuyết chánh pháp lúc ban sơ tốt đẹp, khoảng giữa tốt đẹp, sau cùng cũng tốt đẹp, ý nghĩa sâu xa, ngôn ngữ khéo léo mầu nhiệm, thuần khiết không xen tạp, đầy đủ tướng trạng của hạnh thanh tịnh trong sáng. Vì người cầu quả Thanh văn mà thuyết pháp tứ đế thích hợp, vượt thoát sinh lão bệnh tử, rốt ráo đạt Niết-bàn; vì người cầu quả Phật Bích-chi mà thuyết pháp mười hai nhân duyên thích hợp; vì các Bồ Tát mà thuyết sáu ba-la-mật thích hợp, khiến cho đạt được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thành tựu Nhất thiết chủng trí. Tiếp đến lại có Phật cũng tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh, rồi lại có Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, như vậy đến 20.000 vị Phật đều cùng một tên hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại cũng đồng một dòng họ là họ Phả-la-đọa. Ngài Di-lặc nên biết, từ vị Phật ban đầu đến vị Phật cuối cùng đều cùng một danh xưng là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều có đầy đủ mười đức hiệu, và những điều thuyết pháp từ ban sơ, khoảng giữa cho đến cuối cùng đều tốt đẹp. Vị Phật sau cùng, lúc chưa xuất gia có tám người con. Người thứ nhất tên là Hữu Ý, thứ hai là Thiện Ý, thứ ba là Vô Lượng Ý, thứ tư là Bảo Ý, thứ năm là Tăng Ý, thứ sáu là Trừ Nghi Ý, thứ bảy là Hưởng Ý, thứ tám là Pháp Ý. Tám vị vương tử này đều có oai đức tự tại, mỗi vị đều cai trị bốn thiên hạ. Các vị vương tử nghe tin phụ vương xuất gia, đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, liền xả bỏ vương vị cũng theo cha xuất gia, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều là những vị pháp sư, ở nơi muôn ngàn đức Phật trồng các cội lành. Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Thuyết kinh xong liền ở giữa đại chúng ngồi kết già nhập tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm chẳng động. Khi ấy, trời mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hoa rải lên thân Phật và đại chúng. Khắp cõi Phật, [mặt đất] chấn động theo sáu cách. Bấy giờ trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và loài phi nhân, cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương... Đại chúng như vậy được việc chưa từng có, đều hoan hỉ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật. Khi ấy, đức Như Lai phóng hào quang từ nơi cụm lông trắng giữa hai chân mày, soi chiếu về phương đông đến 18.000 cõi Phật, không nơi nào không soi thấu, cũng giống như ngày nay đã thấy hiển bày các cõi Phật. Ngài Di-lặc nên biết, khi ấy trong chúng hội có hai triệu Bồ Tát ưa muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát này thấy hào quang soi chiếu khắp các cõi Phật, được điều chưa từng có, đều muốn rõ biết nhân duyên của hào quang này. Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang, có 800 người đệ tử. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra khỏi tam-muội, nhân vì Bồ Tát Diệu Quang mà thuyết kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm, trong 60 tiểu kiếp không đứng dậy khỏi tòa ngồi. Chúng hội cũng ngồi yên một chỗ, trong 60 tiểu kiếp thân tâm không dao động, lắng nghe Phật thuyết kinh, đều cho rằng chỉ như thời gian của một bữa ăn. Lúc ấy trong chúng hội không một người nào cảm thấy thân hoặc tâm sinh ra lười mỏi. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh qua 60 tiểu kiếp thuyết kinh này rồi, liền tuyên bố với chúng hội gồm các vị phạm [chí], ma, sa-môn, bà-la-môn, chư thiên, người, a-tu-la rằng: “Hôm nay vào lúc giữa đêm, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn Vô dư.” Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Đức Tạng, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thọ ký, nói với các vị tỳ-kheo: “Bồ Tát Đức Tạng này sẽ thành Phật tiếp theo, hiệu là Tịnh Thân Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam-phật-đà. Đức Phật thọ ký rồi, đến giữa đêm liền nhập Niết-bàn Vô dư. Sau khi Phật diệt độ, Bồ Tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trọn 80 tiểu kiếp vì người khác giảng thuyết. Tám người con của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều thờ ngài Diệu Quang làm thầy, được ngài dạy dỗ, khiến cho được tâm kiên cố đối với quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Các vương tử này, sau khi cúng dường vô số trăm ngàn vạn ức vị Phật rồi thảy đều thành Phật. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng. Trong số 800 đệ tử, có một người tên là Cầu Danh, tham chấp lợi dưỡng, tuy cũng tụng đọc kinh điển nhưng không thông hiểu, phần nhiều đều quên mất, cho nên có hiệu là Cầu Danh. Người này vì cũng từng gieo trồng nhiều căn lành nên được gặp vô số trăm ngàn vạn ức đức Phật, đều cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán. Ngài Di-lặc nên biết, Bồ Tát Diệu Quang thuở ấy đâu phải ai xa lạ, chính là tôi đây. Còn Bồ Tát Cầu Danh chính là ngài đó. Nay thấy điềm lành này so với thuở xưa không khác, nên suy xét rằng: “Hôm nay đức Như Lai sẽ thuyết giảng kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.” Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi ở giữa đại chúng muốn trùng tuyên ý nghĩa trên nên đọc kệ rằng:
Tôi nhớ đời quá khứ, Vô lượng vô số kiếp, Có Phật, đấng cao quý, Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Thế Tôn thuyết giảng pháp, Độ vô lượng chúng sanh, Vô số ức Bồ Tát, Khiến vào trí tuệ Phật. Khi Phật chưa xuất gia, Sinh ra tám vương tử, Thấy Đại thánh xuất gia, Cũng theo tu thanh tịnh. Khi Phật thuyết Đại thừa, Kinh tên Vô Lượng Nghĩa, Liền ở giữa đại chúng, Vì người rộng phân biệt. Phật thuyết kinh ấy rồi, Liền ngồi trên pháp tòa, Kết già nhập tam-muội, Tên Vô Lượng Nghĩa Xứ. Trời mưa hoa mạn-đà, Trống trời tự nhiên vang, Chư thiên, rồng, quỷ thần, Cúng dường Bậc Tôn quý. Hết thảy bao cõi Phật, Đều tức thời chấn động, Phật phóng quang giữa mày, Hiện những việc ít có. Hào quang chiếu phương đông, Mười tám ngàn cõi Phật, Chúng sanh đều được thấy, Chỗ nghiệp báo sinh tử. Cũng thấy các cõi Phật, Dùng châu báu trang nghiêm, Màu lưu ly, pha lê, Đều do hào quang Phật. Lại thấy chúng trời người, Rồng, thần và dạ-xoa, Càn-thát, khẩn na la, Đều cúng dường Phật ấy. Lại thấy các vị Phật, Tự nhiên thành Phật đạo, Thân sáng như núi vàng, Đoan nghiêm rất vi diệu. Trong sạch như lưu ly, Hiện thành tượng vàng ròng, Thế Tôn giữa đại chúng, Rộng thuyết pháp sâu mầu. Nơi mỗi một cõi Phật, Có vô số Thanh văn, Nương hào quang Phật chiếu, Thấy rõ các chúng ấy. Hoặc có những tỳ-kheo, Thường sống giữa núi rừng, Tinh tấn giữ giới hạnh, Như giữ hạt minh châu. Lại nhờ hào quang Phật, Thấy được các Bồ Tát, Hành bố thí, nhẫn nhục... Nhiều như cát sông Hằng. Lại thấy các Bồ Tát, Vào sâu các thiền định, Thân tâm lặng chẳng động, Để cầu đạo Vô thượng. Lại thấy các Bồ Tát, Biết tướng pháp tịch diệt, Ở nơi cõi nước mình, Thuyết pháp cầu đạo Phật. Bấy giờ cả bốn chúng, Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng, Hiện sức thần thông lớn, Trong tâm đều hoan hỉ, Các vị cùng hỏi nhau, Đây là nhân duyên gì? Đấng trời người tôn kính, Vừa ra khỏi tam-muội, Khen Bồ Tát Diệu Quang, Ông là tai mắt đời, Người người đều tin theo. Có thể giữ kho pháp, Những gì ta thuyết giảng, Chỉ riêng ông rõ biết. Thế Tôn ngợi khen rồi, Khiến Diệu Quang hoan hỷ, Liền thuyết kinh Pháp Hoa, Trọn sáu mươi tiểu kiếp, Không rời khỏi chỗ ngồi. Pháp nhiệm mầu Phật thuyết, Ngài Pháp sư Diệu Quang, Đều có thể thọ trì. Phật thuyết kinh Pháp Hoa, Khiến đại chúng hoan hỷ, Rồi ngay trong ngày ấy, Bảo khắp chúng trời, người: “Nghĩa tướng thật các pháp, Ta đã rộng giảng thuyết, Nay vào giữa đêm này, Ta sẽ nhập Niết-bàn. Hãy chuyên tâm tinh tấn, Lìa xa thói phóng túng, Cơ hội gặp Phật khó, Trăm ngàn kiếp mới có.” Hàng đệ tử Thế Tôn, Nghe Phật nhập Niết-bàn, Ai ai cũng bi thương, Sao Phật chóng nhập diệt? Bậc Thánh chủ Pháp vương, An ủi vô số chúng: “Như Ta diệt độ rồi, Các người chớ lo sợ. Bồ Tát Đức Tạng này, Tâm đã rõ thông được, Tướng thật pháp vô lậu, Kế tiếp sẽ thành Phật, Hiệu Tịnh Thân Như Lai, Cũng độ vô số chúng.” Đêm ấy Phật diệt độ, Như củi hết lửa tắt. Phân chia Xá-lợi Phật, Rồi dựng vô số tháp. Tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, Nhiều như cát sông Hằng, Lại càng thêm tinh tấn, Để cầu đạo Vô thượng. Ngài Pháp sư Diệu Quang, Vâng giữ Pháp tạng Phật, Trong tám mươi tiểu kiếp, Rộng thuyết kinh Pháp Hoa. Tám vương tử con Phật, Được Diệu Quang chỉ bày, Vững vàng trong đạo Phật, Rồi gặp vô số Phật, Đều cung kính cúng dường, Vâng theo tu hành đạo, Tiếp nối đều thành Phật, Lần lượt được thụ ký, Cho đến Phật sau cùng, Hiệu là Phật Nhiên Đăng, Là thầy các tiên nhân, Độ thoát vô số chúng. Ngài Pháp sư Diệu Quang, Lại có một đệ tử, Thường ôm lòng biếng nhác, Mê đắm đường danh lợi, Tham cầu không biết chán, Giao du các nhà giàu, Tụng kinh rồi vất bỏ, Quên mất không rõ nghĩa. Vì nhân duyên như thế, Nên tên là Cầu Danh. Nhưng tạo các nghiệp lành, Được gặp vô số Phật, Cúng dường chư Phật rồi, Vâng theo, tu hành đạo, Đủ sáu ba-la-mật, Nay gặp đức Thích-ca. Sau này sẽ thành Phật, Hiệu là Phật Di-lặc, Rộng độ khắp chúng sanh, Số nhiều đến vô lượng. Phật xưa diệt độ rồi, Cầu Danh chính là ông. Còn Pháp sư Diệu Quang, Nay chính là tôi đây. Tôi thấy Phật Đăng Minh, Xưa phóng quang như thế, Nên biết Phật ngày nay, Sắp thuyết kinh Pháp Hoa. Tướng nay, điềm lành xưa, Là phương tiện chư Phật. Nay Phật phóng hào quang, Giúp hiện nghĩa tướng thật. Chư vị nay nên biết, Chắp tay một lòng chờ, Phật sẽ ban mưa pháp, Sung túc người cầu đạo, Người cầu quả Tam thừa, Nếu như còn nghi vấn, Phật sẽ giúp đoạn trừ, Dứt sạch không còn nghi. Phương tiện phẩm - đệ nhị
Bấy giờ, đức Thế Tôn an lành ra khỏi thiền định, bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trí tuệ của chư Phật rất sâu xa không thể suy lường, cửa trí tuệ ấy khó hiểu khó vào, hết thảy hàng Thanh văn, Phật Bích-chi đều không có khả năng rõ biết. Vì sao vậy? Phật từng thân cận với trăm ngàn muôn ức vô số chư Phật, hết sức thực hành vô số đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, danh xưng được nghe biết rộng khắp, thành tựu pháp rất sâu xa chưa từng có, tùy chỗ thích hợp mà giảng thuyết, ý nghĩa khó hiểu. Xá-lợi-phất! Từ khi ta thành Phật đến nay, dùng đủ mọi nhân duyên, đủ mọi thí dụ, rộng nói các giáo pháp cùng vô số phương tiện, dẫn dắt chúng sanh khiến cho lìa bỏ mọi sự bám chấp. Vì sao vậy? Phương tiện, tri kiến ba-la-mật của đức Như Lai hết thảy đều trọn đủ. Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, không ngăn ngại, không thể suy lường, những phẩm tính lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát tam muội đều thâm nhập tận cùng, thành tựu hết thảy các pháp chưa từng có. Xá-lợi-phất! Như Lai có thể phân biệt mọi điều, khéo giảng thuyết các pháp, lời lẽ êm dịu uyển chuyển, làm vui lòng đại chúng. Xá-lợi-phất! Theo chỗ cốt yếu mà nói thì Phật đã thành tựu hết vô lượng vô biên các pháp chưa từng có. Thôi đi, Xá-lợi-phất! Không nên nói nữa. Vì sao vậy? Pháp mà Phật đã thành tựu cao tột khó hiểu ít có nhất, chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ rốt ráo. Thật tướng của các pháp, đó là nói các pháp có tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, chỗ làm như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, từ gốc đến ngọn rốt ráo bình đẳng như vậy. Bấy giờ đức Thế Tôn muốn nhắc lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
Bậc Thế Hùng khôn lường, Chư thiên và nhân loại, Cùng các loài chúng sanh, Đều không thể hiểu Phật. Phật lực, vô sở úy, Giải thoát, các tam-muội, Các pháp khác của Phật, Đều không thể suy lường. Từng theo vô số Phật, Tu hành đủ các pháp, Rất sâu xa nhiệm mầu , Khó thấy, khó rõ biết. Trong vô số ức kiếp, Đã tu các phẩm đạo, Chứng quả nơi Đạo trường, Ta đều rõ biết hết. Quả báo lớn lao ấy, Đủ mọi nghĩa tánh tướng, Ta với mười phương Phật, Mới có thể rõ biết. Pháp không thể chỉ bày, Tướng ngôn ngữ dứt bặt. Các loài chúng sanh khác, Không thể nào hiểu được, Trừ các vị Bồ Tát, Với đức tin kiên cố. Chúng đệ tử của Phật, Từng cúng dường chư Phật, Đã dứt sạch lậu hoặc, Trụ nơi thân cuối cùng, Dù những bậc như vậy, Vẫn không sức thọ nhận. Nếu người khắp thế gian, Đều như Xá-lợi-phất, Dùng hết sức suy lường, Cũng không rõ trí Phật. Ví như khắp mười phương, Đều như Xá-lợi-phất, Cùng các đệ tử khác, Tràn ngập khắp mười phương, Cùng hết sức suy lường, Cũng không thể rõ biết. Phật Bích-chi trí sáng, Bậc Vô lậu thân cuối, Cũng đầy khắp mười phương, Số nhiều như tre rừng, Như vậy cùng chuyên tâm, Trong vô số ức kiếp, Muốn suy biết trí Phật, Cũng không biết được gì. Bồ Tát mới phát tâm, Cúng dường vô số Phật, Rõ biết các ý nghĩa, Lại khéo thuyết giảng pháp. Nhiều như lúa, mè, tre... Đầy khắp cõi mười phương, Chuyên tâm dùng trí mầu, Trong Hằng sa số kiếp, Cùng chung sức suy lường, Không thể rõ trí Phật. Các Bồ Tát bất thối, Nhiều như cát sông Hằng, Một lòng cùng suy cầu, Cũng không thể rõ biết. Phật bảo Xá-lợi-phất: Pháp sâu xa vi diệu, Vô lậu, không nghĩ bàn, Ta nay đã trọn thành, Tướng ấy riêng ta biết, Cũng như mười phương Phật. Xá-lợi-phất nên biết, Lời chư Phật không khác, Đối với pháp Phật thuyết, Phải tin sâu, tin chắc. Pháp Phật lâu về sau, Phải thuyết dạy chân thật. Phật bảo chúng Thanh văn, Cùng chúng cầu Duyên giác: Ta dạy cho thoát khổ, Nhưng chưa được Niết-bàn. Đó là Phật phương tiện, Tạm bày ra Ba thừa, Để chúng sanh bám chấp, Thảy đều được giải thoát.
Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị, cùng những vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di phát tâm cầu quả Thanh văn, quả Phật Bích-chi, hết thảy đều nghĩ rằng: “Hôm nay đức Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp phương tiện mà nói: ‘Pháp Phật đã chứng đắc rất sâu xa khó hiểu, có nói ra điều gì thì ý nghĩa đều khó rõ biết, hết thảy hàng Thanh văn, Phật Bích-chi đều không thể hiểu được.’” “Phật [từng] thuyết dạy một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng được pháp ấy, [tưởng rằng] đạt đến Niết-bàn, nhưng nay thì không biết nghĩa ấy hướng về đâu?” Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất biết lòng nghi của bốn chúng và chính mình cũng chưa hiểu nên bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà nay Phật ân cần ngợi khen xưng tán phương tiện bậc nhất cùng pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu của chư Phật? Con từ xưa đến nay theo Phật chưa từng được nghe những lời như vậy. Nay bốn chúng đều ôm lòng nghi, xin nguyện Thế Tôn giảng rõ việc này: Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu?” Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên đọc kệ rằng:
Đấng Đại Thánh trí tuệ, Lâu mới thuyết pháp này. Tự nói đã chứng đắc, Lực, vô úy, tam-muội, Cùng thiền định giải thoát, Pháp không thể nghĩ bàn. Nơi đạo trường chứng đắc, Không ai đủ sức hỏi, Ý Phật khó suy lường, Cũng không thể thưa hỏi, Nên Phật tự nói ra, Ngợi khen đạo chư Phật, Trí tuệ cực vi diệu, Chư Phật đã đạt được. A-la-hán vô lậu, Cùng người cầu Niết-bàn, Nay chìm trong lưới nghi, Vì sao Phật nói vậy? Những người cầu Duyên giác, Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Chư thiên, rồng, quỷ thần, Với loài càn-thát-bà... Nhìn nhau lòng phân vân, Cùng chiêm ngưỡng Thế Tôn, Việc này là thế nào? Nguyện được Phật giảng giải. Trong hàng chúng Thanh văn, Phật khen con bậc nhất, Nay con dùng trí mình, Không thể hiểu, nghi hoặc. Đây là pháp rốt ráo? Hay là đạo tu hành? Chúng từ miệng Phật sinh, Đều chắp tay mong đợi, Nguyện Phật ban tiếng mầu, Nói ra pháp như thật. Chư thiên, rồng, quỷ thần... Số nhiều như cát sông, Bồ Tát cầu quả Phật, Số đến tám mươi ngàn, Lại từ muôn ức nước, Vua Chuyển luân đến đây, Cùng chắp tay cung kính, Muốn nghe đạo trọn đủ.
Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Thôi, thôi, không nên nói nữa. Nếu ta nói ra việc này thì hết thảy chư thiên và loài người ở thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.” Ngài Xá-lợi-phất lại bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Vì sao vậy? Trong chúng hội này có vô số trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ chúng sanh đã từng được gặp chư Phật, căn tánh lanh lợi dũng mãnh, trí tuệ sáng suốt rõ biết, nếu được nghe Phật thuyết dạy ắt có thể cung kính tin nhận.” Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:
Đấng Pháp vương Vô thượng, Xin thuyết dạy, đừng lo, Vì vô số chúng hội, Phải có người kính tin.
Đức Phật lại ngăn lời ngài Xá-lợi-phất: “Nếu ta nói ra việc này, hết thảy hàng trời, người, a-tu-la... trong khắp thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ, các tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ phải sa vào hố sâu [tội lỗi vì phỉ báng].” Bấy giờ, đức Thế Tôn nhắc lại nghĩa trên bằng kệ rằng: Thôi thôi không nên nói, Pháp Phật khó nghĩ bàn. Những kẻ tăng thượng mạn, Ắt không thể kính tin.
Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất một lần nữa bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Nay trong hội này, những người như con số nhiều đến trăm ngàn muôn ức, trải qua nhiều đời đã từng được Phật giáo hóa. Những người này ắt sẽ có thể kính tin, trong đêm dài [sinh tử] họ sẽ an ổn, được nhiều lợi ích.” Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:
Đấng Thế Tôn Vô thượng, Nguyện thuyết pháp bậc nhất. Con là con trưởng Phật, Xin thương mà giảng thuyết, Trong hội vô số chúng, Có thể kính tin lời. Phật đã qua bao đời, Giáo hóa những người này, Nay một lòng chắp tay, Muốn nghe lời Phật dạy. Chúng con một ngàn hai, Cùng người cầu quả Phật, Nguyện vì hội chúng này, Thương xót phân biệt nói. Đại chúng nghe pháp này, Ắt sinh lòng hoan hỷ.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất: “Ông đã hết lòng thưa thỉnh ba lần, lẽ nào ta lại không nói. Nay ông hãy chú ý lắng nghe, khéo suy xét kỹ và ghi nhớ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói.” Khi [đức Phật] vừa nói ra lời này, trong chúng hội liền có 5.000 tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng đứng dậy khỏi tòa ngồi, lễ Phật rồi lui ra. Vì sao vậy? Những người ấy gốc tội sâu nặng, lại là hàng tăng thượng mạn, chưa chứng nói là chứng, chưa đắc nói là đắc, có những lỗi lầm như vậy nên không ở lại. Đức Thế Tôn lặng thinh không ngăn cản. Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trong hội chúng này của ta nay không còn cành lá, chỉ thuần hạt chắc. Này Xá-lợi-phất, những kẻ tăng thượng mạn ấy lui ra cũng tốt. Nay ông hãy khéo lắng nghe, ta sẽ vì ông thuyết giảng.” Ngài Xá-lợi-phất thưa: “Xin vâng, Thế Tôn! Con nguyện vui thích muốn nghe.” Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Pháp vi diệu này, chư Phật Như Lai đúng thời mới thuyết, như hoa ưu-đàm-bát đúng thời chỉ nở một lần. Này Xá-lợi-phất! Các ông nên tin lời Phật thuyết dạy, không hề hư dối. Xá-lợi-phất! Chư Phật tùy chỗ thích hợp mà thuyết pháp, ý nghĩa khó nhận hiểu.” Vì sao vậy? Ta dùng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để giảng thuyết các pháp. Pháp ấy không thể do suy lường phân biệt mà hiểu được, chỉ có chư Phật mới đủ khả năng thấu hiểu. Vì sao vậy? Chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Xá-lợi-phất! Thế nào là chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời? Chư Phật Thế Tôn vì muốn giúp chúng sanh khai mở tri kiến Phật để được thanh tịnh cho nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày cho chúng sanh thấy được tri kiến Phật cho nên xuất hiện ở đời; muốn khiến cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật cho nên xuất hiện ở đời; muốn giúp cho chúng sanh thể nhập đạo tri kiến Phật cho nên xuất hiện ở đời. Xá-lợi-phất, đó là chư Phật chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa toàn là Bồ Tát, hết thảy việc làm thường chỉ vì một mục đích duy nhất là dùng tri kiến Phật để chỉ bày, khai ngộ chúng sanh. Xá-lợi-phất! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa vì chúng sanh thuyết pháp, không có thừa nào khác như Nhị thừa, Tam thừa. Xá-lợi-phất! Pháp của hết thảy chư Phật mười phương cũng đều như vậy. Xá-lợi-phất! Chư Phật trong quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thuyết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí. Này Xá-lợi-phất! Chư Phật trong tương lai ra đời, lại cũng sẽ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thuyết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! Chư Phật Thế Tôn hiện tại trong vô lượng trăm ngàn muôn ức cõi Phật mang lại rất nhiều lợi ích an lạc cho chúng sanh, chư Phật ấy lại cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thuyết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! [Tất cả] chư Phật ấy cũng chỉ giáo hóa toàn là Bồ Tát, muốn dùng tri kiến Phật để chỉ bày chúng sanh, muốn dùng tri kiến Phật để khai ngộ chúng sanh, muốn giúp cho chúng sanh thể nhập tri kiến Phật. Xá-lợi-phất! Ta nay cũng lại như vậy, biết rõ chúng sanh có đủ mọi ham muốn, bám chấp sâu nặng trong tâm, nên tùy theo bản tánh của chúng sanh mà dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, sức phương tiện để thuyết giảng pháp. Xá-lợi-phất, như vậy đều là vì [để giúp chúng sanh] đạt một Phật thừa, được Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! Trong khắp thế giới mười phương vốn không có hai thừa, huống gì lại có ba? Xá-lợi-phất, chư Phật thị hiện ở đời xấu ác có năm sự uế trược, đó là kiếp trược, phiền não trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược. Như vậy, này Xá-lợi-phất, vào thời kiếp trược hỗn loạn, chúng sanh cấu nhiễm nặng nề, nhiều tham lam, ganh ghét, tạo thành các gốc rễ bất thiện, nên chư Phật dùng sức phương tiện, đối với một Phật thừa mà phân biệt thuyết dạy thành ba thừa. Xá-lợi-phất! Nếu các đệ tử của ta [có người] tự cho mình là A-la-hán, Phật Bích-chi mà không nghe không biết việc chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa toàn là Bồ Tát, những người ấy không phải đệ tử Phật, cũng không phải A-la-hán, không phải Phật Bích-chi. Lại nữa, Xá-lợi-phất, những tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni ấy tự cho mình đã chứng quả A-la-hán, cho đó là thân sau cùng, đã được Niết-bàn rốt ráo, nên không có chí hướng cầu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Nên biết rằng hạng người ấy đều là tăng thượng mạn. Vì sao vậy? Nếu có tỳ-kheo nào thật sự chứng quả A-la-hán mà không tin nhận pháp [Nhất thừa] thì thật vô lý, chỉ trừ phi sau Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật. Vì sao vậy? Sau khi Phật diệt độ thì người có thể thọ trì, tụng đọc, giảng giải những kinh như thế này rất khó gặp được. Nhưng nếu gặp Phật ở cõi khác thì ở trong giáo pháp này liền được thấu triệt rõ ràng. Xá-lợi-phất! Các ông nên hết lòng tin hiểu, thọ trì lời Phật dạy. Lời của chư Phật Như Lai không hư dối, thật không có thừa nào khác, chỉ duy nhất một Phật thừa. Bấy giờ, Thế Tôn muốn nhắc lại ý nghĩa trên liền nói kệ rằng:
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Ôm lòng tăng thượng mạn, Ưu-bà-tắc ngã mạn, Ưu-bà-di bất tín. Bốn chúng thuộc hạng này, Số nhiều đến năm ngàn, Không tự thấy lỗi mình, Giới luật có thiếu sót, Quý tiếc lỗi của mình. Do oai đức của Phật, Nên những người kém cỏi, Hạng trí nhỏ rời đi, Vì phước đức mỏng manh, Không đủ sức tiếp nhận. Hội chúng sạch cành lá, Chỉ còn quả hạt chắc, Xá-lợi-phất, lắng nghe.
Pháp chư Phật chứng đắc, Vô số lực, phương tiện, Vì chúng sanh thuyết dạy, Chúng sanh tâm khởi niệm, Cùng đủ mọi việc làm, Có bao nhiêu tham muốn, Nghiệp đời trước thiện ác, Phật đều rõ biết hết. Dùng nhân duyên, thí dụ, Sức phương tiện, ngôn từ, Khiến cho đều hoan hỷ. Hoặc thuyết giảng Khế kinh, Hay Già-đà, Bản sự, Bản sinh, Vị tằng hữu, Lại thuyết kinh Nhân duyên, Thí dụ cùng Kỳ-dạ, Kinh Ưu-ba-đề-xá. Kẻ ngu, ưa pháp nhỏ, Bám chấp chốn sinh tử, Gặp vô số chư Phật, Vẫn không tu đạo mầu, Nên bị khổ giày vò, Vì họ, thuyết Niết-bàn. Ta bày phương tiện này, Giúp nhập trí tuệ Phật, Chưa từng nói các ông, Rồi sẽ thành Phật đạo. Sở dĩ chưa từng nói, Vì thời chưa thích hợp, Nay chính lúc hợp thời, Quyết định thuyết Đại thừa.
Chín bộ kinh đã thuyết, Là tùy thuận chúng sanh, Nhập Đại thừa là gốc, Cho nên thuyết kinh này. Có Phật tử tâm tịnh, Nhu hòa lại sáng suốt, Nơi vô số chư Phật, Đã tu sâu đạo mầu. Vì những Phật tử ấy, Thuyết kinh Đại thừa này, Thọ ký những người ấy, Tương lai thành quả Phật.
Người tâm thành niệm Phật, Giữ giới hạnh thanh tịnh, Vừa nghe được thành Phật, Hoan hỷ khắp châu thân. Phật rõ biết tâm hạnh, Vì họ thuyết Đại thừa. Thanh văn hay Bồ Tát, Nghe ta thuyết kinh này, Dù chỉ một bài kệ, Chắc chắn đều thành Phật. Cõi Phật trong mười phương, Chỉ có pháp Nhất thừa, Không hai cũng không ba, Trừ Phật phương tiện thuyết, Chỉ là tên giả tạm, Để dẫn dắt chúng sanh, Thuyết dạy trí tuệ Phật.
Chư Phật hiện ở đời, Chỉ có một sự thật, Ngoài ra đều không thật. Rốt không dùng Tiểu thừa, Để cứu độ chúng sanh. Phật trụ nơi Đại thừa, Dùng pháp đã chứng đắc, Định, tuệ, lực trang nghiêm, Để cứu độ chúng sanh. Phật chứng đạo Vô thượng, Pháp bình đẳng Đại thừa, Nếu dùng pháp Tiểu thừa, Dù giáo hóa một người, Ắt tâm Phật tham tiếc, Việc ấy không thể có.
Nếu người tin theo Phật, Như Lai không dối gạt, Không tham tiếc, ganh ghét Dứt các pháp xấu ác. Nên trong khắp mười phương, Riêng Phật không sợ hãi. Phật thân tướng trang nghiêm, Hào quang chiếu thế gian, Vô số chúng tôn kính, Vì chúng thuyết tướng thật.
Xá-lợi-phất nên biết, Phật xưa đã thệ nguyện, Độ hết thảy chúng sanh, Được như Phật không khác. Như thệ nguyện từ trước, Nay thành tựu viên mãn, Giáo hóa khắp chúng sanh, Khiến đều vào Phật đạo. Nếu ta gặp chúng sanh, Đều dạy bằng Phật đạo, Kẻ thác loạn ngu si, Mê hoặc chẳng nghe lời. Ta biết chúng sanh ấy, Chưa từng tu gốc thiện, Bám chấp nặng năm dục, Si mê, ái luyến khổ. Do nhân duyên các dục, Đọa vào ba đường ác, Luân hồi trong sáu nẻo, Chịu đủ các khổ độc. Thọ thân từ bào thai, Đời đời thêm nghiệp khổ. Người thiếu phước đức mỏng, Bị các khổ bức bách, Vào sâu rừng tà kiến, Chấp có hoặc chấp không, Cùng các loại kiến chấp, Đủ số sáu mươi hai.
Chấp sâu pháp hư dối, Bám chặt không thể buông, Ngã mạn, tự cao ngạo, Dua nịnh, không chân thật, Trong ngàn muôn ức kiếp, Chẳng nghe danh xưng Phật, Cũng chẳng nghe chánh pháp, Người như vậy khó độ.
Cho nên, Xá-lợi-phất! Ta bày ra phương tiện, Thuyết dạy đường dứt khổ, Nói đó là Niết-bàn. Tuy nói là Niết-bàn, Nhưng chưa thật diệt độ, Các pháp từ xưa nay, Tướng thường tự tịch diệt. Phật tử tu hành đạo, Tương lai sẽ thành Phật. Ta dùng sức phương tiện, Mở bày pháp Tam thừa. Hết thảy các đức Phật, Đều thuyết đạo Nhất thừa. Nay đại chúng ở đây, Nên dứt trừ nghi hoặc, Chư Phật dạy không khác, Duy Nhất thừa, không hai.
Vô số kiếp quá khứ, Vô lượng Phật diệt độ, Trăm ngàn muôn ức vị, Số không thể tính đếm. Các đức Phật như vậy, Dùng nhân duyên, thí dụ, Vô số sức phương tiện, Giảng thuyết các tướng pháp. Những bậc Thế Tôn ấy, Đều thuyết pháp Nhất thừa, Giáo hóa vô số chúng, Khiến được vào Phật đạo. Lại các bậc Đại thánh, Rõ biết khắp thế gian, Chư thiên cùng nhân loại, Nhiều tham muốn sâu xa, Nên dùng phương tiện khác, Giúp hiển bày nghĩa thật.
Nếu có những chúng sanh, Gặp Phật trong quá khứ, Hoặc nghe pháp, bố thí, Hoặc trì giới, nhẫn nhục, Tinh tấn, thiền, trí tuệ... Tu các pháp phúc, tuệ. Phật dạy: Những người ấy, Đều đã thành Phật đạo.
Chư Phật diệt độ rồi, Ai khéo điều phục tâm, Hết thảy những người ấy, Đều đã thành phật đạo. Chư Phật diệt độ rồi, Ai cúng dường xá-lợi, Dựng muôn ức ngọn tháp, Bằng vàng, bạc, pha lê, Xa cừ cùng mã não, Hồng ngọc, châu lưu ly, Cao rộng, sạch, trang nghiêm, Trang hoàng nơi các tháp. Hoặc dùng đá xây miếu, Với chiên-đàn, trầm hương, Gỗ mật, các loại khác, Hay gạch, ngói, bùn đất... Hoặc giữa nơi đồng trống, Đắp gò cao thờ Phật, Thậm chí trẻ chơi đùa, Vun cát làm tháp Phật... Những trường hợp như thế, Đều đã thành Phật đạo.
Có người vì kính Phật, Nên vẽ hình, tạc tượng, Chạm khắc các tướng Phật, Đều đã thành Phật đạo. Hoặc dùng bảy món báu, Hợp kim, đồng đỏ, trắng... Hoặc chì, thiết... các loại, Sắt thép, gỗ, đất bùn... Hoặc keo, nhựa sơn, vải... Trang hoàng nên tượng Phật. Những người làm như vậy, Đều đã thành Phật đạo.
Hoặc vẽ hình tượng Phật, Đủ phước tướng trang nghiêm, Tự làm, sai người làm, Đều đã thành Phật đạo. Thậm chí trẻ chơi đùa, Dùng cỏ, cây, ngọn bút, Hoặc móng tay, ngón tay... Vẽ thành hình tượng Phật. Những đứa trẻ như thế, Dần dần thêm công đức, Trọn đủ tâm đại bi, Đều đã thành Phật đạo.
Chỉ giáo hóa Bồ Tát, Độ thoát vô số chúng. Nếu người nơi tháp miếu, Tượng báu hay hình Phật, Dùng hoa, hương, phướn, lọng... Tâm cung kính cúng dường. Hoặc sai người tấu nhạc, Đánh trống, thổi tù và... Tiêu, sáo, đàn không hầu, Đàn tỳ bà, chập chõa, Bao âm thanh tuyệt diệu, Đều dâng lên cúng dường. Hoặc dùng tâm hoan hỷ, Xưng tán công đức Phật, Dù một lời nhỏ nhặt, Đều đã thành phật đạo.
Nếu người tâm tán loạn, Dùng chỉ một bông hoa, Cúng dường tranh vẽ Phật. Dần gặp vô số Phật. Nếu có người lễ bái, Hoặc chỉ là chắp tay, Thậm chí đưa tay lên, Hay cúi nhẹ đầu xuống, Cúng dường hình tượng Phật, Dần gặp vô số Phật. Tự thành đạo Vô thượng, Độ vô số chúng sanh, Nhập Niết-bàn Vô dư, Như củi hết lửa tắt.
Nếu người tâm tán loạn, Vào tháp miếu thờ Phật, Niệm một tiếng nam-mô, Đều đã thành Phật đạo. Nơi chư Phật quá khứ, Hoặc còn, hoặc diệt độ, Nếu được nghe pháp này, Đều đã thành Phật đạo.
Các vị Phật tương lai, Số nhiều đến vô lượng, Tất cả chư Phật ấy, Cũng phương tiện thuyết pháp. Hết thảy các đức Phật, Dùng vô số phương tiện, Độ thoát muôn chúng sanh, Vào trí Phật vô lậu, Người đã được nghe pháp, Không ai không thành Phật.
Chư Phật từng thệ nguyện, Đạo Phật tu, Phật chứng, Cũng làm cho chúng sanh, Đều tu chứng đạo ấy.
Chư Phật đời vị lai, Tuy thuyết trăm ngàn ức, Đến vô số pháp môn, Thật chỉ là Nhất thừa. Chư Phật đủ phước trí, Biết pháp không tự tánh, Giống Phật từ duyên khởi, Cho nên thuyết Nhất thừa.
Pháp trụ nơi pháp vị, Tướng thế gian thường trụ, Nơi đạo trường rõ biết, Đạo sư thuyết phương tiện. Hàng trời người cúng dường, Mười phương Phật hiện tại, Số nhiều như cát sông, Xuất hiện nơi thế gian, Vì giúp chúng an ổn, Cũng thuyết pháp như vậy.
Biết tịch diệt hơn hết, Nhưng dùng sức phương tiện, Tuy chỉ bày mọi đường, Thật chỉ vì Phật thừa. Rõ biết mọi tánh hạnh, Tâm niệm của chúng sanh, Và tập khí quá khứ, Tham muốn, sức tinh tấn, Cùng căn tánh lợi, độn. Nên dùng mọi nhân duyên, Nhiều thí dụ, ngôn từ, Phương tiện thuyết ứng hợp.
Nay ta cũng như vậy, Vì giúp chúng an ổn, Bày đủ mọi pháp môn, Để chỉ bày Phật đạo. Ta dùng sức trí tuệ, Biết lòng dục chúng sanh, Phương tiện giảng các pháp, Khiến cho đều hoan hỷ.
Xá-lợi-phất nên biết! Ta dùng Phật nhãn quán, Thấy chúng sanh sáu đường, Nghèo khốn, không phước trí, Vào đường hiểm sanh tử, Khổ triền miên không dứt, Bám chấp năm món dục, Như bò thích đuôi mình, Tham ái tự che lấp, Mê tối chẳng thấy gì. Không cầu oai lực Phật, Dứt trừ các pháp khổ, Vào sâu rừng tà kiến, Muốn dùng khổ dứt khổ. Vì những chúng sanh ấy, Ta khởi tâm đại bi.
Ban sơ ngồi đạo trường, Ta nhìn cây, kinh hành, Trong suốt hai mốt ngày, Chỉ suy xét một việc: Trí tuệ ta chứng đắc, Thật vi diệu hơn hết. Chúng sanh căn cơ thấp, Tham đắm, nhiều si mê... Những hạng chúng sanh này, Làm sao có thể độ?
Khi ấy những Phạm vương, Cùng các Thiên Đế thích, Bốn Thiên vương Hộ thế, Cùng Đại Tự tại thiên, Và chúng chư thiên khác, Quyến thuộc trăm ngàn vạn, Cùng chắp tay cung kính, Thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Ta liền tự nghĩ rằng: Nếu chỉ khen Phật thừa, Chúng sanh chìm đắm khổ, Không đủ sức tin nhận, Sẽ chống phá, không tin, Đọa sâu ba đường ác. Ta không nên thuyết pháp, Phải sớm nhập Niết-bàn.
Liền nhớ Phật quá khứ, Từng dùng sức phương tiện. Nay ta chứng chánh đạo, Cũng nên thuyết ba thừa.
Khi ta nghĩ như vậy, Mười phương Phật hiện ra, Dùng Phạm âm khuyến khích: “Lành thay! Phật Thích-ca, Đấng Đạo sư bậc nhất, Chứng pháp Vô thượng này, Theo gương tất cả Phật, Mà dùng sức phương tiện. Chư Phật cũng chứng đắc, Pháp vi diệu bậc nhất, Nhưng cũng vì chúng sanh, Phân biệt thuyết ba thừa. Kém trí ưa pháp nhỏ, Không tự tin thành Phật, Nên phải dùng phương tiện, Phân biệt các quả vị. Tuy nói có ba thừa, Chỉ giáo hóa Bồ Tát.”
Xá-lợi-phất nên biết! Ta nghe tiếng chư Phật, Thanh âm rất nhiệm mầu, Liền vui cung kính Phật. Rồi khởi lên ý nghĩ: “Ta gặp đời uế trược, Như lời chư Phật dạy, Ta cũng thuận làm theo.”
Suy nghĩ như vậy rồi, Liền đến Ba-la-nại. Tướng các pháp vắng lặng, Không thể dùng lời nói, Phật dùng sức phương tiện, Giảng cho năm tỳ-kheo. Gọi là chuyển pháp luân, Từ đó có Niết-bàn, Lại có A-la-hán, Có Pháp bảo, Tăng bảo.
Từ vô số kiếp xưa, Ngợi khen pháp Niết-bàn, Dứt hẳn khổ sinh tử, Ta thường thuyết như vậy.
Xá-lợi-phất nên biết! Ta thấy những Phật tử, Quyết chí cầu Phật đạo, Số nhiều đến vô lượng... Đều khởi tâm cung kính, Cùng đi đến chỗ Phật, Họ từng theo chư Phật, Được nghe pháp phương tiện.
Ta liền suy nghĩ rằng: Bậc Như Lai xuất thế, Chỉ bày trí tuệ Phật, Nay chính lúc thích hợp. Xá-lợi-phất nên biết! Người căn thấp trí hẹp, Chấp tướng và kiêu mạn, Không thể tin pháp này. Phật hoan hỷ không ngại, Nay giữa chúng Bồ Tát, Chính thức bỏ phương tiện, Chỉ thuyết đạo Vô thượng.
Bồ Tát nghe pháp này, Đều dứt sạch lưới nghi, Ngàn hai trăm La-hán, Cũng đều sẽ thành Phật.
Như nghi thức thuyết pháp, Của ba đời chư Phật, Ta nay cũng như vậy, Thuyết pháp không phân biệt.
Chư Phật hiện ở đời, Rất lâu xa khó gặp, Ngay khi đã xuất thế, Thuyết pháp này càng khó. Vô lượng vô số kiếp, Được nghe pháp này khó, Người đủ sức nghe pháp, Càng khó tìm gặp hơn. Giống như hoa ưu-đàm, Mọi người đều ưa thích, Giữa hai cõi trời người, Hiếm hoi mới xuất hiện. Người nghe pháp hoan hỷ, Ngợi khen chỉ một lời, Cũng bằng như cúng dường, Ba đời mười phương Phật. Người như vậy ít gặp, Hiếm hơn hoa ưu-đàm.
Các ông chớ hoài nghi, Phật là vua các pháp, Tuyên cáo cùng đại chúng, Chỉ dùng đạo Nhất thừa, Giáo hóa các Bồ Tát, Không đệ tử Thanh văn.
Xá-lợi-phất, các ông, Thanh văn cùng Bồ Tát, Nên biết diệu pháp này, Bí yếu của chư Phật. Vì đời ác năm trược, Chỉ tham đắm các dục, Những chúng sanh như vậy, Rốt chẳng cầu Phật đạo. Những kẻ xấu đời sau, Nghe Phật dạy Nhất thừa, Mê hoặc không tin nhận, Phá pháp, đọa cõi ác.
Người thanh tịnh, tàm quý, Quyết chí cầu Phật đạo, Nên vì những người ấy, Rộng khen đạo Nhất thừa.
Xá-lợi-phất nên biết, Pháp chư Phật như thế, Dùng muôn ức phương tiện, Để thuyết pháp thích hợp, Nếu không học không tu, Thì không thể thấu hiểu.
Các ông đã rõ biết, Phật là thầy thế gian, Việc phương tiện quyền biến, Đừng khởi sinh nghi hoặc. Phải hết sức vui mừng, Biết mình sẽ thành Phật.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.117.184.125 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.