|
Chương
XIX
-ooOoo-
Phẩm Năm Mươi
Kệ
(CCLXII) Tàlaputta
(Thera. 97)
Trong thời gian đức Phật
hiện tại, ngài sanh trong một gia đình
kịch sĩ, trở thành thiện xảo trong nghề diễn
kịch thích hợp với người trong gia tộc
và trở thành lừng danh khắp Ấn Ðộ,
như nhà lãnh đạo một ban hát
với năm trăm nữ nhân, với sự huy
hoàng của nghề kịch, ngài dự các
lễ ở làng, ở thị trấn, ở cung
điện vua, và rất được sủng ái
và danh tiếng. Khi ngài trình diễn ở Ràjagaha
với nhiều thành công, ngài đến yết
kiến đức Phật và hỏi có phải
một kịch sĩ khi trên sâu khấu giả
danh sự thật, làm cho khán giả ưa
thích, vui cười, người ấy sau khi chêt
được sanh vào chư Thiên hay cười.
Ðức Phật ban đầu không trả
lời. Ðến khi hỏi lần thứ tư, đức
Phật trả lời những ai khiến cho con người
thiên về tình dục, tiêu cực tâm
tư hoang mang khiến người ta mất nhiệt tình,
người như vậy sau khi chết sẽ sinh vào
địa ngục. Nhưng nếu có tà kiến thời
bị sanh vào địa ngục và súc
sanh. Tàlaputta khóc không phải vì
đức Phật nói chỗ tái sanh, chỉ
vì bị các kịch sĩ xưa lừa dối
nói rằng kịch sĩ sẽ được sanh
trong một đời sống hạnh phúc.
Rồi Tàlaputta nghe lời
đức Phật thuyết pháp, khởi lòng
tin, xuất gia và sau một thời tu tập, chứng
quả A-la-hán. Rồi nêu rõ với nhiều
chi tiết, như thế nào ngài chế ngự và
làm cho trong sạch tâm tư, đi đến
chỗ giác ngộ thâm sâu, ngài nói lên
những câu kệ như sau:
I
1092. Khi nào ta sẽ đến,
Một mình, không có
hai,
Ở trong những hang động,
Của các loại núi
rừng,
Ta quán mọi sanh hữu,
Tất cả là vô thường,
Nay ta là như vậy,
Khi nào ta sẽ vậy?
1093. Khi nào ta sẽ là,
ẩn sĩ mang y vá,
Mang y vải màu vàng,
Không của ta, không ái,
Ðoạn trừ, diệt tham tâm,
Ðoạn luôn cả sân,
si,
Ta đi đến khu rừng,
Sẽ trú trong an lạc.
1094. Khi nào ta thấy được
Thận này là vô
thường,
Bị chết già áp bức,
Ổ giết chóc, bệnh tật
Ta sẽ trú trong rừng,
Một mình, quán vô
úy
Khi nào sẽ là vậy?
1095. Khi nào ta sẽ lấy
Gươm sắc bén trí
tuệ,
Chặt dây leo khát ái,
Với nhiều dây chằng chịt,
Sanh khởi lên sợ hãi,
Mang đến sự khổ đau.
Khi nào sẽ là vậy?
1096. Khi nào ta sẽ là,
Có sức mạnh rút
gươm,
Gươm do tuệ tạo thành,
Là lửa sáng ẩn sĩ;
Với sức mạnh đập
tan
Ác ma với Ma quân
Trên chỗ ngồi sư tử,
Khi nào sẽ là vậy?
1097. Khi nào ta sẽ được
Hội tụ với bậc thiện,
Ðược thấy giữa
các vị,
Ðảm nhận các trọng
pháp,
Tinh cần với các vị,
Thấy sự vật như
thật,
Chiến thắng được các
căn
Khi nào sẽ là vậy?
1098. Khi nào nhác đói
khát
Gió, nóng, trùng bò
sát,
Sẽ không não hại
ta,
Ở Gi-ri-bhaje,
Ðang lo đến tự ngã,
Khi nào sẽ là vậy?
1099. Khi nào ta có thể
Chánh niệm, gã định
tỉnh
Hiểu được với trí
tuệ,
Bốn sự thật khéo
giảng,
Bởi bậc Ðại ẩn
sĩ,
Khi nào sẽ là vậy?
1100. Khi nào ta sẽ chuyên
Chú tâm vào an chỉ,
Thấy được với
trí tuệ,
Sắc, thanh, hương, vị,
xúc,
Các pháp vô thường
này,
Như lửa cháy hừng
đỏ,
Khi nào ta sẽ vậy?
1101. Khi nào ta bị nói,
Với lời nói thô ác,
Không vì lý do ấy,
Tâm trí bị thất
vọng.
Khi được lời tán
thán,
Không vì lý do ấy,
Tâm tư được thỏa
mãn.
Khi nào ta sẽ vậy?
1102. Khi nào nhiều như củi,
Cỏ, cây leo, thân cây,
Ta cân nhắc bình đẳng,
Những pháp vô lượng
này,
Nội pháp và ngoại
pháp,
Khi nào ta sẽ vậy?
1103. Khi nào mây đem
mưa,
Với nước mới trong rừng,
Làm ướt y áo ta,
Ta đi trên đường
ướt,
Con đường ẩn sĩ
đi.
Khi nào sẽ là vậy?
1104. Khi nào nghe trong rừng,
Tiếng kêu của loài chim,
Chim công, có mào đầu.
Trong hang động núi rừng,
Ta an trú suy tư,
Ðể đạt quả bất
tử,
Khi nào ta sẽ vậy?
1105. Khi nào với thần
thông,
Ta có thể vượt qua,
Không chìm, không sợ
hãi,
Sông Hằng, Yamunà,
Sông Sarasvati,
Với cửa sông hãi hùng,
Với nước ào vực
sâu,
Khi nào sẽ là vậy?
1106. Khi nào, như con voi,
Trên chiến trường tấn
công,
Ta sẽ phá tan tành,
Lòng dục đối
dục cảnh,
Chuyên chú trong thiền định,
Từ bỏ mọi tịnh tướng,
Khi nào sẽ là vậy?
1107. Khi nào như người
nghèo
Mắc nợ chưa trả được,
Bị kẻ giàu thúc
bách,
Tìm ra được của
chôn,
Ta sẽ được thoải
mái,
Họ được lời giảng
dạy,
Của vị Ðại ẩn
sĩ,
Khi nào sẽ được
vậy?
II
1108. Nhiều năm ta được
ngươi,
Yêu cầu làm như
sau:
Như vậy là vừa rồi,
Ngươi sống đời
gia đình,
Nay ta đã xuất gia,
Do vậy, hỡi này tâm,
Do vì lý do gì,
Ngươi không có chuyên
tâm?
1109. Này tâm, phải chăng
ngươi,
Yêu cầu ta như sau:
Tại Giribbaje
Loài chim có lông sáng,
Ðón chào với tiếng
kêu,
Sấm của Ðại In-da.
Hãy làm vị ấy
vui,
Ðang tu thiền trong rừng.
1110. Trong gia đình, bạn
bè,
Người yêu và bà
con,
Các du hí ở đời,
Các đối tượng
của dục,
Tất cả đều từ bỏ,
Ta chấp nhận thế này.
Hỡi này tâm, ngươi
không
Bằng lòng với ta chăng?
1111. Việc này chỉ vì
ta,
Ðây không vì người
khác,
Khi đến thời vũ trang,
Sao lại còn than khóc?
Thế giới này toàn động,
Chờ đợi là như
vậy.
Nên ta đã ra đi,
Tìm cầu đạo bất
tử.
1112. Vị nói điều khó
nói,
Tối thượng loài hai
chân,
Bậc Y vương vĩ đại,
Ðánh xe điều ngự
người,
Với tâm không tham dục,
Ngài khéo chế ngự được,
Người khó lòng chế
ngự,
Chế ngự được tâm
người,
Vọng động như con vượn.
1113. Các dục có nhiều
vẻ.
Dịu ngọt, rất khả ý,
Ở đây, hàng phàm
phu,
Vô trí, bị trói
buộc.
Họ muốn chịu đau khổ,
Khi họ tìm tái sanh,
Dắt dẫn bởi tâm họ,
Họ chết trong địa ngục.
1114. Trong khu rừng vang lên,
Tiếng chim công, chim cò,
Chỗ trú xứ ưu tiên,
Của loài beo, loài cọp,
Ngươi sống tại chỗ
ấy,
Chớ chờ đợi về thân,
Chớ có quá đam
mê,
Này tâm, hãy khích
lệ,
Hãy khuyên ta như trước,
1115. Hãy tu thiền, căn, lực
Hãy tu định giác
chi,
Hãy giác chứng ba minh,
Trong lời dạy đức
Phật,
Này tâm, hãy khích
lệ,
Hãy khuyên ta như trước.
1116. Hãy tu tập con đường
Ðể đạt được
bất tử,
Ðường đưa đến
thể nhập,
Chỗ đoạn diệt mọi khổ.
Con đường có tám
ngành,
Rửa sạch mọi uế nhiễm.
Này tâm, hãy khích
lệ,
Hãy khuyên ta như trước.
1117. Hãy như lý quán sát,
Các uẩn là đau
khổ,
Hãy từ bỏ xa ngươi,
Những nguyên nhân đau
khổ.
Ngay trong thời hiện tại,
Hãy chấm dứt đau
khổ,
Này tâm, hãy khích
lệ,
Hãy khuyên ta như trước.
1118. Hãy như lý tuệ quán,
Là vô thường, là
khổ,
Là không, là vô
ngã,
Là tà ác, sát
hại,
Hãy chế ngự tâm ngươi,
Chớ để nó chạy loạn.
Này tâm, hãy khích
lệ,
Hãy khuyên ta như trước.
1119. Trọc đầu và xấu
sắc,
Ði đến bị nguyền rủa,
Khi khất thực gia đình,
Tay cầm hình đầu
lâu,
Nay ngươi có chú
tâm,
Vào lời dạy Bổn Sư,
Vào lời Ðại ẩn
sĩ,
Này tâm, hãy khích
lệ
Hãy khuyên ta như trước.
1120. Hãy đi trên con
đường,
Tự ngã khéo chế ngự,
Giữa các nhà, tâm
ý
Không ái luyến các dục,
Như trăng vào tháng
tròn,
Không có bợn mây mù.
Này tâm, hãy khích
lệ,
Hãy khuyên ta như trước.
1121. Hãy sống trong rừng
núi,
Ăn đồ ăn khất
thực,
Sống tại chỗ nghĩa địa,
Mặc y lượm đống
rác.
Chỉ có ngồi không
nằm
Luôn vui hạnh Ðầu-đà,
Này tâm, hãy khích
lệ,
Hãy khuyên ta như trước.
1122. Như người đã
trồng cây,
Liền tìm cho được
trái,
Nay ngươi ước muốn
trái,
Há chặt rễ cây sao?
Này tâm, thật giống
như,
Ví dụ ngươi đã
làm,
Khi ngươi khích lệ ta,
Trong vô thường dao động.
1123. Ngươi, vô sắc,
cô độc,
Kẻ lữ hành từ
xa,
Nay ta sẽ không làm,
Theo lời nói của ngươi.
Các dục là khổ đau,
Cay đắng, sợ hãi
lớn,
Tâm hướng vọng Niết-bàn,
Ta sẽ bước, đi tới.
1124. Ta đi tới xuất gia,
Không phải vì bất
hạnh,
Không đùa vô liêm
sỉ,
Không vì duyên tâm
hứng,
Không bị đày đi
xa,
Không vì nhân mạng
sống,
Khi ta đã bằng lòng,
Này tâm, đối với
ngươi.
1125. Ít dục được
tán dương,
Bởi những bậc chân
nhân,
Kể cả đoạn giả dối,
Và an tịnh đau khổ.
Như vậy, hỡi này
tâm,
Khi ngươi khích lệ ta,
Còn nay ngươi đi
ngược,
Ðiều ngươi trước
quen làm.
1126. Khát ái và vô
minh,
Ðáng thương và
đáng ghét,
Sắc đẹp và lạc
thọ,
Dục trưởng dưỡng
hấp dẫn,
Tất cả đã quăng
bỏ,
Ta không có cố gắng,
Ði đến một lần
nữa,
Những đồ đã
quăng bỏ.
1127. Này tâm, khắp mọi
nơi,
Ta làm theo lời ngươi,
Trải qua nhiều đời sống,
Ngươi không tức giận
ta,
Và thân nội sanh này,
Là lòng ngươi biết
ơn!
Trên đường luân
hồi dài,
Khổ do chính ngươi tạo.
1128. Này tâm, chính ngươi
làm
Tác thành con người
ta,
Chính ngươi làm,
ta thành,
Thành một Bà-la-môn,
Thành vua chúa hoàng
tộc,
Một ngày là người
buôn,
Ngày kia thành nô tỳ,
Hoặc thành loại chư
Thiên.
Tất cả đều do ngươi,
Chính do ngươi tác
thành.
1129. Chính do nhân nhà
ngươi,
Chúng ta thành Tu-la,
Chính do ngươi tác
thành,
Ta rơi đáy địa
ngục;
Một thời thành súc
sanh,
Một thời thành ngạ
quỷ,
Tất cả đều do ngươi,
Chính do ngươi tác
thành.
1130. Ngươi sẽ không
lừa ta,
Nhiều lần, nhiều thời nữa,
Như những người phù
thủy,
Bày các trò ảo
thuật,
Ngươi chơi lừa phỉnh
ta,
Như chơi với người
điên,
Này tâm, hãy nói
ta,
Chỗ nào ta lỗi lầm.
1131. Trước tâm này
lang thang,
Chạy chỗ này chỗ khác,
Chạy chỗ nó ưa thích,
Chạy chỗ nó vui sướng,
Nay ta chế ngự tâm,
Với như lý tư duy,
Như câu móc chế ngự,
Nhiếp phục con voi rừng.
1132. Với ta, bậc Ðạo
Sư,
Xác định đời
vô thường,
Ðời không có trường
cửu,
Ðời không có kiên
thực.
Này tâm, hãy đẩy
ta,
Nhảy vào lời Phật
dạy,
Khiến ta vượt bộc lưu,
Rất khó được
vượt qua.
1133. Ta nay đã xuất
gia,
Trong pháp Ðại ẩn
sĩ
Những người giống
như ta,
Không chấp nhận tổn
thất.
1134. Rừng, biển, sông, đất
liền,
Bốn phương, phụ trên
dưới,
Tất cả là vô thường,
Ba hữu là hoạn nạn,
Này tâm, hãy đi
đâu?
Ngươi sẽ hưởng an
lạc.
1135. Kìa, kìa, hỡi này
tâm,
Ðích ta thật vững
chắc,
Người sẽ làm được
gì,
Khiến ta phải quay lại,
Này tâm, ta đâu
còn,
Tùy thuộc thế lực ngươi,
Không ai chịu xúc chạm,
Cái bị có hai miệng,
Gớm ghiếc thay cái vật,
Ðầy chín dòng
chảy nước.
1136. Ôi, ngươi sẽ ưa
sống,
Trên đảnh sườn
núi cao,
Chỗ ở đàn heo nai,
Hay cảnh đẹp thiên
nhiên,
Hay trong núi rừng sâu,
Thấm mát mưa nước
mới,
Tại đấy ngươi
sẽ thích,
Ngươi lấy hang làm
nhà.
1137. Loài chim lông cổ đẹp,
Với mào đẹp, cánh
đẹp,
Với lông nhiều màu sắc,
Ðón chào tiếng sấm
vang,
Với tiếng kêu dịu ngọt,
Chúng sẽ làm ngươi
thích,
Ngươi tu tập thiền định,
Trong núi rừng thâm sâu.
1138. Khi trời đổ mưa
xuống,
Trên đám cỏ bón
phân,
Và trong rừng nở hoa.
Với đầu hoa như mây,
Giữa rừng, ta sẽ nằm,
Chẳng khác gì khúc
cây,
Ðối ta, rất mềm dịu,
Thật giống như giường
bông.
1139. Như vậy, ta sẽ làm,
Giống như người chủ
nhà,
Những gì ta nhận được,
Ta xem là vừa đủ,
Như thợ da không nhác,
Khéo làm cho nhuần nhuyễn,
Cái bị bằng da mèo.
1140. Như vậy ta sẽ làm,
Giống như người chủ
nhà,
Những gì ta nhận được,
Ta xem là vừa đủ,
Tinh tấn ta dẫn ngươi,
Rơi vào thế lực ta.
Như voi say bị nài,
Khéo dùng móc chế ngự.
1141. Với ngươi khéo
nhiếp phục,
Khéo an trú vững vàng,
Như người huấn luyện
ngựa,
Với con ngựa thuần thục,
Ta có thể dấn bước
Trên con đường an
lành,
Con đường được
những vị
Hộ trì tâm thường
dùng.
1142. Ta sẽ trói chặt ngươi,
Vào đối tượng
cần thiết,
Như con voi bị dây
Trói chặt vào cây
cột.
Ta khéo hộ trì ngươi,
Khéo luyện với chánh niệm.
Nhờ vậy, ngươi sẽ
thành,
Không dựa mọi sanh hữu.
1143. Với tuệ, chặt tà đạo,
Với lực, chận, hướng
chánh
Thấy tập khởi, diệt sanh,
Ngươi sẽ là thừa
tự
Bậc phát ngôn tối
thượng.
1144. Này tâm, ngươi
dẫn ta,
Ðến ngôi làng thô
lỗ,
Khiến trú vào thế lực
Của bốn tưởng điên
đảo,
Hãy đến, theo vị ấy
Vị chặt đứt kiết
sử,
Bậc có tâm đại
bi,
Bậc Mâu-ni vĩ đại.
1145. Như loài thú tự
do,
Trong ngôi rừng đẹp
đẽ.
Ngươi vào núi xinh
đẹp
Có mây làm vòng
hoa,
Tại đấy, không
có người,
Trong rừng ngươi sẽ
thích,
Nay tâm, chắc chắn vậy
Ngươi sẽ đến bờ
kia.
1146. Những ai còn rơi vào,
Thế lực ý muốn ngươi,
Nam nhân và nữ nhân,
Hưởng an lạc ngươi
cho
Không trí, bị rơi
vào
Trong thế lực Ác-ma,
Ai ưa thích sanh hữu,
Sẽ là thuộc hạ ngươi,
Hỡi này tâm của
ta.
[ ^ ]
Chương
XX
-ooOoo-
Phẩm Sáu Mươi
Kệ
(CCLXIII) Mahà-Moggallàna
(Thera. 104)
Ðời ngài được
kể với đời ngài Sàriputta (CCLIX).
Sau khi xuất gia một tuần, ở gần làng
Kallavàla tại Magadha, trong khi du hành
ngài bị hôn trầm thụy miên và
được Thế Tôn dạy: 'Này Moggallàna,
biếng nhác không giống với im lặng của
bậc Thánh'. Ngài liền tinh tấn chế ngự
sự yếu đuối của mình. Khi chỉ
nghe đề tài về các giới do đức
Phật giảng dạy, ngài chứng được
quả A-la-hán. Một thời, Thế Tôn ở tại
Jetavana, xác chứng ngài là bậc
thần thông đệ nhất. Các bài kệ
của ngài được kiết tập thứ nhất.
I
Khích lệ các Tỷ-kheo:
1147. Chúng ta người
ở rừng,
Sống đồ ăn khất
thực,
Bằng lòng với miếng ăn
Ðược bỏ rơi trong
bát,
Phá nát ma, ma quân,
Nếu nội tâm khéo định.
1148. Chúng ta người ở
rừng,
Sống đồ ăn khất
thực,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong
bát,
Dẹp sạch ma, ma quân,
Như voi, nhà bằng lau.
1149. Chúng ta ở gốc cây,
Nhẫn nại, tâm kiên
trì,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong
bát,
Phá nát ma, ma quân,
Nếu nội tâm khéo định
1150. Chúng ta ở gốc cây,
Nhẫn nại, tâm kiên
trì,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong
bát,
Dẹp sạch ma, ma quân,
Như voi, nhà bằng lau.
II
Với một kỹ nữ muốn
cám dỗ ngài:
1151. Với am, sườn
bằng xương,
May dính với gân thịt,
Gớm thay, đầy hơi
thối!
Mang tay chân người khác,
Làm thân thể của mình!
1152. Cái bị đựng
đầy phân,
Ðược da bao bọc lại,
Ôi con Quỷ cái kia!
Với vú bị ung nhọt,
Thân Ngươi, chín dòng
nước
Luôn luôn được
tuôn chảy.
1153. Thân Ngươi chín
dòng nước
Hôi thối, tạo trói
buộc,
Tỷ-kheo tránh thân ấy,
Như kẻ sạch tránh
phân.
1154. Nếu người khác biết
Ngươi
Như ta biết được Ngươi,
Người ấy tránh xa
Ngươi,
Như khi mưa tránh phân.
Người đàn bà ấy
cảm thấy hổ thẹn, đảnh lễ vị
Truởng lão rồi thưa:
1155. Thật là vậy,
Ðại hùng,
Như Sa-môn, ngài nói:
Ở đây, có kẻ đắm,
Như bò già trong bùn.
Bậc Trưởng lão:
1156. Ai nghĩ có thể
nhuộm,
Bầu trời với màu
nghệ,
Hoặc với màu sắc khác
Kẻ ấy chỉ thất
bại.
1157. Tâm ta giống trời
ấy,
Nội tâm khéo định
tĩnh,
Chớ đem ác tâm đến
Như chim rơi đống
lửa.
1158. Hãy xem bóng trang sức
Nhóm vết thương tích
tụ,
Bệnh hoạn nhiều tham tưởng
Nhưng không gì trường
cửu.
III
Khi được tin Trưởng
lão Sàriputta viên tịch:
1159. Ôi, thật hãi
hùng thay!
Ôi! Lông tóc dựng
ngược,
Bậc đủ nhiều đức
tánh,
Xá-lợi-phất nhập
diệt.
1160. Các hành là vô
thường
Có sanh phải có diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Nhiếp chúng là an lạc.
IV
Nói về Trưởng lão Tissa:
1161. Những ai thấy năm
uẩn,
Là khác, không phải
ngã,
Quán thấu vật tế nhị,
Như têm đâm mũi
tóc.
1162. Những ai thấy các hành,
Là khác, không phải
ngã,
Chúng thấu triệt tế nhị,
Như têm đâm mũi
tóc.
V
Nói về Trưởng lão
Vaddhamàna
1163. Như bị kiếm chém
xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham
dục.
1164. Như bị kiếm chém xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham
hữu.
VI
Tuyên bố liên hệ đến
kinh Pàsàdakamma:
1165. Ðược khuyên
bảo bởi vị,
Ðã tu tập tự ngã,
Mang thân này tối hậu,
Với ngón chân ta làm,
Rung chuyển cả lâu đài,
Migàramàtu.
VII
Nói liên hệ với một Tỷ-kheo:
1166. Không với nhu nhược
này,
Không với ít lực
này
Có thể chứng Niết-bàn,
Giải thoát mọi buộc ràng.
1167. Vị Tỷ-kheo trẻ này,
Con người tối thượng
này,
Chiến thắng ma, ma quân,
Mang thân này tối hậu.
VIII
Về đời sống viễn ly
của mình:
1168. Giữa đồi
Vebhàra,
Giữa đồi Pandava,
Sét đánh vào
hang động,
Con bậc Vô tỷ ấy,
Ðã đi vào hang
núi,
Ðang ngồi nhập thiền
định.
IX
Ði vào Ràjagaha (Vương
Xá) để khất thực, ngài khuyến giáo
người cháu của Sàriputta, một
Bà-la-môn có tà kiến, người này
thấy ngài Ðại-ca-diếp, cảm thấy
ghê tởm, như thấy được một
nữ thần bất hạnh.
An tịnh và thoải
mái,
Ẩn sĩ trú vùng xa,
Thừa tự Phật tối
thắng,
Ðược Phạm thiên
tán thán.
1169. Hỡi này Bà-la-môn,
Hãy đảnh lễ Ca-diếp,
Ngài là con thừa tự,
Bậc Giác Ngộ tối
thắng,
Ẩn sĩ trú vùng xa
An tịnh và thoải mái.
1170. Vị trải trăm đời
sống,
Ðều thuộc dòng Phạm
chí,
Học giả, giỏi Vệ-đà,
Sanh tiếp tục làm người.
1171. Dầu là bậc giáo
sư,
Thấu triệt ba Vệ-đà,
Ðảnh lễ vị như
vậy,
Chỉ giá một mười
sáu.
1172. Vị ấy trước bữa
ăn,
Thấy được tám
giải thoát.
Thuận hướng và nghịch
hướng.
Rồi mới đi khất
thực.
1173. Chớ có đến tấn
công
Một Tỷ-kheo như vậy,
Hỡi này Bà-la-môn,
Chớ có đào tự
ngã,
Hãy khởi ý tín nhiệm
Vị La hán như vậy,
Chấp tay đảnh lễ
gấp,
Chớ để đầu ông
hỏng.
X
Khi khuyến giáo một Tỷ-kheo tên
Potthila:
1174. Người không thấy
diệu pháp,
Dẫn đầu về luân hồi,
Chạy theo hướng tà đạo,
Ðường cong không nên
đi.
1175. Như con sâu dính phân,
Say mê theo các hành,
Ðắm sâu vào lợi
danh,
Trống rỗng, hỡi Pôt-thi.
XI
Tán thán Tôn giả Sàriputta:
1176. Hãy xem Tôn giả
này
Xá-lợi-phất đẹp
sắc,
Giải thoát cả hai phần,
Nội tâm khéo định
tĩnh.
1177. Không bị tên khát
ái,
Các kiết sử đoạn tận,
Ba minh đã đạt được,
Sát hại xong thần chết,
Ðáng được người
cúng dường,
Là ruộng phước vô
thượng.
XII
Do ngài Sàriputta nói
lời tán thán Moggallàna:
1178. Có nhiều chư Thiên
này,
Có thần lực danh xưng,
Ðến mười ngàn chư
Thiên
Tất cả Phạm phụ
Thiên.
Họ đứng chấp hai tay
Ðảnh lễ Mục-kiền-liên.
1179. Ðảnh lễ thượng
sanh nhân!
Ðảnh lễ vô thượng
nhân!
Lậu hoặc ngài đã
đoạn,
Ngài xứng được
cúng dường.
1180. Ðược trời người
đảnh lễ,
Ðã sanh, bậc thắng
chết,
Như sen không dính nước,
Ngài không dính các
hành.
1181. Vị trong một sát-na,
Biết đời, dưới ngàn
cách,
Chẳng khác Ðại
Phạm Thiên,
Tỷ-kheo ấy Thiên tử
Ðầy đủ thần
thông lực,
Thấy được những
thời cơ
Chết sống của mọi loài.
XIII
Mahà-Moggàllàna nói
lên, xác nhÆn khä næng cûa mình:
1182. Xá-lợi-phất
với tuệ,
Giới hạnh, an tịnh tâm,
Tỷ-kheo đến bờ kia,
Vị ấy thật tối
thượng.
1183. Nhưng ta ngay giây phút
Ðến trăm ngàn triệu lần,
Biến hóa tự thân được,
Ta thiện xảo biến hóa,
Thuần thục với thần
thông.
1184. Dòng họ Môg-gal-la,
Sống thiền định trí
tuệ
Ði đến bờ bên kia,
Không ái giáo pháp
đạt.
Hiền trí, các căn tịnh,
Chặt đứt các trói
buộc,
Như voi bựt đứt
ngang,
Dây leo đã mục
nát.
1185. Ta hầu hạ Bổn Sư,
Lời Phật dạy làm
xong,
Gánh nặng đã đặt
xuống,
Gốc sanh hữu nhổ sạch.
1186. Sanh của ta đã tận,
Chiến thắng dạy làm xong,
Lưới danh được
đoạn diệt,
Gốc sanh hữu nhổ lên,
Mục đích hạnh
xuất gia,
Bỏ nhà, sống không
nhà,
Ðích ấy đã
đạt được,
Mọi kiết sử diệt xong.
La mắng Màra đã
vào và ra khỏi bụng ngài:
1187. Ðịa ngục
ấy thế nào,
Dù si bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kà-kùsandha.
1188. Có trăm loại cọc
sắt,
Tự cảm thọ riêng biệt,
Ðịa ngục là như
vậy,
Dù si bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kakusandha.
1189. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì người đánh
Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1190. Dựng lên giữa biển
cả,
Cung điện trải nhiều kiếp,
Bằng ngọc chói lưu ly,
Huy hoàng cùng chiếu diệu,
Tiên nữ múa tại
đây,
Trang sức màu dị biệt.
1191. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh
Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1192. Ai Thế Tôn khuyến khích,
Chúng Tỷ-kheo chứng kiến,
Với ngón chân rung chuyển
Lầu mẹ Migàra.
1193. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh
Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1194. Với ngón chân rung
chuyển,
Lầu Vi-ja-yan-ta,
Ðầy đủ thần
thông lực,
Chư Thiên cũng hoảng
sợ.
1195. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh
Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1196. Ai hỏi vị Sakka,
Tại lầu Vijayan,
Hiền giả, ngươi có
biết,
Ái tận được
giải thoát?
Sakka đã chân thành,
Trả lời câu được
hỏi.
1197. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh
Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1198. Ai từng hỏi Phạm
thiên
Tại hội chúng Thiện Pháp:
Hiền giả nay vẫn chấp,
Các tà kiến thuở xưa,
Có thấy cảnh huy hoàng
Phạm thiên cảnh thiên
giới.
1199. Brahmà đã chân
thành,
Tiếp tục đáp câu
hỏi:
Tôn giả tôi không
chấp
Các tà kiến thuở xưa.
1200. Tôi thấy sự huy
hoàng
Phạm thiên cảnh thiên
giới,
Sao nay tôi nói được,
Tôi thường hằng thường
tại?
1201. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh
Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1202. Ai với sự giải thoát,
Cảm xúc Cao Sơn đảnh,
Rừng đông Videha
Và người nằm trên
đất,
1203. Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì ngươi đánh
Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1204. Thật sự lửa không
nghĩ:
'Ta đốt cháy kẻ
ngu',
Kẻ ngu đột kích
lửa,
Tự mình bị thiêu
cháy.
1205. Cũng vậy này Ác-ma,
Ngươi đột kích
Như Lai,
Tự đốt mình cháy
mình,
Như kẻ ngu chạm lửa.
1206. Ác ma tạo ác nghiệp,
Do nhiễu hại Như Lai,
Ngươi nghĩ chăng Ác-ma,
Ác quả không đến
ta.
1201. Ðiều ác Ác ma làm,
Chất chứa đã
lâu rồi,
Ác-ma, hãy tránh Phật,
Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo.
1208. Tỷ-kheo chống Ác ma,
Tại rừng Bhe-kalà,
Vị Dạ-xoa thất vọng,
Biến mất tại chỗ ấy.
Như vậy, Tôn giả Mahà-Moggallàna
nói lên những bài kệ.
[Phẩm trước][Mục
lục][Phẩm kế][
^ ]
|