|
Chương
XXI
-ooOoo-
Phẩm Bảy Mươi
Mốt Kệ
(Ðại Tập)
(CCLXIV) Vangìsa
(Thera. 109)
Trong thời đức Phật
hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một
gia đình Bà-la-môn, được đặt
tên là Vangìsa và được
dạy ba tập Vệ-đà. Ngài được
trọng vọng cúng dường, nhờ gõ trên sọ
người và biết được kiếp trước
của người ấy. Các Bà-la-môn
thấy Vangìsa là một nguồn lợi
dưỡng nên đem ngài đi chỗ này
chỗ khác. Trong ba năm, Vangìsa đoán
kiếp trước trên các sọ người được
mang đến, và lấy tiền khoảng một trăm,
một ngàn, Kahapana (đồng tiền vàng)
mỗi đầu người. Ngài nghe danh tiếng của
Thế Tôn, muốn đến yết kiến Thế Tôn, nhưng
các Bà-la-môn ngăn lại.
Vangìsa không nghe đi
yết kiến đức Phật. Khi đức Phật
hỏi Vangìsa biết được nghề gì,
ngài trả lời có thể đoán được
sọ người, bằng cách lấy móng tay gõ
trên sọ người và đoán được
số mệnh người ấy trong ba năm. Thế Tôn
bảo Vangìsa đoán sọ người sanh
vào địa ngục, vào loài Người,
hàng chư Thiên và một vị giải
thoát. Vangìsa có thể đoán số
mạng ba hạng người kia nhưng đối
với vị đã giải thoát thời không
thể nói được gì. Cuối cùng,
ngài yêu cầu Thế Tôn và được
trả lời như sau:
Ai biết thật hoàn toàn,
Sự sanh diệt chúng sanh,
Không tham trước, Thiện Thệ,
Giác ngộ đạt Chánh
giác,
Vị ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn,
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà,
Không biết chỗ sở thú,
Lậu hoặc được đoạn
trừ,
Bậc Ứng Cúng, La-hán,
Vị ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
(Kinh Tập, kệ 643-644 - Trung Bộ
kinh II, 196M)
Sau khi nghe xong, Vangìsa yêu
cầu đức Phật dạy cho con đường
đạt đến đích ấy, xin xuất
gia và đức Phật bảo Trưởng lão
Nigrodhakappa độ cho xuất gia rồi dạy
cho quán ba mươi hai bộ phận của thân
và tuệ quán. Cuối cùng ngài chứng
quả A-la-hán, từ bỏ các Bà-la-môn
cũ, dùng nhiều câu tán thán Thế Tôn
(Si, 185) và đức Phật xác chứng
ngài là vị Tỷ-kheo đệ nhất về thuyết
pháp. Những điều ngài nói lên trước
và sau khi chứng quả A-la-hán được
kiết tập bởi ngài Ananda và các
vị khác trong kỳ kiết tập thứ nhất
như sau:
I
Khi còn là Sa-di, sau khi bị
ảnh hưởng vì thấy nhiều thiếu nữ mặc
áo đẹp, ngài nói lên những
cảm thọ được nhiếp phục của ngài:
1209. Với ta đã
xuất gia,
Bỏ nhà, sống không
nhà,
Tư tưởng này chạy
loạn,
Khởi lên từ hắc ám.
1210. Nhà bắn cung thiện xảo,
Thượng sanh giỏi cung pháp,
Ngàn người bắn khắp
phía,
Không nao núng chút nào.
1211. Nếu phụ nữ có đến,
Dầu nhiều hay đông hơn,
Sẽ không dao động
ta,
Vì ta trú Chánh pháp.
1212. Chính ta từng được
nghe,
Phật dòng họ Mặt Trời,
Giảng đạo hướng
Niết-bàn,
Ở đây ý ta thích.
1213. Như vậy ta an trú,
Ác ma, ngươi có đến,
Ta sẽ làm như vậy,
Ngươi không thấy đường
ta.
II
Ðược nói khi nhiếp phục
các cảm thọ của mình như sân hận
v.v...
1214. Ta bỏ lạc bất
lạc,
Mọi tâm tư gia sự,
Không tạo một chỗ nào,
Thành cơ sở tham dục,
Ai thoát rừng, ly tham,
Mới ứng danh Tỷ-kheo.
1215. Phàm địa giới,
không giới,
Cả sắc giới trong đời,
Ðều biến hoại vô thường,
Hiểu vậy, sống liễu tri.
1216. Chúng sanh thường chấp
trước,
Ðối với các sanh
y,
Ðối vật họ thấy
nghe,
Họ xúc chạm suy tư,
Ở đây ai đoạn dục,
Tâm tư không nhiễm
ô.
Không mắc dính chỗ này,
Vị ấy danh Mâu-ni.
1217. Ðối sáu mươi
tám kiến,
Thuộc phàm phu phi pháp,
Không học phái tà chấp,
Vị ấy chân Tỷ-kheo.
1219. Vẹn toàn, tâm thường
định,
Không dối trá thận
trọng,
Ly ái, vị Mâu-ni,
Chứng đạt đường
an tịnh,
Tùy duyên nhập Niết Bàn,
Vị ấy chờ thời đến.
III
Nói đến khi ngài nhiếp phục
cử chỉ của ngài về khả năng nói
dễ dàng của mình:
1219. Ðệ tử Gotama,
Hãy từ bỏ kiêu
mạn,
Trên con đường kiêu
mạn,
Hãy tránh né hoàn
toàn,
Ham mê đường kiêu
mạn,
Sẽ hối trách dài
dài.
1220. Bị lừa bởi lừa
dối,
Bị hại bởi kiêu mạn,
Loài Người rơi địa
ngục,
Chúng sầu khổ lâu
dài,
Bị hại về kiêu mạn,
Họ phải sanh địa ngục.
1221. Không bao giờ sầu
muộn,
Tỷ-kheo chiến thắng đạo,
Chơn chánh dấn thân
bước,
Hưởng danh dự an lạc,
Như thật được
tên gọi,
Là bậc đã thấy
pháp.
1222. Do vậy ở đời
này,
Không thô lậu, không
kiêu,
Ðoạn triền cái, thanh
tịnh,
Ðoạn kiêu mạn, không
dư,
Với minh, tâm an tịnh,
Bậc đoạn tận khổ
đau.
IV
Khi còn là Sa-di, ngài hầu
Tôn giả Ananda, khi Tôn giả được
một vị đại thần của vua mời đến
thăm Tôn giả và ngài được
vây quanh với những nữ nhân trang sức
đẹp đẽ, những người này
kính lễ Tôn giả, hỏi thăm và
nghe Tôn giả thuyết pháp. Nhưng Vangìsa
lại bị kích thích và tham dục
khởi lên. Ngài nghĩ như vậy là
không tốt cho hiện tại và tương lai
của ngài. Ngài nói lên tâm trạng
của mình cho Tôn giả Ananda:
1223. Dục ái đốt
cháy tôi!
Tâm tôi bị thiêu cháy,
Lành thay Gotama,
Vì lòng từ nói lên,
Pháp tiêu diệt lửa hừng.
Và Tôn giả Ananda trả
lời:
1224. Chính vì điên
đảo tướng,
Tâm ông bị thiêu
đốt,
Hãy từ bỏ tịnh
tướng,
Hệ lụy đến tham dục.
1225. Nhìn các hành vô
thường,
Khổ đau, không phải
ngã,
Dập tắt đại tham
dục,
Chớ để bị cháy dài,
Hãy tu tâm bất tịnh,
Nhứt tâm, khéo định
tỉnh,
Tu tập thân hành niệm,
Hành hạnh nhiều yếm ly.
1226. Hãy tập hạnh vô
tướng,
Ðoạn diệt mạn tùy
miên,
Nhờ quán sân kiêu
mạn,
Hạnh ông sẽ an tịnh.
V
Ðược nói lên sau
khi Thế Tôn dạy kinh về 'Sự vật được
khéo nói', tán thán Thế Tôn:
1227. Ai nói lên lời
gì,
Lời ấy không khổ mình,
Lời không làm hại
người,
Lời ấy là thiện thuyết.
1228. Ai nói lời ái ngữ,
Lời nói khiến hoan hỷ,
Lời nói không ác
độc,
Lời nói là ái ngữ.
1229. Lời chân, lời bất
tử,
Thường pháp xưa là
vậy,
Thiện nhân trú trên chân,
Trên nghĩa và trên
pháp.
1230. Lời đức Phật
nói lên,
Ðạt an ổn Niết-bàn,
Chấm dứt mọi khổ đau,
Thật nói lời tối
thượng.
VI
Nói lên để tán thán
Tôn giả Sàriputta:
1231. Trí tuệ thâm, trí
giả,
Thiện xảo đạo, phi đạo,
Xá-lợi-phất đại
trí,
Thuyết pháp chúng Tỷ-kheo.
1232. Ngài giảng cách tóm
tắt,
Ngài cũng thuyết rộng rãi,
Như tiếng chim Sà-li,
Tiếng ngài được nói
lên.
1233. Lời ngài giảng tuôn
trào,
Tiếng ngài nghe ngọt lịm,
Với giọng điệu ái luyến,
Êm tai và mỹ diệu,
Họ lắng tai nghe pháp,
Tâm phấn khởi hoan hỷ.
VII
Nói lên sau khi Thế Tôn thuyết
trong kinh Pavàranà (Tự Tứ):
1234. Nay ngày rằm thanh
tịnh,
Năm trăm Tỷ-kheo họp,
Bậc Thánh đoạn
kiết phược,
Vô phiền, dứt tái sanh.
1235. Như vua chuyển luân vương
Ðại thần hầu xung
quanh,
Du hành khắp bốn phương,
Ðất này đến hải
biên.
1236. Như vậy các đệ
tử,
Ðã chứng được
Ba minh,
Sát hại được
tử thần,
Những vị này hầu
hạ,
Bậc thắng trận chiến trường,
Vô thượng lữ hành
chủ.
1237. Tất cả con Thế Tôn,
Không ai là vô dụng,
Xin chí thành đảnh
lễ,
Bậc nhổ tên khát ái,
Xin tâm thành cung kính
Bậc dòng họ Mặt Trời.
VIII
Nói lên tán thán Thế
Tôn khi Thế Tôn đang thuyết pháp cho các
Tỷ-kheo về vấn đề Niết-bàn:
1238. Hơn một ngàn
Tỷ-kheo
Hầu hạ bậc Thiện Thệ,
Ngài thuyết vô cấu pháp
Niết-bàn vô bố úy.
1239. Họ nghe pháp rộng lớn
Bậc Chánh giác thuyết
giảng;
Bậc Chánh giác chói
sáng,
Chúng Tỷ-kheo vây quanh.
1240. Bạch Thế Tôn, Thiện Thệ,
Ngài thật bậc Long tượng
Bậc ẩn sĩ thứ bảy,
Trong các vị ẩn sĩ,
Ngài trở thành mây
lớn,
Mưa móc ban đệ tử.
1241. Con từ nghỉ trưa
đến,
Muốn yết kiến Ðạo Sư,
Ôi bậc Ðại anh hùng,
Con là đệ tử Ngài,
Con tên Vangìsa,
Ðảnh lễ dưới
chân Ngài.
Rồi Thế Tôn hỏi:
- Này Vangìsa, những
bài kệ này của Ông, có phải Ông
suy nghĩ từ trước hay được khởi
lên tại chỗ?
- Bạch Thế Tôn, những bài
kệ này của con, không phải suy nghĩ từ
trước chính được khởi lên tại
chỗ.
- Vậy này Vangìsa,
hãy cho nhiều bài kệ nữa, không suy nghĩ
từ trước, được khởi lên tại
chỗ.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn,
Tôn giả Vangìsa vâng đáp Thế
Tôn, nói lên những bài kệ tán thán
Thế Tôn, những bài kệ không suy nghĩ từ
trước:
1242. Thắng Ác ma tà
đạo,
Ngài sống chướng
ngại đoạn,
Hãy thấy bậc giải
thoát,
Thoát ly mọi hệ phược,
Không y trước phân
tích,
Thành từng phần rõ
ràng.
1243. Ngài nói lên con
đường,
Nhiều pháp môn khác biệt,
Giúp mọi người vượt
qua,
Dòng bộc lưu nguy hiểm,
Chính trên pháp bất
tử,
Ðược ngài thường
tuyên thuyết
Chúng con bậc pháp kiến,
Vững trú, không thối
chuyển.
1244. Bậc tạo dựng quanh
mình,
Ngài thâm nhập các
pháp,
Thấy được chỗ vượt
qua,
Tất cả mọi kiến xứ,
Sau khi biết và chứng,
Ngài thuyết tối thượng
xứ.
1245. Pháp như vậy khéo
giảng
Ai có thể phóng dật,
Khi được biết pháp
ấy,
Pháp khéo giảng như
vậy,
Do vậy trong giáo pháp,
Ðức Thế Tôn, Thiện Thệ,
Luôn luôn không phóng
dật,
Hãy đảnh lễ, tu
học.
IX
Nói lên để tán thán
Tôn giả Annà Kondannà (An-nhã Kiều-trần-như):
1246. Sau đức Phật
hiện tại,
Trưởng lão được
Chánh giác,
Chính là Kondannà,
Nhiệt tâm và tinh cần,
Chứng được an lạc
trú,
Sống viễn ly liên tục.
1247. Thực hành lời sư
dạy,
Ðệ tử chứng được
gì,
Tất cả ngài chứng
được,
Nhờ tu học tinh tấn.
1248. Ðại uy lực ba minh,
Thiện xảo tâm tư người,
Phật tử Kondannà
Ðảnh lễ chân Ðạo
Sư.
X
Nói lên để tán thán
Tôn giả Moggallàna, trước mặt Thế
Tôn, khi Tôn giả Moggallàna nhận thấy
tâm của năm trăm vị La-hán, hội
họp tại Hắc Sơn, trên sườn núi
Isigili, tại Rajagaha đều giải thoát
khỏi tái sanh:
1249. Cao trên sườn
đồi núi
Những vị chứng Ba minh,
Những vị đoạn tử
thần,
Các đệ tử hầu hạ,
Bậc Thánh giả Mâu-ni,
Ðã vượt qua đau
khổ.
1250. Ðại thần lực
Mục-liên,
Quán tâm các vị
ấy
Biết họ được giải thoát
Không còn có sanh y.
1251. Như vậy họ hầu hạ,
Gotama Mâu-ni
Ngài vượt qua đau
khổ,
Mọi sở hành đầy
đủ,
Mọi đức tánh vẹn
toàn.
XI
Nói lên để tán thán
Thế Tôn, chói sáng với dung sắc và
huy hoàng của mình, khi Thế Tôn được
chúng Tăng và cư sĩ bao vây xung quanh
tại hồ sen Gaggara ở Campà:
1252. Như mặt trăng giữa
trời
Mây mù được quét
sạch,
Chói sáng như mặt trời,
Thanh tịnh không cấu uế,
Cũng vậy Ngài thật
là,
Ðại Mâu-ni Hiền thánh,
Danh xưng ngài sáng chói,
Vượt qua mọi thế giới.
XII
Nói lên khi ngài mới
chứng quả A-la-hán, suy tư trên kinh nghiệm
của mình và về Bổn sư:
1253. Thuở trước ta
mê thơ,
Bộ hành khắp mọi nơi,
Từ làng này thành
này,
Qua làng khác thành
khác,
Ta thấy bậc Chánh giác
Ðạt bờ kia mọi pháp.
1254. Nghe pháp ta tín thành
Tín khởi lên nơi ta.
1255. Ta nghe lời Ngài dạy,
Về uẩn, xứ và giới,
Sau khi biết, xuất gia,
Bỏ nhà, sống không
nhà.
1256. Vì hạnh phúc số
đông,
Như Lai sanh ở đời,
Ngài tạo ra giải pháp,
Cho nữ nhân, nam nhân.
1257. Vì hạnh phúc của
họ,
Mâu-ni chứng Bồ-đề,
Ngài thấy luật chi phối
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni.
1258. Vì lòng thương
chúng sanh,
Bốn sự thật khéo
thuyết,
Bởi vị có con mắt
Phật, bà con Mặt Trời.
1259. Ngài thuyết Khổ, Khổ
tập
Sự vượt qua đau khổ,
Con đường đạo
Tám ngành,
Ðưa đến khổ an chỉ.
1260. Như vậy là những
điều
Ðược nói lên
như thật,
Và ta được thấy
họ
Ðúng như thật là
vậy,
Ta đạt được
mục đích,
Lời Phật dạy làm
xong.
1261. Thật tốt thay cho ta!
Ðược sống gần
đức Phật,
Trong các pháp phân tích,
Pháp tối thượng, ta
đến.
1262. Ðại thắng trí
tuyệt đích,
Thế giới được thanh
tịnh,
Ðạt Ba minh, thần lực,
Thiện xảo biết tâm người.
XIII
Hỏi giáo thọ sư của
mình là Nigrodha Kappa có nhập Niết-bàn
khi mệnh chung:
1263. Con hỏi bậc Ðạo
Sư,
Bậc trí tuệ tối thắng
Tại Aggàlava
Tỷ-kheo đã mệnh chung,
Có danh vọng danh xưng
Nhập Niết-bàn tịch tịnh.
1264. Nigrodha Kappa
Chính là tên vị
ấy,
Chính Thế Tôn đặt
tên,
Cho vị Phạm-chí ấy!
Vị ấy đảnh lễ
cầu Ngài,
Sống tầm cầu giải
thoát,
Tinh cần và tinh tấn,
Kiên cố thấy Chánh
pháp.
1265. Bạch Thích-ca, chúng
con
Ðệ tử Ngài tất
cả,
Chúng con đều muốn biết,
Thưa bậc Nhãn biến tri!
An trú tai chúng con,
Sẵn sàng để được
nghe,
Ngài Ðạo Sư chúng
con
Ngài là bậc Vô
thượng.
1266. Hãy đoạn nghi chúng
con,
Hãy nói con vị ấy,
Ðã được tịch
tịnh chưa?
Bậc trí tuệ rộng lớn!
Hãy nói giữa chúng
con,
Bậc có mắt cùng
khắp,
Như Thiên chủ Ðế
Thích,
Lãnh đạo ngàn
chư Thiên.
1267. Phàm những cột gút
gì,
Ở đây, đường
si ám,
Dự phần với vô trí
Trú xứ cho nghi hoặc,
Gặp được đức
Như Lai,
Họ đều không còn nữa,
Mắt này mắt tối
thắng,
Giữa cặp mắt loài
người.
1268. Nếu không có người
nào,
Ðoạn trừ các phiền
não,
Như gió thổi tiêu tan,
Các tầng mây dưới
thấp,
Màn đêm tức bao
trùm,
Tất cả toàn thế giới,
Những bậc có hào
quang,
Không có thể chói sáng.
1269. Bậc trí là những
vị,
Tạo ra những ánh sáng,
Con xem ngài như vậy
Ôi bậc trí sáng
suốt.
Chúng con đều cùng đến,
Bậc tu hành thiền quán,
Giữa hội chúng chúng
con,
Hãy nói về Kappa!
1270. Hãy gấp, phát tiếng
lên,
Tiếng âm thanh vi diệu,
Như con chim thiên nga,
Giương cổ lên để
hát,
Phát âm từng tiếng một,
Với giọng khéo ngân nga,
Tất cả bọn chúng con,
Trực tâm nghe lời ngài.
1271. Vị đoạn tận
sanh tử,
Không còn chút dư
tàn,
Vị tẩy sạch phiền não,
Con cầu ngài thuyết pháp,
Kẻ phàm phu không thể,
Làm theo điều nó muốn,
Bậc Như Lai làm được
Ðiều được ước
định làm.
1272. Câu trả lời của
ngài,
Thật đầy đủ
trọn vẹn,
Ðược chơn chánh
nắm giữ,
Bậc chánh trực trí
tuệ,
Hãy chấp tay cuối cùng,
Con khéo vái chào ngài,
Chớ làm con si ám,
Bậc trí tuệ tối cao!.
1273. Sau khi đã được
biết,
Thánh pháp thượng
và hạ,
Chớ làm con si ám,
Bậc tinh tấn tối cao,
Như vào giữa mùa
hè,
Nóng bức khát khao nước
Chúng con ngóng trông
lời,
Hãy mưu sự hiểu biết!.
1274. Kappa sống Phạm hạnh,
Nếp sống có mục đích,
Phải chăng sống như
vậy,
Là sống không uổng
phí!
Vị ấy chứng tịch
tịnh,
Hay còn dư tàn lại,
Ðược giải thoát
thế nào,
Hãy nói chúng con nghe.
Thế Tôn:
1275. Vị ấy trên
danh sắc
Ðã đoạn tận
tham ái,
Thế Tôn ở nơi đây,
Ðã trả lời như
vậy,
Vượt qua được già
chết,
Không còn có dư
tàn,
Thế Tôn nói như vậy,
Bậc tối thắng thứ
năm.
Vangìsa:
1276. Nghe vậy, con tịnh
tín,
Với lời nói của ngài,
Bậc ẩn sĩ thứ bảy!
Và lời hỏi của con,
Không phải là vô
ích!
Và vị Bà-la-môn,
Không có lừa dối
con.
1273. Nói gì thời làm
vậy,
Thật xứng đệ tử
Phật,
Chặt đứt lưới
rộng chắc,
Của thần chết xảo quyệt.
1278. Ôi Thế Tôn, Kappa,
Thấy căn nguyên chấp
thủ,
Thật sự đã vượt
qua,
Thế lực của Ma vương,
Thế lực thật khó vượt.
1279. Ngài lớn hơn chư
Thiên,
Con đảnh lễ kính
Ngài!
Con đảnh lễ con Ngài!
Bậc tối thượng hai
chân
Bậc Hậu huệ, Ðại
hùng!
Bậc Long tượng đích
tôn.
Như vậy, Tôn giả Vangìsa
nói lên những câu kệ của mình.
-[Hết, Trưởng Lão Tăng
Kệ]-
[Phẩm trước][Mục
lục][Trưởng Lão Ni Kệ][
^ ]
|