Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [ Trang chủ ]
|
Thứ BảyBấy
giờ, Văn Thù hỏi Duy Ma Cật rằng:
-Ví
như nhà huyễn thuật thấy người huyễn của mình hóa ra.
Bồ Tát nên quán chúng sanh như thế. Như người trí thấy
trăng trong nước, thấy hình trong gương, như dương diệm,
như tiếng vang, như mây giữa trời. Cho đến những vật chẳng
thể tưởng tượng như: lông rùa, sừng thỏ, v.v... Bồ Tát
nên quán chúng sanh như thế. Văn
Thù nói: -Nếu
Bồ Tát quán như thế làm sao hành việc Từ? Duy
Ma Cật nói: -Bồ
Tát quán như thế rồi tự nghĩ rằng: Ta nên vì chúng sanh
thuyết pháp này. Ấy tức là hạnh Từ chơn thật. Hạnh Từ
tịch diệt vì vốn vô sanh. Hạnh Từ chẳng nóng nảy vì vô
phiền não. Hạnh Từ bình đẳng vì tam thế bình đẳng. Hạnh
Từ vô tranh vì vô sở khởi. Hạnh Từ bất nhị vì trong ngoài
bất hợp. Hạnh Từ chẳng hoại vì vốn là không thật. Hạnh
Từ kiên cố vì tâm chẳng hoại diệt. Hạnh Từ trong sạch
vì pháp tánh trong sạch. Hạnh Từ vô biên vì như hư không.
Hạnh Từ A La Hán vì phá kết tặc phiền não. Hạnh Từ Bồ
Tát vì cho chúng sanh yên tâm. Hạnh Từ Như Lai vì đắc tướng
Như Như. Hạnh Từ Chư Phật vì giác ngộ chúng sanh. Hạnh
Từ tự nhiên vì vô nhân mà đắc. Hạnh Từ Bồ Ðề vì bình
đẳng nhất vị. Hạnh Từ vô đẳng vì đoạn dứt ái nhiễm.
Hạnh Từ đại bi vì dẫn dắt theo Ðại Thừa. Hạnh Từ chẳng
nhàm chán vì quán pháp Không -Vô Ngã. Hạnh Từ pháp thí vì
chẳng luyến tiếc. Hạnh Từ trì giới vì độ người phá
giới. Hạnh Từ nhẫn nhục vì hộ cho mình và người. Hạnh
Từ tinh tấn vì gánh vác chúng sanh. Hạnh Từ thiền định
vì chẳng thọ thiền vị. Hạnh Từ trí huệ vì vô sở bất
tri. Hạnh Từ phương tiện vì thị hiện tất cả. Hạnh Từ
chẳng ẩn dấu vì tâm trong sạch ngay thẳng. Hạnh Từ thâm
tâm vì chẳng hành tạp nhiễm. Hạnh Từ chẳng dối vì chẳng
hư giả. Hạnh Từ an lạc vì khiến người được an vui của
Phật. Hạnh Từ của Bồ Tát là như thế. Văn
Thù lại hỏi: -Thế
nào là Bi? Ðáp: -Công
đức sở hành của Bồ Tát đều cùng chung với tất cả chúng
sanh. -Thế
nào là Hỉ? -Hoan
hỉ làm việc chúng sanh mà chẳng hối tiếc. -Thế
nào là Xả? -Dù
làm việc phước đức mà chẳng có mong cầu chi cả. Văn
Thù lại hỏi: -Ðối
với sanh tử đáng sợ, Bồ Tát nên y nơi đâu? Ðáp: -Nên
y nơi sức công đức của Như Lai. -Bồ
Tát muốn y sức công đức của Như Lai phải trụ nơi nào? -Nên
trụ nơi độ thoát chúng sanh. -Muốn
độ thoát chúng sanh phải trừ những gì? -Muốn
độ thoát chúng sanh, nên trừ phiền não của họ. -Muốn
trừ phiền não phải hành thế nào? -Nên
hành nơi chánh niệm. -Thế
nào là hành nơi chánh niệm? -Nên
hành chẳng sanh, chẳng diệt. -Pháp
nào chẳng sanh, pháp nào chẳng diệt? -Bất
thiện chẳng sanh, thiện pháp chẳng diệt. -Thiện
với bất thiện lấy gì làm gốc? -Lấy
thân làm gốc. -Thân
lấy gì làm gốc? -Lấy
tham dục làm gốc. -Tham
dục lấy gì làm gốc? -Lấy
hư vọng phân biệt làm gốc. -Hư
vọng phân biệt lấy gì làm gốc? -Lấy
điên đảo tưởng làm gốc. -Ðiên
đảo tưởng lấy gì làm gốc? -Lấy
Vô trụ làm gốc. -Vô
trụ lấy gì làm gốc? -Vô
trụ thì chẳng có gốc. Nói
đến đây, Duy Ma Cật liền nhấn mạnh rằng: -Văn
Thù! Từ gốc Vô trụ lập tất cả các pháp. Như thế là
thật Vô Sở Trụ vậy. Bấy
giờ, trong phòng Duy Ma Cật có một Thiên nữ thấy các vị
Trời người đang nghe thuyết pháp, liền hiện hình thiên nữ
rãi hoa trên thân các Bồ Tát và đại đệ tử. Hoa đến thân
các Bồ Tát liền rơi xuống đất, đến các đại đệ tử
thì dính trên thân chẳng rơi xuống. Tất cả đệ tử dùng
thần lực phủi hoa cũng chẳng phủi rớt. Lúc
ấy, thiên nữ hỏi Xá Lợi Phất rằng: -Tại
sao phủi hoa? Ðáp: -Hoa
nầy chẳng đúng pháp nên phủi. Thiên
nữ nói: -Chớ
bảo hoa này chẳng đúng pháp. Tại sao? Vì hoa này chẳng có
phân biệt, tại nhơn giả tự sanh phân biệt tưởng mà thôi.
Người ở nơi Phật pháp xuất gia, có tâm phân biệt là chẳng
đúng pháp, nếu chẳng phân biệt tức là đúng pháp. Nay thử
xem các vị Bồ Tát chẳng dính hoa là vì đã đoạn diệt phân
biệt tưởng vậy. Ví như người đang có khiếp sợ thì phi
nhơn mới được dịp mê hoặc. Cũng thế, các vị đệ tử
vì đang sợ sanh tử thì sắc, thanh, hương, vị, xúc mới được
dịp mê hoặc. Kẻ đã lìa được khiếp sợ thì tất cả
ngũ dục đều chẳng thể mê hoặc. Kẻ kiết tập (tập khí
trói buộc) chưa sạch, hoa mới dính vào thân. Kẻ kiết tập
đã sạch thì hoa chẳng dính vậy. Xá
Lợi Phất hỏi: -Thiên
nữ ở trong phòng này được bao lâu? Ðáp: -Tôi
ở trong phòng này lâu như ông được giải thoát. -Ở
đây lâu chăng? -Như
ông giải thoát cũng có lâu mau sao? Xá
Lợi Phất im lặng chẳng đáp. Thiên
nữ hỏi: -Tại
sao bậc kỳ cựu Ðại Trí lại nín lặng? Ðáp: -Sự
giải thoát vốn chẳng ngôn thuyết, nên tôi chẳng biết nói
gì. Thiên
nữ nói: -Ngôn
thuyết văn tự đều là tướng giải thoát. Tại sao? Vì sự
giải thoát chẳng ở trong, ngoài và khoảng giữa. Văn tự
cũng như thế. Cho nên, Xá Lợi Phất! Chẳng có sự lìa văn
tự mà thuyết pháp giải thoát. Tại sao? Vì tất cả các pháp
là tướng giải thoát rồi. Xá
Lợi Phất hỏi: -Chẳng
cần lìa tham sân si mà được giải thoát ư? Ðáp: -Phật
vì đối với kẻ tăng thượng mạn mà nói lìa tham sân si
là giải thoát mà thôi. Nếu kẻ chẳng phải tăng thượng
mạn thì Phật nói tánh tham sân si tức là giải thoát vậy. Xá
Lợi Phất nói: -Lành
thay! Lành thay! Nàng đắc được gì, chứng được gì mà biện
tài như thế? Thiên
nữ đáp: -Tôi
vô đắc vô chứng nên biện tài như thế. Tại sao? Vì kẻ
có đắc có chứng ở nơi Phật pháp gọi là tăng thượng
mạn. Xá
Lợi Phất hỏi: -Nàng
ở nơi tam thừa có chí cầu gì? Ðáp: -Dùng
pháp Thanh Văn hóa độ chúng sanh thì tôi làm Thanh Văn. Dùng
pháp nhân duyên hóa độ chúng sanh thì tôi làm Duyên Giác.
Dùng pháp đại bi hóa độ chúng sanh thì tôi làm Ðại Thừa. Xá
Lợi Phất! Như người vào rừng huỳnh hoa, chỉ ngửi mùi
hương huỳnh hoa, chẳng ngửi mùi hương khác. Cũng thế, nếu
vào phòng này, chỉ ngửi mùi hương của công đức Phật,
chẳng ưa ngửi mùi hương của công đức nhị thừa. Xá
Lợi Phất! Những vị Thích Phạm Tứ Thiên Vương và Thiên
Long, quỷ, thần, v.v... vào trong phòng này, được nghe Thượng
nhơn giảng thuyết chánh pháp, đều ưa mùi hương công đức
Phật mà phát tâm Ðại Thừa. Xá
Lợi Phất! Tôi ở phòng này mười hai năm, chưa từng nghe
pháp nhị thừa, chỉ nghe Phật pháp đại từ đại bi bất
khả tư nghì của Bồ tát. Xá
Lợi Phất! Phòng này thường hiện tám thứ pháp khó đắc,
chưa từng có. Tám thứ ấy là: 1)
Trong phòng thường có ánh sáng màu vàng ngày đêm chiếu soi,
chẳng nhờ ánh sáng nhật nguyệt. 2)
Kẻ vào phòng này chẳng bị các cấu bẩn làm cho phiền não. 3)
Trong phòng này thường có Thích Phạm Tứ Thiên Vương và Bồ
Tát ở nơi phương khác đến tụ hợp chẳng gián đoạn. 4)
Phòng này thường thuyết sáu Ba La Mật và pháp bất thối
chuyển. 5)
Phòng này thường trỗi âm nhạc bậc nhất của trời người,
vang ra vô lượng pháp âm. 6)
Phòng này có bốn kho tàng lớn chứa đầy bửu vật, cứu
giúp kẻ nghèo, hễ cầu liền được. 7)
Phòng này vô lượng chư Phật nơi mười phương như Phật
Thích Ca, Phật A Di Ðà cho đến Phật Sư Tử Hưởng, Phật
Nhất Thiết Lợi Thành v.v... Khi Thượng nhơn khởi niệm, liền
đền rộng thuyết pháp tạng bí mật của chư Phật, thuyết
xong trở về. 8)
Phòng này tất cả cung điện của chư Thiên và cõi Tịnh độ
của chư Phật đều hiện trong đó. Ấy
là tám thứ pháp chưa từng có. Xá
Lợi Phất! Phòng này thường hiện tám pháp như thế. Người
thấy việc bất khả tư nghì này, đâu còn ưa pháp Thanh Văn
nữa! Xá
Lợi Phất hỏi: -Nàng
sao chẳng chuyển biến thân nữ đi? Thiên
nữ đáp: -Tôi
từ mười hai năm cầu tướng người nữ trọn bất khả đắc
mà chuyển cái gì? Ví như nhà huyễn thuật hóa ra huyễn nữ.
Nếu có người hỏi sao chẳng chuyển biến thân nữ đó đi,
vậy người hỏi đó có đúng không? Xá
Lợi Phất nói: -Không
ạ! Huyễn chẳng tướng nhất định, làm sao mà chuyển. Thiên
nữ nói: -Tất
cả pháp chẳng có tướng nhất định cũng như thế, sao lại
hỏi chẳng chuyển biến thân nữ đi! Tức
thì thiên nữ dùng sức thần thông biến Xá Lợi Phất thành
Thiên nữ, tự mình hóa thân như Xá Lợi Phất mà hỏi rằng: -Sao
chẳng chuyển biến thân nữ đi? Xá
Lợi Phất mang tướng thân nữ mà đáp rằng: -Nay
tôi chẳng biết tại sao chuyển biến làm thân nữ? Thiên
nữ nói: -Nếu
Xá Lợi Phất chuyển được thân nữ này, thì tất cả thân
nữ cũng chuyển được. Như Xá Lợi Phất chẳng phải người
nữ mà hiện thân nữ, tất cả người nữ cũng như thế,
dù hiện thân nữ mà chẳng phải người nữ. Cho nên phật
thuyết: Tất cả pháp phi nam, phi nữ. Tức
thì Thiên nữ thu nhiếp thần lực lại, thân Xá Lợi Phất
trở lại như cũ. Thiên nữ hỏi Xá Lợi Phất rằng: -Tướng
thân nữ của ông nay còn đâu? Xá
Lợi Phất nói: -Tướng
thân nữ chẳng còn, chẳng không còn. Thiên
nữ nói: -Tất
cả pháp cũng như thế, chẳng còn, chẳng không còn. Sự chẳng
còn, chẳng không còn đó là do Phật sở thuyết. Xá
Lợi Phất hỏi Thiên nữ: -Nàng
diệt nơi đây, rồi sẽ sanh nơi nào? Ðáp: -Phật
biến hóa sở sanh. Tôi cũng theo đó sanh. Nếu
Phật biến hóa sở sanh thì chẳng phải diệt và sanh. Chúng
sanh cũng chẳng phải diệt và sanh. Xá
Lợi Phất hỏi: -Nàng
bao lâu sẽ đắc Vô Thượng Bồ Ðề? Ðáp: -Khi
Xá Lợi Phất trở lại phàm phu thì tôi sẽ thành Vô Thượng
Bồ Ðề. Xá
Lợi Phất nói: -Tôi
làm phàm phu thì chẳng có chỗ đúng. -Tôi
đắc Vô Thượng Bồ Ðề cũng chẳng có chỗ đúng. Tại sao?
Bồ Ðề chẳng nơi trụ, nên chẳng có kẻ đắc. Xá
Lợi Phất nói: -Nay
chư Phật đắc Vô Thượng Bồ Ðề, đã đắc, sẽ đắc như
hằng sa. Những việc này gọi là gì? -Ấy
là dùng văn tự, số lượng của thế tục mà nói có tam thế,
chứ chẳng phải Bồ Ðề có quá khứ, hiện tại, vị lai. -Xá
Lợi Phất! Ông đắc đạo A La Hán ư? Ðáp: -Vì
vô sở đắc mà đắc. Thiên
nữ nói: -Chư
Phật Bồ Tát cũng thế. Vì vô sở đắc mà đắc. Bấy
giờ Duy Ma Cật nói với Xá Lợi Phất rằng: -Thiên
nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức chư Phật.
Ðã đắc du hí thần thông của Bồ Tát, nguyện lực đầy
đủ, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, trụ nơi chẳng thối chuyển.
Vì theo bổn nguyện, nên tùy ý thị hiện để giáo hóa chúng
sanh. ~~oOo~~ |
|