Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 76 »»

Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 76

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.58 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.73 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Đại Bửu Tích

Kinh này có 120 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 65 | 66 | 67 | 68 | 69 | 70 | 71 | 72 | 73 | 74 | 75 | 76 | 77 | 78 | 79 | 80 | 81 | 82 | 83 | 84 | 85 | 86 | 87 |
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Ðức Phật phán tiếp phán tiếp với vua Tịnh Phạn: "Nầy Ðại Vương! Thuở xưa quá khứ có Quốc Vương tên là Ðịa Thiên, làm vua đúng pháp, có đủ bảy báu và luân báu, tượng báu, mã báu, minh châu báu, ngọc nữ báu, trưởng giả báu và chủ binh báu.
Cha của vua Ðịa Thiên tên là Ðịa Sanh. Sau khi Ðịa Sanh chết, Ðịa Thiên là trưởng tử nên phụ tướng đại thần lấy nước bốn biển rưới đảnh của Ðịa Thiên tôn làm vua, đó là vua Sát Ðế Lợi Quán Ðảnh.
Lúc lên ngôi vua rồi, đến ngày rằm trăng tròn ngày thọ trai, vua ÐịaThiên tắm rửa gội đầu cắt cạo râu tóc và móng tay móng chưn, mặc y phục mới sạch, dùng vòng hoa chuổi ngọc mũ mão vòng xuyến trang sức thân mình, ngồi trên lầu cao, các thể nữ vây quanh. Liền đó từ phương Ðông có luân bửu bằng vàng đủ ngàn căm giàn trục đều đủ, ánh sáng chói ngời, ngang dọc đều bảy cánh tay, thuần bằng vàng ròng.
Thấy kim luân bửu xuất hiện, vua Ðịa Thiên nghĩ rằng: Ta từng nghe người xưa nói nếu vua Sát Ðế Lơi Quán Ðảnh lên ngôi mà kim luân bửu ứng hiện thì sẽ là Chuyển Luân Thánh Vương. Nay ta có phải là Luân Vương chăng, ta nên thử xem.
Vua Ðịa Thiên liền đứng dậy trịch y vai hữu đối luân bửu chắp tay khấn rằng: Luân bửu nên hạ xuống đây. Vua khấn xong, luân bửu liền hạ xuống dừng trước vua.
Vua Ðịa Thiên dùng hương thơm thoa tay, mặc y mão đẹp, tay mặt tiếp lấy luân bửu để trong tay trái, tay mặt xoa vuốt luân bửu mà khấn rằng: Nay ngươi nên hàng phục phương Ðông.
Kim luân ấy liền bay lên hư không xoay vòng hai bên rồi dừng ở phương Ðông tại con đường chuyuển Luân Vương thuở xưa. Con đường ấy bằng phẳng rải đầy hoa bằng phẳng rải đầy hoa rất khả ái. Chỗ kim luân đi qua mặt đất đều bằng phẳng không có cao thấp. Do phước đức của vua Ðịa Thiên nên những ao suối giếng hồ khô cạn đều đầy nước tám đức, tất cả cây cối đều xum xê tươi tốt đầy trĩu hoa trái.
Bấy giờ vua Ðịa Thiên mang bốn binh chủng đi theo luân bửu, nếu luân bửu dừng lại vua và binh chủng cũng dừng theo. Những xứ nhà vua đến, quốc vương và thần dân xứ ấy đồng mang lễ vật ra nghênh đón và phụng hiến cả quốc độ ấy cho vua ngự trị.
Vua Ðịa Thiên Chuyển Luân Vương liền bảo rằng: Ta chẳng cần đến quốc độ nầy, các ngươi cứ cai trị như xưa, nhưng phải xa lìa những sự sát sanh, cũng chớ trộm cắp, chẳng được tà dâm, không nên vọng ngữ lưỡng thiệt ác khẩu ỷ ngữ, chớ có tham dục giận thù và tà kiến. Các người phải tự mình tu mười nghiệp đạo lành và bảo người khác cùng tu. Nay ta nhận biết các người quy phục nơi ta, tuân lời ta truyền, ta xem các người như con em ta. Các người phải thảo ngay phụng dưỡng cha mẹ sư trưởng và các nhà tu hành. Chớ làm sự phi pháp và sự ác bất thiện, cũng khuyên người làm lành lánh dữ. Nếu được như vậy mới thiệt quốc độ và nhơn dân xứ nầy qui phục nơi ta.
Lần lượt như vậy, vua Ðịa Thiên theo luân bửu hàng phục xong châu Phất Bà Ðề phương Ðông và cả ba châu Nam, Tây, Bắc rồi trở lại Diêm Phù Ðề tại cung thành cũ, kim luân bửu ấy dừng ở bất động tại hư không trên chỗ vua ngự. Lúc ấy cả bốn châu thiên hạ, do phước lực của vua Ðịa Thiên nên đều biến thành bảy báu trang nghiêm, đó là vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não. Ba ác đạo cũng được giải trừ sanh vào đường lành. Toàn cõi không còn tiếng ác, không còn một ai tạo nghiệp ác.
Tại sao được như vậy? Ðó là do bổn nguyện lực của vua Ðịa Thiên. Vả lại lúc kim luân bửu xoay lăn đến đâu, cả tứ thiên hạ chẳng cần gieo trồng mà mọi nơi đều mọc đầy những cạnh mễ tự nhiên không có cám trấu. Mọi nơi lại tự nhiên sản xuất y phục báu đẹp từ những cây thiên thọ. Tất cả bệnh hoạn khắp nơi đều tự nhiên lui mất, chỉ trừ ba điều là cầu dục lạc, ăn nuốt và suy già. Tất cả nhơn dân đều thọ đủ ngàn muôn tuổi, tất cả những khổ não đều tự nhiên tiêu trừ. Có vô lượng sự hi hữu chẳng thể nghĩ bàn như vậy xuất hiện nơi thế gian sau lúc vua Ðịa Thiên theo luân bửu ngự trị toàn bốn châu thiên hạ.
Thời gian lâu về sau, một hôm vua Ðịa Thiên nghĩ rằng: Nơi đây ta thọ hưởng khoái lạc, chẳng biết còn có chốn nào hơn? Vua lại nhớ đã từng nghe trời Ðao Lợi ở đảnh núi Tu Di, sự vui đẹp ở đó thế nào?
Vì lòng còn nặng ái dục nên vua Ðịa Thiên chán ghét sự thọ dụng ở nhân gian mà mong muốn sự vui đẹp ở cõi trời, nên vua cùng bốn binh chủng bay lên cung trời Ðao Lợi.
Thấy vua Ðịa Thiên đến, Ðế Thích vui mừng đón tiếp và chia chỗ ngự trị cho.
Cùng Ðế Thích chia trị cõi trời vô lượng trăm ngàn năm, vua Ðịa Thiên bỗng có ý nghĩ truất bỏ Ðế Thích để mình trọn quyền. Vừa nghĩ như vậy xong, vua Ðịa Thiên và bốn binh chủng từ cung trời Ðao Lợi rơi xuống thành An Ổn nơi Diêm Phù Ðề.
Bấy giờ vua Ðịa Thiên vì lâu ngày ăn dùng vật thực thắng diệu cõi trời, nay bỗng đến nhơn gian nên chẳng chịu được đồ thô xấu, thân tâm vua bị trầm một, như đem đề hồ đổ trên cát nóng liền chìm mất .
Thân tâm quá mệt suy vua Ðịa Thiên nói kệ rằng:
Các vua chúa tự tại
Chẳng trừ được khát ái
Như cỏ khô gặp lửa
Thế nên phải bỏ dục
Thường làm sự dâm dục
Chưa từng có lúc thỏa
Như khát uống nước mặn
Chẳng bao giờ hết khát
Như các dòng về biển
Chẳng bao giờ đầy được
Ái dục cũng như vậy
Chưa bao giờ thỏa đủ
Như lửa cháy cỏ cây
Không bao giờ thôi đủ
Ái dục cũng như vậy
Không bao giờ thỏa đủ
Như tiếng vang hang sâu
Theo tiếng không thôi dứt
Nghe tiếng cũng như vậy
Không bao giờ thôi dứt
Như thùng chứa chất thơm
Chứa đựng không chọn lọc
Ngửi hương cũng như vậy
Không bao giờ chán đủ
Như vá múc đồ ăn
Không bao giờ thôi đủ
Lưỡi nếm các vị ngon
Cũng không hề biết đủ
Như gương sáng hiện bóng
không bao giờ thôi đủ
Người hành dục cũng vậy
Với dục không chán đủ
Như hư không chứa gió
Không bao giờ đầy đủ
Thân thường ưa chạm xúc
Không bao giờ chán đủ
Như trong mộng uống nước
Chẳng bao giờ trừ khát
Y thức duyên các pháp
Cũng chẳng hề chán đủ
Người tham cầu ái dục
Càng thêm lớn ái dục
Nhìn xem các sự cảnh
Ái luyến chẳng chán đủ
Thấy dục tăng khổ não
Dường như lửa cháy củi
Dứt trừ các ái dục
như dùng nước tắt lửa
- Nầy Ðại Vương, chớ nghĩ là ai khác, vua Ðịa Thiên thuở xưa ấy chính lá thân Phật đây vậy.
Thuở xưa ấy vua Ðịa Thiên giàu mạnh tự tại, vì tham cầu không chán đủ nên phải chết mất. Tại sao? Do vì các căn không chán đủ nên sự cảnh không thỏa mãn được. Các ăn như gương soi, sự cảnh như bóng tượng. Các căn như ảo, cảnh giới như mộng.
Ðại Vương phải để tâm nơi pháp nầy tự quan sát thật kỹ sâu, chớ theo nơi khác. Pháp nầy là Vô Thượng Bồ Ðề của chư Phật ba đời.
Ðại Vương phải xa rời tất cả giàu mạnh, phải tiêu kiệt tất cả ái dục, lật đổ núi kiêu mạn, rời xa tất cả suy họa, bình đẳng đối với tất cả pháp. Ðây chẳng phải là địa vị với tất cả phàm phu, chẳng phải đường đi của tất cả hàng Thanh Văn, cũng chẳng phải cảnh giới của tất cả Duyên Giác, mà chính là chỗ đi của tất cả Bồ Tát, là tất cả chứng đắc của tất cả chư Phật Ðẳng Chánh Giác.
Ðại Vương phải chú tâm chớ để tán loạn, phải suy nghĩ rằng ; Ở trong tất cả thế gian thuở vị lai, tôi phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc lớn, làm ánh sáng, làm thuyền bè, làm đạo sư, làm thương chủ, làm đạo thủ, làm thượng thủ, tự độ và độ người ,tự thoát và giải thoát người, tự an và an cho người, tự được Niết Bàn khiến người cũng được Niết Bàn.
Ðại Vương chớ xem xét sự giàu mạnh tự tại đã có thuở trước. Phải biết các căn như ảo nó chẳng hề chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được. Cảnh giới như mộng, chẳng thể làm thỏa mãn được ".
Ðức Phật lại nói với vua Tịnh Phạn:" Thuở quá khứ có vua tên Ðảnh sanh. Vua ấy có oai đức lớn, có đại thần thông, có oai thế lớn. Vua ấy từ trên đảnh của phụ vương Ô Bô Sa mà sanh ra. Vua từ lâu chứa nhiều căn lành, đã từng thấy vô số chư Phật và tu các thiện căn, cung kính cúng dường chư Phật, tích chứa cội lành, rất được giàu mạnh tự tại trong bốn thiên hạ. Sau khi được quán đảnh lên ngôi vua bảy ngày thì bảy báu hiện ra đủ, làm Chuyển Luân Thánh Vương.
Những gì là bảy báu của Chuyển Luân Thánh Vương?
Một là kim luân bbửu, thuần bằng vàng ròng, đủ ngàn căm, giàn trục đủ, ngang dọc đều bảy cánh tay, tự nhiên hiện đến trước nhà vua.
Hai là bạch tượng bửu, đủ sáu ngà, bảy chi chống đất, trắng như núi Tuyết, tự nhiên ứng hiện đến.
Voi và ngựa hai báu ấy, từ sáng sớm đến giờ ăn có thể đi khắp tám phương bốn châu thiên hạ, hết mé các biển rồi trở về chỗ cũ
Bốn là minh châu bửu, lớn bằng bắp vế người, thuần lưu ly xanh ánh sáng chiếu ra xung quanh đều một do tuần.
Năm là trưởng giả bửu, giàu có vô lượng, tùy ý vua muốn đều có thể sẵn đủ cả. Sáu là ngọc nữ bửu, đoan trang xinh đẹp tuyệt luân, toàn thân toát ra mùi chiên đàn, hơi miệng sạch thơm, như hoa sen xanh, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt, thân sắc mịn màng như lá đồng đỏ. Cả thân mềm dịu như không có xương, mùa đông thì ấm, mùa hạ thì mát. Lòng dạ từ bi luôn nói lời nhỏ nhẹ tay chạm đến vua liền hiểu được ý nghĩa của vua.
Bảy là chủ binh bửu, tự nhiên xuất hiện, dũng mảnh sách mưu võ lược đệ nhứt, biết trước ý nghĩ của vua cả bảy ngày, giỏi điều binh đánh trận.
Vua ấy lại có đủ ngàn con trai đoan chánh dũng kiện hàng phục được oán địch.
Thuở ấy vua Ðảnh Sanh ngự trị bốn thiên hạ, đúng pháp giáo hóa, khiến bốn thiên hạ giàu vui an ổn, nhân dân đông nhiều, thành ấp tụ lạc gần liền nhau. Toàn cõi không có đá sỏi gai góc mà nhiều châu báu đầy đủ vô lượng, vườn rừng ao suối rất tốt khả ái. Ðó là do vua Ðảnh Sanh an trụ nơi pháp lực mà cảm hiện lành tốt như vậy. Thời kỳ ấy hoặc Người hoặc Trời hưởng thọ dục lạc tối đệ nhứt.
Ðô thành của vua Ðảnh Sanh ngự tên là A Du Xà. Thành ấy Ðông Tây đều rộng mười hai do tuần, Nam Bắc đều rộng bảy do tuần. Trong thành ngoài thành các thứ trang nghiêm đều đồng như thành Bửu Trang Nghiêm của vua Vô Biên Xung ở trên, cũng như Ðắc Thắng Ðường ở trời Ðao Lợi.
Ðảnh Sanh Vương tạo ba bửu điện: Một là Nguyệt Xuất điện, vua ở đó trong mùa Hạ, hai là Tỳ Lưu Ly điện, vua ở đó trong mùa Xuân, Ba là Nhựt Oai Ðức Khởi, vua ở đó trong mùa Ðông rét lạnh. Lúc vua cùng ngọc nữ và thể nữ vào điện Nguyệt Xuất thì thân thể vua mát mẻ như ướp thoa hương ngưu đầu chiên đàn. Lúc vua cùng quyến thuộc vào điện Tỳ Lưu Ly thì thân vua thư thới như ướp thoa hương lá đa ma la. Lúc vua cùng quyến thuộc vào điện Nhựt Oai Ðức thì thân vua ấm áp như thoa ướp hương trầm thủy.
Vua Ðảnh Sanh ấy theo chỗ thích muốn đều được tùy ý tự tại, khiến các cung điện theo thời tiết mà phát sanh sự cảm xúc vừa ý: tùy ý phát xuất gió, tùy ý phát xuất mưa, các thứ âm nhạc tùy ý vua mà đến, các đồ cần dùng cũng theo ý vua mà xuất hiện.
Bấy giờ nơi cung điện mà vua Ðảnh Sanh ngự trọn bảy ngày, trời mưa vàng và bạc. Qua bảy ngày vua nghĩ rằng: Rất là hi hữu chẳng nghĩ bàn được, nghiệp nhơn thanh tịnh cảm lấy quả báo như vậy, tùy ý hiện đến đầy đủ theo ý ta muốn, phước đức gây nên như vậy không thể sai lạc. Có ai thấy quả báo nầy mà ở nơi sự tu phước đức lại thôi nghỉ.
Vua Ðảnh Sanh ngự Diêm Phù Ðề trăm ngàn năm, sau đó vua tự nghĩ rằng nay Diêm Phù Ðề của ta an ổn giàu vui, nhơn dân đông đúc và đều quí thuộc nơi ta, trong cung điện ta mưa vàng bạc trọn cả bảy ngày. Giờ đây ta nên qua châu Tây Cù Ðà Ni.
Nghĩ xong, vua Ðảnh Sanh cùng quyến thuộc mang bốn binh chủng bay lên hư không thẳng đến châu Tây Cù Ðà Ni. Vua đã đến rồi ngự trị châu Tây trăm ngàn năm, cũng tác ý mưa vàng bạc, là cho nhơn dân đều an ổn giàu vui. Sau đó vua lại mang bốn binh chủng đến ngự trị châu Ðông Phất Bà Ðề trăm ngàn năm cũng khiến toàn châu Ðông giàu vui an ổn. Vua Ðảnh Sanh lại sang ngự trị châu Bắc Uất Ðơn Việt vô lượng ngàn năm, vua hưởng thọ y báu hơn Người mà chưa bằng Trời.
Sau đó vua Ðảnh Sanh nghĩ rằng, ta có nghe đảnh núi Tu Di có trời Ðao Lợi, ta nên đến đó quan chiêm coi thế nào.
Vua Ðảnh Sanh liền mang bốn binh chủng bay lên hư không thẳng đến đảnh núi Tu Di.
Bấy giờ Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn cùng ba mươi ba Thiên Vương hợp tại Thiện Pháp Ðường luận sự việc Trời Người.
Thấy vua Ðảnh Sanh đến, Ðế Thích đón tiếp chia ngự tòa cùng ngồi.
Lúc vua Ðảnh Sanh lên ngự tòa cùng ngồi với Ðế Thích xong liền có mười sự việc thù thắng che chói chư Thiên. Ðó là thọ mạng hơn chư Thiên, dung nhan hơn chư Thiên, danh tiếng hơn chư Thiên, thọ lạc hơn chư Thiên, ngự trị tự tại hơn chư Thiên, thân hình hơn chư Thiên, âm thanh hơn chư Thiên, hơi thơm hơn chư Thiên, vị ăn hơn chư Thiên, chạm xúc mịn dịu hơn chư Thiên.
Vua Ðảnh Sanh cùng Ðế Thích hình dung tướng mạo hành động oai nghi đồng nhau không sai khác, ăn uống y phục đồ dùng cũng đồng, chỉ có nhìn nháy là khác nhau thôi.
Nhưng chư Thiên phân biệt biết rõ thiên Vương và Nhơn Vương sai khác.
Rất là lạ lùng hi hữu, Ðế Thích và vua Ðảnh Sanh là Trời và Người mà hình dung tướng mạo lại đồng nhau, đó là sức phước đức tạo ra như vậy, ai lại ở nơi phước đức mà chẳng thích ưa.
Vua Ðảnh Sanh ở trời Ðao Lợi vô lượng ngàn năm là tăng thượng tự tại, vua chẳng biết đủ nên sau đó lại nghĩ rằng: nay ta nên một mình làm Thiên Vương cần gì Ðế Thích, ta sẽ truất phế ông ấy. Vừa nghĩ xong như vậy, vua Ðảnh Sanh cùng toàn thể quyến thuộc bốn binh chủng liền rơi xuống Diêm Phù Ðề trong vườn ngoài thành A Tu Xà.
Lúc vua Ðảnh Sanh rơi xuống oai quang chiếu sáng khắp mọi nơi làm luốt mất ánh sáng mặt trời. Như lúc mặt trời mọc, mặt trăng bị luốt mất, lúc vua Ðảnh Sanh sa xuống mặt trời bị luốt mất cũng như vậy.
Bấy giờ có người xuất thành thấy như vậy, vội vào phổ cáo cho mọi người trong thành hay rằng: Nay có Thiên Tử cùng bốn binh chủng từ hư không sa xuống vườn ngoài thành.
Ðược tin ấy, quốc Vương cùng thần dân chỉnh đốn nghi lễ mang hoa hương kỹ nhạc xuất thành đến khu vườn ấy để tiếp nghinh vua Ðảnh Sanh.
Lúc vua Ðảnh Sanh sa xuống, toàn cõi đất chấn động sáu cách.
Vua Ðảnh Sanh vì đã quen hưởng thọ dục lạc cõi trời nên chẳng chịu được hơi hám và đồ dùng ở nhơn gian, vua mê mệt nằm trên đất, như tô lạc đề hồ đổ vào cát rất nóng liền tiêu tan.
Quốc Vương và thần dân thấy vua Ðảnh Sanh hôn mê nằm trên đất liền kêu hỏi: Ngài là ai?
Vua hỏi lại các người có từng nghe nói vua Ðảnh Sanh thuở xưa chăng?
Quốc vương và thần dân đáp đã có nghe các bực kỳ cựu thuật rằng có vua Ðảnh Sanh chẳng bỏ thân người đem quyến thuộc và bốn binh chủng bay lên trời.
Vua nói Ðảnh Sanh Vương thuở xưa chính là ta đây . Ta cùng bốn binh chủng từ trời rơi xuống vậy.
Quốc Vương và thần dân nói kệ hỏi vua rằng:
Tôi nghe kỳ cựu nói
Xưa có vua oai đức
Hiệu là Ðảnh Sanh Vương
Có danh tiếng rất lớn
Vua mang bốn binh chủng
Từ đây bay lên trời
Cũng đem cả quyến thuộc
Thánh Vương trị đúng pháp
Trời Người tuân lời vua
Sức vô thường làm hại
Mất báo trời chịu khổ
Ðảnh Sanh Vương là Ngài
Chúng tôi đều chắp tay
Cúi đầu lạy chân vua
Có sự hi hữu gì
Sẽ truyền lại đời sau.
Vua Ðảnh Sanh Vương từ trời sa xuống bị khổ nói kệ đáp rằng:
Ðảnh Sanh Thánh Vương xưa
Thống lãnh bốn thiên hạ
Thọ lạc hơn Trời Người
Tham không nhàm phải chết
Xưa trong cung vua ấy
Mưa trân bửu bảy ngày
Trị thiên hạ đúng pháp
Tham không nhàm phải chết
Vua trước cùng Thiên Ðế
Chia ngự tọa mà ngồi
Vì phát khởi ác niệm
Quá tham dục phải đọa
Ở trong biển sanh tử
Vì vô trí nên chìm
Vì say đấm ngũ dục
Tham không nhàm phải chết
Như khát mộng uống nước
Chẳng thể hết khát được
Thọ ngũ dục cũng vậy
Trọn không hề chán đủ
Các chúng sanh trí huệ
Dứt trừ tối ngu si
Người trí ấy biết đủ
Chánh quán sát các loài
Trí quán sát các loài
Huệ thấy già bịnh chết
Dứt trừ các khát ái
Bỏ các loài không ham
Quán chạm xúc như lửa
Thì bỏ được khát ái
Quán thọ lạc cũng vậy
Biết ái là chẳng lành
Như đánh các âm nhạc
Căn cảnh giới cũng vậy
Dùng thánh giáo điều phục
Bỏ được căn tự tánh
Tất cả năm loài sanh
Sanh ra từ danh sắc
Trong ấy thức phân biệt
Thì phát sanh tưởng nghĩ
Thánh giả chánh quán sát
Chẳng tham chấp nghiệp nhơn
Trí giả đủ sáng suốt
Chứng diệt như củi tàn
Vua Ðảnh Sanh nói kệ đáp mọi người xong thì chết.
- Nầy Ðại Vương! Vua Ðảnh Sanh thuở xưa ấy chính là thân Phật đây. Ngày xưa Phật từng làm Ðảnh Sanh Chuyển Luân Vương thống lãnh Trời Người oai thế tự tại, vì tham dục không nhàm đủ mà phải chết mất.Vì lẽ ấy nên phải rời bỏ giàu sang kiêu mạn oai thế mà an trụ chẳng phóng dật . Nếu có thể an trụ được nơi hạnh chẳng phóng dật, thì có thể tu các thiện căn.
- Nầy Ðại Vương! Nếu chẳng phóng dật lại có thể vào pháp giới bình đẳng. Nếu người lìa được phóng dật thì thành tựu lợi ích.
- Nầy Ðại Vương! Hữu vi vô vi giới chẳng phải nam nữ, chẳng phải quá vị hiện tại. Ðại Vương nên ở nơi pháp nầy mà an trụ tự tâm, chớ theo giáo pháp khác. Pháp nầy là Vô Thượng Bồ Ðề của tam thế chư Phật.
Ðại Vương nên xa rời tất cả hào quí, tiêu cạn tất cả biển dục, xô ngã núi kiêu mạn, rời xa tất cả suy đọa, bình đẳng với tất cả. Ðây chẳng phải chỗ của phàm phu, chẳng phải hàng Thanh Văn làm được, cũng chẳng phải cảnh giới của Duyên Giác. Ðây là công hạnh của tất cả Bồ Tát, là chỗ chứng của chư Phật Chánh Ðẳng Giác.
Ðại Vương phải nhiếp tâm chớ để tán loạn, phải suy nghĩ rằng: Ðời vị lai ở trong tất cả Nhơn Thiên thế gian, ta phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc, làm ánh sáng, làm thuyền, làm hướng đạo, làm thầy, làm thương chủ, làm đạo thủ, làm vô thượng, tự độ độ người, tự thoát giải thoát người, tự an an ổn người, tự được Niết Bàn khiến người được.
Ðại Vương chớ quan sát thuở trước đã từng giàu sang tự tại, phải biết các căn như ảo không có chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được, cảnh giới như mộng chẳng thỏa mãn được
- Nầy Ðại Vương! Thuở quá khứ có vua hiệu là Ni Di, rõ thấu các pháp, làm vua đúng pháp, trọn chẳng phóng dật, khi vua có làm việc thì rời lìa phóng dật.
Vua Ni Di ấy thường quán tam thế bình đẳng, lại quán tất cả pháp cũng như tam thế bình đẳng. Vua ấy quán tất cả pháp quá khứ xa lìa tự tánh, quán vị lai tất cả pháp xa lìa tự tánh, quán hiện tại tất cả pháp cũng xa lìa tự tánh. Quán tất cả pháp bình đẳng rồi, vua ấy ở nơi tất cả pháp chẳng thủ trước. Vua ấy quán tất cả thế gian bị bốn thứ điên đảo nó làm điên đảo: ở trong pháp bất tịnh mà tưởng là tịnh, ở trong pháp khổ mà tưởng là vui, ở trong pháp vô thường mà tưởng là thường, ở trong pháp vô ngã mà tưởng là ngã. Vua quán thế gian rồi tự nghĩ rằng: Thế gian bại hoại đại bại hoại, chúng sanh ở nơi tất cả pháp tự tánh, không tịch mà họ chẳng hay biết. Ta nên dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp các chúng sanh. Các chúng sanh ấy tùy thuận ta rồi tất sẽ lãnh thọ lời ta dạy.
Vua Ni Di dùng bốn nhiếp pháp nhiếp các chúng sanh rồi liền đem pháp bình đẳng dạy các chúng sanh.
- Nầy đại chúng! Tất cả các pháp lìa tự tánh. Nếu tất cả pháp lìa tự tánh thì nó cũng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Tại sao? Vì các pháp ấy tự tánh chẳng phải thiệt vậy. Các pháp đã lìa tự tánh thì các pháp ấy chẳng thể gọi nó lá quá khứ vị lai hiện tại.
Vua Ni Di dạy các chúng sanh về pháp tam thế bình đẳng rồi, có tám mươi ngàn vạn na do tha vô lượng trăm ngàn chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ tại cung trời Ðao Lợi, chư Thiên Tử tụ hội nghị luận rằng: Lành thay lành thay, người nước Diêm Phù Ðề được đại lợi ích. Vua Ni Di hiểu rõ các pháp, làm vua đúng pháp có đủ phương tiện. Ở nơi các chúng sanh điên đảo, vua ấy dùng phương tiện khéo dạy họ pháp chẳng điên đảo
Bấy giờ Thích Ðề Hoàn Nhơn ở cách xa Thiện Pháp Ðường, do thiên nhĩ vói nghe lời các Thiên tử nghị luận, liền đến Thiện Pháp Ðường lên ngự pháp tọa bảo các Thiên Tử rằng: Vua Ni Di ấy thành tựu đầy đủ phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Tại trời Ðao Lợi nầy, các Ngài có muốn thấy vua Ni Di ấy chăng ?
Chư Thiên Tử đồng thưa muốn được thấy.
Thiên Ðế liền truyền ngự thần tên Ma Ða Lê rằng: Nhà ngươi nên trang bị ngàn xe báu cõi trời đến Diêm Phù Ðề nước Bệ Ðề A thưa với vua Ni Di rằng: Ðây là ngàn xe báu cõi trời sai đến rước vua, xin vua chớ kinh sợ. Tất cả chư Thiên Ðao Lợi đều muốn được thấy vua. Xin vua lên ngự trên xe báu nầy.
Lúc thấy vua Ni Di lên xe rồi, thì ngươi hỏi: "Thưa Ðại Vương! Nay tôi đem vua theo đường nào để đi đến trên trời Ðao Lợi? Theo đường chúng sanh an trụ điên đảo mà đi hay theo đường chúng sanh chẳng an trụ điên đảo mà đi.
Thiên thần Ma Ða Lê lãnh lịnh Thiên Ðế Thích nghiêm bị ngàn xe báu, tự lên ngồi rồi từ Ðao Lợi Thiên xuống Diêm Phù Ðề đến nước Bệ Ðề A thưa vua Ni Di rằng: Chư Thiên Ðao Lợi đem ngàn xe báu đến rước xin vua chớ nghi sợ. Chư Thiên trên ấy đồng muốn thấy vua.
Bấy giờ vua Ni Di lòng không kinh sợ buớc lên xe báu. Vua đã lên rồi, thiên thần Ma Ða Lê lại thưa rằng: Nay tôi phải đem vua đi đường nào, đi đường chúng sanh an trụ điên đảo, hay đi đường chúng sanh chẳng an trụ điên đảo?
Vua Ni Di bảo Thiên Thần: Ngài có thể đưa tôi đi khoảng giữa hai đường ấy.
Ma Ða Lê liền đem vua đi giữa hai đường ấy.
Vua Ni Di bảo Thiên Thần: Ngài nên tạm dừng xe lại, tôi muốn quan sát các chúng sanh điên đảo.
Thiên Thần tuân lời dừng xe. Trong thời gian ngắn ấy, vua Ni Di làm cho tám mươi ngàn vạn chúng sanh an trụ trong thiệt kiến tam muội. Tại sao được như vậy? Vì vua từ lâu đã khéo tu tập bất phóng dật hạnh. Khiến chúng sanh nhập thiệt kiến tam muội rồi sau sẽ đều được vô sanh pháp nhẫn.
Ma Ða Lê trọn chẳng hay biết việc làm của vua Ni Di, tiếp tục đưa vua đi đến đảnh núi Tu Di. Từ xa vua thấy rừng rậm xanh tốt liền bảo Thiên Thần:Rừng ấy quyết định là chỗ ở của các chúng sanh chẳng điên đảo.
Thiên Thần Ma Ða Lê thưa: Nơi ấy chính là Thiện Pháp Ðường, chư Thiên Ðao Lợi đang chờ được thấy vua, xin vua bước lên chớ sợ.
Bấy giờ vua Ni Di lòng chẳng sợ bước lên Thiện Pháp Ðường. Thiên Ðế Thích đón tiếp vua và chia nửa bửu tọa cho vua cùng ngồi.
Hai vua ngồi xong. Thiên Ðế Thích ôn nhu nói với vua Ni Di rằng: Ðại vua làm được lợi ích lớn, có thể làm cho Phật pháp thạnh hưng tăng trưởng.
Thiên Ðế Thích lại bảo chư Thiên Ðao Lợi rằng: Vua Ni Di nầy đầy đủ thành tựu phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Trong thời gian ngắn, vua nầy có thể làm cho tám mươi ngàn vạn chúng sanh an trụ Phật pháp mà Ma Ða Lê đều chẳng hay biết.
Lúc ấy vua Ni Di vì chư Thiên Ðao Lợi mà giảng rộng Phật pháp vi diệu. Làm cho chư Thiên được lợi ích xong, vua thưa với Thiên Ðế Thích rằng: Tôi muốn trở lại Diêm Phù Ðề,. Tại sao? Vì tôi muốn hộ trì chánh pháp của Phật tại Diêm Phù Ðề vậy.
Thiên Ðế Thích liền truyền Ma Ða Lê nghiêm bị ngàn cổ xe đưa vua Ni Di về.
Về đến Diêm phù Ðề vua Ni Di thành tựu phương tiện đại từ thiện xảo dìu dắt vô lượng chúng sanh an trụ Phật pháp.
- Nầy Ðại Vương! Vua Ni Di thuở xưa ấy chính là thân Phật đây vậy.
Ðại Vương nên quan sát năng lực của hạnh bất phóng dật khó nghĩ bàn được. Vua Ni Di lên ngồi ngự tọa của Thiên Ðế Thích mà còn chẳng tham trước. Vì thế nên Ðại Vương ở trong Phật pháp phải siêng năng tinh tấn tu các hạnh chẳng phóng dật.
- Nầy Ðại Vương! Thế nào gọi là Phật pháp?
- Nầy Ðại Vương! Tất cả pháp đều là Phật pháp cả".
Tịnh Phạn Vương nghe lời dạy nầy liền bạch rằng: "Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp là Phật pháp, thì tất cả chúng sanh cũng lẽ ra là Phật" .
Ðức Phật phán rằng: "Nếu chẳng điên đảo thấy chúng sanh thì chính là Phật vậy".
- Nầy Ðại Vương! Nói là Phật đó, là như thiệt thấy chúng sanh vậy, như thiệt thấy chúng sanh chính là thấy thiệt tế. Thiệt tế chính là pháp giới.
- Nầy Ðại Vương! Thiệt tế ấy chẳng thể hiển thị được. Chỉ là danh từ, chỉ là thế tục, chỉ là trong số thế tục, chỉ có ngôn thuyết, chỉ giả đặt để. Phải nhận xét như vậy.
- Nầy Ðại Vương! Tất cả pháp vô sanh đây là môn đà la ni. Tại sao đây gọi là môn đà la ni ? Ở đây tất cả pháp không động không lay, không lấy không bỏ, đây gọi là môn đà la ni.
- Nầy Ðại Vương! Tất cả pháp bất diệt là môn đà la ni. Tại sao bất diệt là môn đà la ni ? Trong ấy, tất cả pháp chẳng động chẳng lay, chẳng lấy chẳng bỏ. Môn đà la ni ấy không có tướng mạo, không có tự tánh, không đặt đề được, không tác không tạo, không lai không khứ, không ngã không nhơn, không chúng sanh không thọ mạng, không dưỡng dục chẳng phải đối trị, không hình không trạng, không trói không rời, không uế không tịnh, không thương không ghét, không buộc không mở, không xuất không thối, không được không ở, không định không loạn, không tri chẳng phải vô tri, chẳng phải kiến chẳng phải vô kiến, chẳng phải giới chẳng phải phạm, chẳng phải ăn năn chẳng phải không ăn năn, chẳng phải mừng chẳng phải không mừng, chẳng phải khổ chẳng phải vui, chẳng phải định chẳng phải bất định, chẳng phải thiệt chẳng phải đảo, chẳng phải Niết Bàn chẳng phải không Niết Bàn, chẳng phải ái kiến chẳng phải lìa ái kiến, chẳng phải giải thoát chẳng phải không giải thoát, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải nhìn xem chẳng phải chẳng nhìn xem, chẳng phải nghiệp chẳng phải chẳng nghiệp, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo.
- Nầy Ðại Vương! Phải dùng sáu mươi bảy pháp môn để vào tất cả pháp.
- Nầy Ðại Vương tự thể các pháp chẳng phải từng có sẽ có
hiện có. Như tượng trong gương chẳng phải có không, tự thể của sắc cũng vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.
- Nầy Ðại Vương! Như vang chẳng phải đã sẽ, và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.
- Nầy Ðại Vương! Như dương diệm chẳng phải đã sẽ và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.
- Nầy Ðại Vương như khối bọt nước chẳng bền chắc, nó chẳng phải đã sẽ và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.
- Nầy Ðại Vương! Như mộng thấy nữ nhơn đẹp, sự thấy trong mộng chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thể tánh của sắc thọ tưởng hành thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có.
- Nầy Ðại Vương! Như Thạch Nữ mộng thấy đẻ con trai, sự được thấy trong mộng ấy chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thể tánh của thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có.
- Nầy Ðại Vương! Sắc không có sanh cũng không có diệt, thọ tưởng hành và thức không có sanh cũng không có diệt, như Niết Bàn giới không có sanh không có diệt vậy.
Như pháp giới không sanh không diệt, sắc thọ tưởng hành và thức không sanh không diệt cũng như vậy.
- Nầy Ðại Vương Tất cả pháp là Như Lai cảnh giới, bất khả tư nghì cũng là Như Lai cảnh giới, bất cộng pháp, cũng là Như Lai cảnh giới, vì chẳng cùng chung với cảnh giới của tất cả phàm phu vậy, cũng chẳng cùng chung với cảnh giới của tất cả Thanh Văn Duyên Giác vậy.
Tất cả pháp ấy chẳng phải chê chẳng phải khen, chẳng phải được chẳng phải mất, chẳng phải giác chẳng phải bất giác, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải thức chẳng phải bất thức, chẳng phải xả chẳng phải bất xả, chẳng phải tu chẳng phải bất tu, chẳng phải thuyết chẳng phải bất thuyết, chẳng phải chứng chẳng phải bất chứng, chẳng phải hiển thị chẳng phải chẳng hiển thị, chẳng phải khả văn chẳng phải chẳng khả văn.
Tại sao vậy?
Vì pháp ấy không có pháp phò cử được xô ngã được như vậy.
Tại sao vậy?
Vì tất cả pháp rời lìa tự tánh vậy.
Ðại Vương nay phải an tâm ở trong pháp ấy, sâu quan sát nó chớ tin nơi khác".
Bấy giờ Tịnh Phạn Vương nghĩ rằng: Ở trong các pháp không có pháp gì để được. Không có pháp ấy chứng được pháp ấy mà gọi là Phật ấy. Các pháp thiệt chẳng có được. Chỉ vì chúng sanh mà Ðức Phật giả ngôn thuyết thôi.
Lúc Phật nói pháp ấy, Tịnh Phạn Vương và bảy vạn Thích chủng được vô sanh pháp nhẫn.
Ðức Phật biết hàng Thích chủng được thâm tín rồi liền hiện mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ hỏi Phật:
"Ðấng Ðại Hùng Ðạo Sư
Vì đời mà mỉm cười
Mong đuốc sáng thế gian
Diễn nói sự mỉm cười
Thập lực Nhứt thiết trí
Cớ chi hiện mỉm cười
Xin nói cớ cười ấy
Dứt lưới nghi thế gian
Phật vì hàng Thích chủng
Mà hiện tướng mỉm cười
Xin mau trừ lưới nghi
Của chúng Trời và Người
Ðược nghe Ðức Phật nói
Thế gian hết nghi ngờ
Lòng họ được hoan hỉ
An trụ trong Phật pháp
Các con của Thế Tôn
Ðược nghe cớ mỉm cười
Bền chắc ở thệ nguyện
Trí huệ tất thông đạt
Ngưỡng mong đấng Ðạo Sư
Dứt trừ lòng chúng nghi
Chúng được hết nghi rồi
Tất được vui lớn rộng".
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:
"Phật hiện cười tịch diệt
Mã Thắng hãy lắng nghe
Nay Phật sẽ nói rõ
Thích chủng quyết định trí
Các pháp bất khả đắc
Thích chủng đều biết được
Vì thế tâm quyết định
An trụ nơi Phật pháp
Dòng họ Thích danh tiếng
Y cứ vô sở đắc
Sẽ được Vô Thượng Giác
Biết rõ tất cả pháp
Mạng người nầy mãn rồi
Thích chủng ấy quyết định
Ðược sanh nước cực lạc
Gần kề Phật Di Ðà
Họ ở cực lạc rồi
Vô úy thành Bồ Ðề
Hay đến mười phương cõi
Cúng đường vô số Phật
Ở tại một Phật độ
Hay cúng mười phương Phật
Vì thương xót chúng sanh
Mà cầu đạo vô thượng
Du lịch các Phật quốc
Cúng dường chư Phật ấy
Ðều do thần lực mình
Theo chỗ chư Phật mà đến
Vô lượng vô số kiếp
Cúng dường các Ðạo Sư
Với các thứ diệu cúng
Sau sẽ thành Phật đạo
Mỗi mỗi thành Phật rồi
Hay độ vô lượng chúng
Khiến được thành Phật đạo
Lại giáo hóa chúng sanh
Chúng sanh ở nước ấy
Ðều sẽ thành Phật đạo
Chư Phật Thế Tôn ấy
Chẳng độ chúng Thanh Văn
Mỗi Phật Thế Tôn ấy
Ðều thọ một kiếp tuổi
Chánh pháp chư Phật ấy
Vô lượng vô số kiếp
Chư Phật ấy diệt độ
Chư Bồ Tát đại Trí
Gìn pháp độ thế gian
Ức Vô số ngàn năm
Chư đại Bồ Tát ấy
Giáo hóa vô lượng chúng
Ðặt ở đạo Vô thượng
Thuyết pháp đều không tịch
Khiến trụ bất phóng dật
Tu tập pháp không tịch
Hay được Nhứt thiết trí
Ưa hạnh bất phóng dật
Nghe Thế Tôn tuyên nói
Thọ ký hàng thích chủng
Trời Người đều vui mừng
Chí cầu đạo vô thượng".
Bấy giờ Ðức Thế Tôn bảo Huệ Mạng Xá Lợi Phất: Nầy Xá Lợi Phất! Ðây là tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát. Ông phải nói lại với hàng bất thối chuyển của Bồ Tát. Tại sao vậy? Nầy Xá Lợi Phất! Tam muội nầy chẳng thể nói được. Như Lai ở trong tam muội ấy chẳng được một pháp. Nếu là chẳng được thì nó là chẳng thể giác được. Nếu chẳng thể giác đuợc thì nó là chẳng thể nói được. Nếu chẳng thể nói được thì nó là chẳng thể biết được. Chẳng thể biết được ấy tức là pháp của tam thế chư Phật vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nay ta phó chúc cho ông, đây là tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát phải nên thọ trì đọc tụng giảng nói rộng cho người.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam thiện nữ an trụ đại thừa trải qua mười kiếp tu hành năm ba la mật, lìa Bát Nhã Ba la mật, nếu có người được nghe tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát nầy thì phước đức lớn hơn. Nếu người tạm nghe tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát nầy, nếu lại có người được nghe đây rồi nói cho mọi người thì phước đức càng lớn hơn.
Nếu có người trong mười kiếp nghe đây rồi nói cho mọi người, nếu lại có người nhẫn đến trong thời gian một sát na tu tập tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát thì phước đức càng lớn hơn.
Vì thế nên Xá Lợi Phất đem kinh Bồ Tát Kiến Thiệt Tam Muội nầy vì chư Bồ Tát mà diễn nói chỉ dạy tu hành.
- Nầy Xá Lợi Phất! Nếu tu theo tam muội nầy thì sẽ được vô sanh pháp nhẫn.
- Nầy Xá Lợi Phất! Trong pháp hội đây, chư Bồ Tát được ta thọ ký đạo vô thượng đều được an trụ trong tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát.
Bấy giờ tất cả Bồ Tát Thanh Văn, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà, Nhơn Phi Nhơn tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều vui mừng phụng hành.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 120 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.86.233 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập