Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bi Hoa Kinh [悲華經] »» Bản Việt dịch quyển số 9 »»

Bi Hoa Kinh [悲華經] »» Bản Việt dịch quyển số 9

» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.55 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.66 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Bi Hoa

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Thích Nữ Tâm Thường

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Quyển 9
Phẩm 5: BỐ THÍ BA LA-MẬT
(Phần 2)

Thiện nam tử, pháp môn Thanh tịnh trợ Bồ-đề của Đại Bồ-tát là những gì?
Thiện nam tử, Bố thí tức là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì giáo hóa chúng sinh.
Trì giới là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đầy đủ nguyện lành.
Nhẫn nhục là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.
Tinh tấn là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì siêng năng giáo hóa các chúng sinh.
Thiền định là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì làm cho tâm được điều phục hoàn toàn.
Trí tuệ là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì có thể biết đầy đủ các thứ phiền não.
Đa văn là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đầy đủ sự vô ngại đốì với các pháp.
Nhất thiết công đức là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì làm cho tất cả chúng sinh được đầy đủ.
Trí nghiệp là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì được đầy đủ trí vô ngại.
Tu định là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thành tựu được tất cả tâm nhu nhưyến, nhẹ nhàng.
Tuệ nghiệp là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì xa lìa tất cả các nghi hoặc.
Tâm Từ là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì tâm vô ngại đốì với các chúng sinh.
Tâm Bi là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì diệt hết các khổ cho chúng sinh.
Tâm Hỷ là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì ưa thích pháp.
Tâm Xả là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì không còn yêu ghét.
Nghe pháp là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đoạn trừ năm sự ngăn che.
Xuất thế là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì xả bỏ những gì mình có.
A-lan-nhã là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì lìa mọi thứ bận rộn.
Chuyên niệm là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì được Đà-la-ni.
Ghi nhớ đúng là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì ý thức phân biệt.
Tư duy là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đối với các pháp được hiểu rõ nghĩa.
Niệm xứ là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì phân biệt hiểu rõ thân, thọ, tâm, pháp.
Chánh cần là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì chấm dứt các pháp ác, tu tập các pháp thiện.
Như ý túc là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thân tâm nhẹ nhàng.
Các căn là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì được đầy đủ căn lành của tất cả chúng sinh.
Các lực là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì có thể phá diệt hoàn toàn các phiền não.
Các giác chi là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đốì với cảc pháp hiểu biết đầy đủ tướng thật.
Chánh đạo là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì xa lìa tất cả các tà đạo.
Thánh đế là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đoạn diệt tất cả các phiền não.
Bốn vô ngại biện là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì diệt trừ được các nghi hoặc cho chúng sinh.
Duyên niệm là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì được trí tuệ không do nghe từ nơi người khác.
Thiện hữu là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì giúp cho thành tựu tất cả công đức.
Phát tâm là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thành tựu không dốì trá với các chúng sinh.
Dụng ý là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì phát xuất tất cả pháp.
Chuyên tâm là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì tăng thêm pháp lành.
Tư duy pháp lành là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thành tựu được các pháp đã nghe.
Nhiếp thủ là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thành tựu việc giáo hóa các chúng sinh.
Hộ trì chánh pháp là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì làm cho hạt giống Tam bảo không bị chấm dứt.
Thiện nguyện là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thành tựu thế giới Phật tươi đẹp, thanh tịnh.
Phương tiện là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì mau được thành tựu Nhất thiết trí.
Thiện nam tử, đây là tất cả các pháp môn thanh tịnh trợ Bồ-đề của Đại Bồ-tát.
Thiện nam tử, bấy giờ Đức Bảo Tạng Như Lai nhìn đại chúng Bồ-tát khắp bốn phía rồi bảo Đại Bi:
-Này Đại Bi, Bồ-tát dùng ngọc anh lạc vô sở úy trang nghiêm đầy đủ nơi pháp nhẫn như thế nào?
Thiện nam tử, Bồ-tát nào thấy rõ Đệ nhất nghĩa không còn si mê, nên tinh tấn không tham đắm nơi ba cõi. Không tham đắm nơi ba cõi là pháp Tam-muội vô úy của Sa-môn, như đưa tay giữa hư không, không bị vướng mắc. Lại quán sát các pháp không thấy có tướng.
Đại Bi, đó gọi là Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng ngọc anh lạc vô sở úy.
Thiện nam tử, thế nào gọi là Đại Bồ-tát đầy đủ nhẫn? Khi Bồ-tát trụ vào pháp này, thấy được các tướng trạng của các pháp như vi trần và quán sát nghịch thuận về các pháp, hiểu rõ không có quả báo.
Tu tập về Từ, không còn có ngã.
Tu tập về Bi, không còn có chúng sinh.
Tu tập Hỷ, không còn có thọ mạng.
Tu tập Xả, không còn chấp có người.
Tuy làm việc Bố thí mà không thấy có vật thí.
Tuy tu hành Trì giới mà không thấy có tâm tịnh.
Tuy thực hành Nhẫn nhục mà không thấy có chúng sinh.
Tuy hành Tinh tấn mà không lìa tâm mong muốn.
Tuy hành Thiền định mà không dứt trừ tâm ác.
Tuv hành Trí tuệ mà tâm không có chỗ hành.
Tuy hành Niệm xứ mà không thấy tư duy.
Tuy hành Chánh cần mà không thấy sự sinh diệt của tâm.
Tuy hành Như ý túc mà không thấy tâm vô lượng.
Tuy hành Tín mà không thấy tâm không chướng ngại.
Tuy hành Niệm mà không thấy tâm được tự tại.
Tuy hành Định mà không thấy tâm nhập định.
Tuy hành Tuệ mà không thấy tuệ căn.
Tuy hành các Lực mà không có sự phá diệt.
Tuy hành các Giác ý mà tâm không phân biệt.
Tuy hành Chánh đạo mà không thấy các pháp.
Tuy hành Định nghiệp mà không thấy chỗ tịch tĩnh của tâm. Tuy hành Tuệ nghiệp mà không thấy chỗ hành của tâm.
Tuy hành Thánh đế mà không thấy thông đạt pháp tướng.
Tuy tu niệm Phật mà không thấy vô lượng tâm hành.
Tuy tu niệm Pháp mà tâm đồng pháp giới.
Tuy tu niệm Tăng mà tâm không nơi trụ, giáo hóa chúng sinh mà tâm giữ được thanh tịnh.
Tuy giữ gìn Chánh pháp mà đối với các pháp giới, tâm không phân biệt.
Tuy tu Tịnh độ mà tâm bình đẳng giống như hư không.
Tuy tu tướng hảo mà tâm không có các tướng.
Tuy được nhẫn nhục mà tâm không sở hữu.
Tuy trụ nơi Bất thối mà thường tự mình không thấy thối và bất thối.
Tuy hành đạo tràng mà hiểu rõ ba cõi không có tướng khác. Tuy phá trừ các ma mà chính vì lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Tuy hành Bồ-đề mà quán các pháp Không, không có tâm Bồ-đề.
Tuy chuyển pháp luân mà đối với tất cả pháp không chuyển, đi không trở lại.
Tuy thị hiện Đại Bát-niết-bàn, mà đối với sinh tử tâm luôn bình đẳng không khác.
Bồ-tất như vậy được gọi là đầy đủ nhẫn.
Khi giảng thuyết pháp này có sáu mươi bốn ức Đại Bồ-tát từ mười phương đến núi Kỳ-xà-quật, chỗ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni để nghe kinh Bản Duyên Tam-muội Môn Thanh Tịnh Trợ Bồ-đề Pháp này. Nghe xong, tất cả các vị ấy đều được Vô sinh nhẫn.
Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo đại chúng:
-Các ông nên biết: Trong đời quá khứ, khi Đức Bảo Tạng Như Lai thuyết giảng pháp này có bốn mươi tám hằng hà sa Đại Bồ-tát được Vô sinh nhẫn, Đại Bồ-tát nhiều như số vi trần trong bốn nơi thiên hạ đều trụ địa vị Bất thối chuyển, một hằng hà sa Đại Bồ-tát lãnh hội được kinh Bản Duyên Tam-muội Môn Trợ Bồ-đề Pháp.
Thiện nam tử, Bồ-tát Đại Bi nghe pháp này xong, tâm rất hoan hỷ, thân thể liền thay đổi, trẻ lại như người hai mươi tuổi, theo bên Như Lai như hình theo bóng.
Thiện nam tử, lúc ấy Chuyển Luân Thánh vương và một ngàn người con, tám vạn bốn ngàn tiểu vương, chín mươi hai ức người đều cùng xuất gia, phụng hành giới cấm, tu học đa văn, Tam-muội nhẫn nhục, siêng năng tinh tấn.
Thiện nam tử, khi ấy Đại Bồ-tát Đại Bi dần dần theo Phật học hỏi và lãnh thọ tám vạn bốn ngàn pháp tu của Thanh văn, chín vạn pháp tu của Duyên giác, thọ trì đọc tụng thông suốt. Đối với pháp tạng Đại thừa, mười vạn pháp tu trong Thân niệm xứ, mười vạn pháp tu trong Thọ niệm xứ, mười vạn pháp tu trong Tâm niệm xứ, mười vạn pháp tu trong Pháp niệm xứ đều được Bồ-tát Đại Bi thọ trì đọc tụng thông suốt. Đối với mười vạn pháp tu trong mười tám giới, mười vạn pháp tu trong mười hai nhập, mười vạn pháp tu đoạn trừ tham dục, mười vạn pháp tu đoạn trừ sân hận, mười vạn pháp tu đoạn trừ si mê, mười vạn pháp tu Tam-muội giải thoát, mười vạn pháp tu các lực vô úy, các pháp Bất cộng, mười ức pháp tu... như vậy, Bồ-tát Đại Bi cũng đều thọ trì đọc tụng thông suốt tất cả.
Thiện nam tử, sau khi Đức Phật kia nhập Niết-bàn, bấy giờ Đại Bồ-tát Đại Bi đem vô lượng, vô biên, vô số các thứ hoa, hương bột, hương xoa, cờ phướn, lọng báu, châu ngọc, âm nhạc để cúng dường, chất vô số củi thơm làm giàn, hỏa táng thân Như Lai, thu Xá-lợi, dựng tháp bảy báu cao năm do-tuần, chiều ngang và dọc đều bằng một do-tuần; đem vô số vô lượng, vô biên hoa hương, âm nhạc, cờ phướn, lọng báu để cúng dường trong bảy ngày; lại làm cho vô lượng, vô biên chúng sinh an trụ trong pháp Tam thừa.
Thiện nam tử, qua bảy ngày, Bồ-tát Đại Bi cùng với tám vạn bốn ngàn người đồng xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc. Sau khi Phật Bảo Tạng Bát-niết-bàn, Bồ-tát Đại Bi đem tâm tùy thuận bình đẳng khiến cho chánh pháp rực rỡ suốt mười ngàn năm; lại làm cho vô lượng, vô biên, vô số chúng sinh tu tập theo pháp ba thừa, ba quy y, năm giới cấm, tám trai giới, mười giới Sa-di, tuần tự cho đến đầy đủ tịnh hạnh của bậc Đại Tăng; lại khuyến hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh tu tập nơi bốn hạnh vô lượng, thần thông phương tiện, quán sát năm ấm giống như giặc thù, quán các nhập và xứ như xóm làng hoang vắng, quán các pháp hữu vi do nhân duyên sinh, khuyến hóa giúp cho chúng sinh đạt được tri kiến, quán tất cả pháp như ảnh phản chiếu trong gương, như vợn nắng, như trăng trong nước, đối với các pháp biết không có ngã, không sinh, không diệt, Niết-bàn là vi diệu tịch tĩnh đệ nhất; lại làm cho vô lượng, vô biên chúng sinh trụ yên trong tám Thánh đạo. Sau khi thực hiện các Phật sự lợi ích lớn như vậy xong, Tỳ-kheo Đại Bi viên tịch.
Khi ấy, có vô lượng, vô biên trăm ngàn người đem vô số vật cúng dường để cúng dường Xá-lợi Tỳ-kheo Đại Bi. Như pháp cúng dường Chuyển Luân Thánh vương, đại chúng này cũng dùng vô số loại cúng dường như vậy để cúng dường Xá-lợi Tỳ-kheo Đại Bi. Trong ngày Tỳ-kheo Đại Bi viên tịch, chánh pháp của Bảo Tạng Như Lai cũng diệt hết. Các Bồ-tát khác theo bản nguyện của mình nên sinh đến cảnh giới Phật, hoặc sinh nơi cõi trời Đâu-suất, sinh nơi loài Người, loài Rồng, Dạ-xoa hoặc A-tu-la, hay sinh trong các loài súc sinh.
Thiện nam tử, sau khi Tỳ-kheo Đại Bi viên tịch, theo bản nguyện, ở phương Nam, cách đây mười ngàn cõi Phật, có thế giới Phật tên là Hoan hỷ, loài người trong đó sống tám mươi tuổi, tập trung tất cả các kẻ căn tánh bất thiện, ưa làm việc sát hại, sống theo các nghiệp ác, không có tâm từ bi với tất cả chúng sinh, bất hiếu với cha mẹ, cho đến không sợ quả báo ở đời sau. Do bản nguyện, Tỳ-kheo Đại Bi sinh vào nhà Chiên-đà-la của thế giới ấy, thân tướng cao lớn, tuấn tú, lực vững mạnh, oai phong, hùng dũng, chuyên cần học vấn, biện luận nhanh nhẹn, các việc như vậy đều hơn người. Dùng uy lực vững mạnh của mình ra lệnh cho mọi người, Đại Bi nói thế này:
-Nếu ngươi có thể thọ giới không trộm cướp, cho đến xa lìa vô số tà kiến, thực hành chánh kiến, ta sẽ tha mạng cho ngươi, cung cấp cho ngươi đầy đủ đồ vật, tài sản cần dùng, không để thiếu thốn. Nếu không thọ giới, ta nhất định sẽ giết chết ngươi rồi mới ra đi.
Khi ấy, mọi người quỳ thẳng, chắp tay thưa:
-Nhân giả, ngài đã khiến cho chúng tôi hàng phục, theo lời Ngài dạy, chúng tôi xin thọ trì; trọn đời không còn làm lại việc trộm cấp, cho đến chánh kiến cũng như vậy.
Khi ấy, Cường Lực Chiên-đà-la đi đến gặp vua, đại thần và thưa:
-Tôi đang cần các thứ vật dụng, tài sản như là: thực phẩm, y phục, vật dùng để nằm, y dược, hương hoa, vàng bạc, tiền của, hàng hóa, trân châu, lưu ly, ngọc kha bốI, ngọc bích, san hô, hổ phách, vật báu, giống như vật báu... Nếu tôi được vô số vật này, sẽ đem bố thí cho chúng sinh.
Quốc vương, đại thần liền cho người này đầy đủ các vật cần dùng. Nhân làm việc bố thí ấy, Chiên-đà-la đã giúp cho Vua và đại thần sống trong mười điều thiện. Bấy giờ, tuổi thọ của loài người tăng thêm đủ năm trăm tuổi. Vua đó qua đời, các đại thần đưa Chiên-đà-la lên kế vị ngôi vua. Nhân đấy đặt danh hiệu là Công Đức Lực.
Thiện nam tử, bấy giờ làm vua một quốc độ không bao lâu, lại nhờ có khả năng nên vua Công Đức Lực lại làm vua hai quốc độ. Như vậy, không bao lâu, tuần tự nhà vua được thành Chuyển Luân Thánh vương, làm vua cõi Diêm-phù-đề, sau đó giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến an trụ nơi giới bất sát, cho đến chánh kiến cũng như vậy. Tùy theo chỗ ưa thích của chúng sinh, vua khuyến hóa cho họ tu tập theo ba thừa.
Khi vua Công Đức Lực giáo hóa vô lượng chúng sinh trong Diêm-phù-đề sống theo mười điều thiện, tu tập theo ba thừa xong, thì lớn tiếng xướng lên trong khắp cõi Diêm-phù-đề:
-Nếu có ai cầu xin vật cần dùng, thực phẩm, cho đến muốn được các loại châu báu, đều đến nơi đây ta sẽ cấp cho.
Khi nghe xướng như vậy, tất cả khất sĩ trong cõi Diêm-phù-đề đều đến tập hợp. Bấy giờ, vua Công Đức Lực cung cấp các vật dụng cần dùng cho họ đầy đủ theo ý muốn.
Lúc ấy, có một Ni-kiền Tử tên Khôi Âm, đi đến gặp vua, thưa:
-Những hành động bố thí vĩ đại của nhà vua đang làm là để cầu đạo quả Vô thượng Chánh chân, Ngài nên cung cấp cho tôi những vật cần dùng được đầy đủ, đời vị lai vVua sẽ thắp sáng đèn pháp.
Vua hỏi:
-Khanh cần những gì?
Người kia đáp:
-Tôi tụng trì chú thuật, muốn gây chiến với A-tu-la, đánh dẹp làm cho chúng nó sợ; và để được thắng lợi, tôi xin thưa Vua: vật tôi cần dùng là da và mắt của người chưa chết.
Nghe thưa như vậy, Đại vương suy nghĩ: “Ta đã được làm Chuyển Luân Thánh vương với thế lực vô lượng như vậy rồi, đưa được vô lượng chúng sinh vào trong mười nẻo thiện và ba thừa, lại thực hiện vô lượng, vô biên việc bố thí lớn. Thiện tri thức này muốn giúp cho ta đem thân không bền chắc đổi lấy thân bền chắc”.
Sau khi nghĩ vậy, Đại vương liền bảo:
-Xin ông phát tâm hoan hỷ, ta sẽ đem mắt thịt phàm phu này bố thí cho ông; nhờ sự việc ấy, khiến cho đời sau ta được huệ nhãn thanh tịnh. Với tâm hoan hỷ, ta lột da cho ông, nhờ sự việc này làm cho ta sau khi thành Chánh giác được thân màu vàng ròng.
Thiện nam tử, bấy giờ vua Công Đức Lực dùng tay phải móc lấy hai mắt bố thí cho Ni-kiền Tử, máu chảy khắp cả mặt, vua nói:
-Chư Thiên, Long thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân... hoặc ở trong hư không, hoặc ở trên mặt đất, xin hãy cùng nghe ta nói: “Sự bố thí của ta hôm nay đều vì đạo Vô thượng Bồ-đề thanh tịnh Niết-bàn để cứu độ chúng sinh vượt bốn dòng nước dữ, khiến được an trụ vào Niết-bàn”.
Lại bảo:
-Nếu ta chắc chắn thành Chánh giác, tuy làm việc như thế này nhưng mạng sống hiện nay không thể bị hủy hoại, không mất chánh niệm, không hốì hận, giúp cho các chú thuật Ni-kiền Tử được thành tựu.
Lại bảo:
-Ông đã có thể đến lột lấy da của ta.
Thiện nam tử, khi ấy Ni-kiền Tử liền dùng dao bén lột lấy da Vua và bảy ngày sau hoàn thành được chú thuật. Bấy giờ, trong bảy ngày, mạng sống của Vua vẫn còn, nhưng Vua không mất chánh niệm. Tuy chịu khổ cực như vậy nhưng Vua không có một ý niệm hối hận nào cả.
Thiện nam tử, ông nên biết, khi ấy Bồ-tát Đại Bi thời ấy đâu phải là người nào khác, mà chính là thân Ta. Nơi đời quá khứ, bắt đầu phát tâm thành Chánh giác ở chỗ Phật Bảo Tạng. Vừa mới phát tâm, Ta đã khuyến hóa vô lượng, vô biên chúng sinh an trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Thiện nam tử, đấy là lần đầu tiên Ta dốc sức tinh tấn. Khi ấy, Ta nhờ diệu lực của bản nguyện nên qua đời, sinh vào nhà Chiên-đà-la, nơi thế giới Hoan hỷ, là lần thứ hai Ta hết mực tinh tấn, mạnh mẽ. Ta sinh trong gia đình Chiên-đà-la, giáo hóa chúng sinh sống theo pháp thiện, dùng uy lực của mình cho đến sinh làm Chuyển Luân Thánh vương, diệt trừ sự tranh giành, uế tạp ở cõi Diêm-phù-đề, khiến được thanh tịnh, tăng thêm tuổi thọ. Đây là lần đầu tiên Ta xả bỏ thân, da và mắt.
Thiện nam tử, do bản nguyện nên Ta qua đời ở thế giới kia và sinh trở lại nơi thế giới Hoan hỷ, trong gia đình Chiên-đà-la, cho đến được làm Chuyển Luân Thánh vương, dùng uy lực lớn khiến chúng sinh sống trong pháp thiện. Nơi thế giới ấy, Ta lại diệt trừ được các việc oán tặc, tranh chấp, câu uế, làm cho tuổi thọ của chúng sinh được tăng thêm. Ngay khi Ta vừa xả bỏ tai, lưỡi..., làm các việc lợi ích lớn như vậy nơi các cõi thiên hạ trong Tam thiên đại thiên thế giới xong, do nguyện lực nên Ta trước sau luôn tinh tấn bền vững như vậy. Lại ở những đời năm trược xấu ác nhiều như cát sông Hằng, Ta luôn tạo lợi ích lớn, an trụ chúng sinh trong pháp thiện và ba thừa, diệt trừ mọi thứ oán tặc, tranh giành, uế tạp.
Thiện nam tử, ngoài ra, thế giới thanh tịnh ở phương khác có chư Phật với bản hạnh khi cầu thành Vô thượng Chánh giác là không nói lỗi người khác, không nói lời thô ác đối với người khác, không dùng thế lực để biểu hiện sự khủng bố, không khuyến hóa chúng sinh vào Thanh văn thừa, Bích-chi-Phật thừa, cho nên sau khi chư Phật thành tựu viên mãn Chánh giác, được thế giới tươi đẹp thanh tịnh này, không có các danh từ tội lỗi, không có thọ giới, tai không bao giờ nghe lời thô ác, không có tiếng bất thiện, thường nghe tiếng chánh pháp, xa lìa tất cả các tiếng không vừa ý, được tự tại đối với tất cả chúng sinh, không có các danh từ Thanh văn, Bích-chi-Phật.
Thiện nam tử, trong hằng hà sa đại kiếp, ở hằng hà sa các quốc độ không có Phật, với đời năm trược xấu ác, Ta dùng nhân duyên là lời thô ác, muốn giết chết để khiến cho chúng sinh sợ hãi và sau đó khuyến hóa giúp họ an trụ vào pháp thiện và trong ba thừa. Dư nghiệp của họ như vậy nên khiến ra có thế giới tệ ác như vậy. Do dùng âm thanh bất thiện nêu bày khắp thế giới nên nay có chúng sinh bất thiện đầy khắp thế giới ấy. Bản nguyện của Ta là thuyết giảng pháp ba thừa, nhận thế giới Phật, điều phục chúng sinh..., sự việc ấy là như vậy. Như Ta đã nói, luôn tinh tấn tu tập hành đạo Bồ-tát nên nay được chủng tử ban đầu giống như thế giới của Phật. Hiện tại bản nguyện của Ta đã được như thế.
Thiện nam tử, nay Ta sẽ nói sơ lược về việc Bố thí ba-la-mật của Ta xưa kia. Khi Ta thực hành Bố thí ba-la-mật, các Bồ-tát thời quá khứ khi hành đạo Bồ-tát cũng không thể làm được hạnh như vậy. Đời vị lai, người hành đạo Bồ-tát cũng không thể sánh kịp. Ta là Bồ-tát mà khi thực hành Bố thí ba-la-mật chỉ trừ tám vị thiện trượng phu thời quá khứ:
Bồ-tát thứ nhất tên Nhất Địa Đắc, tại cõi Nhất thiết quá hoạn ở phương Nam này thành Bậc Chánh Giác hiệu là Phá Phiền Não Quang Minh gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phụ, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Khi loài người thọ một trăm tuổi, Ngài ở đó thuyết pháp, sau bảy ngày nhập Bát-niết-bàn.
Bồ-tát thứ hai tên Tinh Tấn Thanh Tịnh, ở quốc độ Viêm xí, nơi phương Đông, thành Bậc Chánh Giác hiệu là Bách Công Đức gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Khi loài người thọ một trăm tuổi, Ngài ở đó thuyết pháp. Đức Phật ấy trải qua một hằng hà sa đại kiếp làm Phật sự xong, nhập Niết-bàn vô thượng. Cho đến nay, ở nước không có Phật, Xá-lợi của Phật đó làm các Phật sự giống như Ta không khác.
Bồ-tát thứ ba tên Kiên Cố Hoa, siêng năng, tinh tấn tu tập các Tam-muội, dùng uy lực lớn làm việc bố thí. Vào đời vị lai, trải qua mười hằng hà sa đại kiếp, ở thế giới Hoan lạc nơi phương Bắc, thành Bậc Chánh Giác hiệu là Đoạn Ái Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Úng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Bồ-tát thứ tư tên Tuệ Xí Nhiếp Thủ Hoan Hỷ, trải qua một đại kiếp, ở thế giới Khả úy nơi phương Tây, khi loài người thọ trăm tuổi, Bồ-tát ấy thành Bậc Chánh Giác hiệu là Nhật Tạng Quang Minh Vô cấu Tôn Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,Thế Tôn.
Nay ở trước Ta đang có hai Bồ-tát: Vị thứ nhất tên Nhật Quang, vị thứ hai tên Hỷ Tý. Vào đời vị lai, trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, ở quốc độ Khôi vụ thuộc phương Trên, kiếp tên Đại loạn, đời năm trược xấu ác, nhiều thứ phiền não, loài người thọ năm mươi tuổi, do bản nguyện nên Bồ-tát Nhật Quang ở trong đó thành Bậc Chánh Giác, hiệu là Bất Tư Nghị Nhật Quang Minh gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Trong khoảng mười năm thực hiện đầy đủ mọi Phật sự và Bát-niết-bàn, ngay ngày Niết-bàn, chánh pháp cũng diệt. Sau đó, suốt mười năm không có Phật, tuổi thọ của loài người giảm dần xuống còn ba mươi tuổi, Bồ-tát Hỷ Tý do bản nguyện nên ở trong thời ấy được thành Bậc Chánh Giác hiệu là Thắng Nhật Quang Minh gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Trì, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, cũng thực hiện đầy đủ mọi Phật sự trong mười năm rồi Bát-niết-bàn. Bát-niết-bàn xong, do bản nguyện, chánh pháp trụ ở đời đủ bảy mươi năm.
Bấy giờ, ở trước Phật vừa được nghe thọ ký thành Chánh giác nên hai Bồ-tát rất hoan hỷ, cúi đầu kính lễ. Do hoan hỷ nên hai vị liền bay vút lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la, chắp tay hướng Phật, đồng thanh đọc kệ:
Ánh sáng Như Lai
Vượt hơn nhật nguyệt
Ngay trong đời ác
Thuyết trí tuệ lớn
Điều ngự bạch tịnh
Không còn cấu uế
Luận nghị vi diệu
Phá dẹp ngoại đạo.
Con vô lượng kiếp
Tu định Vô tướng
Để cầu Bồ-đề
Thắng diệu vô thượng
Cúng dường chư Phật
Nhiều như hằng sa.
Phật thời quá khứ
Chưa thọ ký con
Thế Tôn ly dục
Tâm được giải thoát
Nơi đời tối tăm
Giỏi làm Phật sự
Giảng thuyết pháp cho
Chúng sinh lạc đường
Khiến thoát qua khỏi
Dòng nước sinh tử,
Nay nguyện của con
Tự tại nơi đây
Pháp Phật thanh tịnh
Xuất gia tu đạo
Tịnh giới giải thoát
Làm đúng như lời
Định tâm quán Phật
Như bóng theo hình
Không vì lợi dưỡng
Chỉ cầu chánh pháp
Được nghe pháp xong
Uống vị cam lộ
Cho nên Thế Tôn
Thọ ký cho con Nơi đời vị lai
Đắc đạo Vô thượng.
Thiện nam tử, ngoài hai người chưa phát tâm ra, những vị đã phát tâm là:
1. Nhật Quang,
2. Hỷ Tý.
Và trước đó có bốn vị:
1. Địa Đắc,
2. Tinh Tấn Tịnh,
3. Kiên Cố Hoa,
4. Tuệ Xí Nhiếp Thủ Hoan Hỷ.
Cộng lại, có tám người, trong đó có sáu Bồ-tát ban đầu đã được Ta khuyến hóa làm cho phát tâm thành Chánh giác.
Thiện nam tử, nay ông hãy lắng nghe nhân duyên của thời quá khứ, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về trước. Bấy giờ thế giới này tên Vô cấu Tu-di, loài người thọ trăm tuổi, có Phật ra đời hiệu Hương Liên Hoa, sau khi Phật ấy Bát-niết-bàn, trong đời